Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH vào VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ cán bộ cấp xã luan van dong quyen (in)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.65 KB, 123 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [57, tr.309], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [57, tr.313]. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và vai trò quan trọng của
công tác cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước
luôn quan tâm chăm lo đến công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
các ngành đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng” [12, tr.34].
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân. Để giữ vững ổn định xã hội và khai thác tốt mọi nguồn lực nhằm phát
triển kinh tế - xã hội thì phải ln chú trọng tới xây dựng chính quyền cơ sở.
Cấp cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn là nơi nhân dân cư trú sinh sống, là
cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với nhân dân, là nơi tổ chức, vận
động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân; phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân, khai thác mọi tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh
tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Vì vậy, việc chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn có đủ phẩm chất, năng lực là
nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp
xã, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban
hành Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002, về đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
quần chúng nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của




2
nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức
dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm
lo cơng tác đào tạo, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với
cán bộ cơ sở [15, tr.167-168].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
X cũng xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, thể
chế hoá và từng bước nhất thể hố chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính
đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở” [19, tr.6].
Cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp thực hiện và bảo đảm
trên thực tế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có được tơn trọng và bảo đảm
thực hiện hay không, trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của chính
quyền cấp xã, mà thơng qua đó là chất lượng của cán bộ cấp xã. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [57, tr.460].
Thực tiễn cho thấy, nơi đâu có đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh thì nơi
đó tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế, văn hố phát triển; quốc phòng,
an ninh được giữ vững. Ngược lại, cơ sở nào đội ngũ cán bộ không đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, thì địa phương đó sẽ gặp khó khăn, kinh tế - xã hội
chậm phát triển, thậm chí tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây “điểm nóng” về
chính trị. Điều đó cho thấy, cán bộ cấp xã có vai trị rất quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở, tác động trực
tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Đắk Nông là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Nam Tây Nguyên được
thành lập ngày 01/01/2004 theo Nghị quyết số 22/2003/NQ-QH11, ngày
26/11/2003 của Quốc hội khoá XI, trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk thành 2
tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nơng. Tồn tỉnh có 71 xã, phường, thị trấn. Dưới sự

lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Nông, cùng với sự chỉ đạo và
thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, trong những năm qua,


3
đội ngũ cán bộ cấp xã đã phát huy được vai trò, trách nhiệm trong hoạt động
quản lý nhà nước và đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, so
với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương thì đội ngũ cán bộ
cấp xã cịn nhiều hạn chế, bất cập nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
quản lý nhà nước ở cơ sở, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, xã hội nói chung. Do xuất phát điểm thấp, điều kiện kinh tế - xã
hội cịn nhiều khó khăn, một bộ phận khá lớn cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo
về chun mơn, nghiệp vụ theo vị trí cơng tác; đảm nhận vị trí cơng tác khơng
đúng với chun môn được đào tạo; việc tập huấn kiến thức, kỹ năng cơng tác
theo đúng vị trí chức năng, nhiệm vụ hàng năm chưa được quan tâm đầu tư
đúng mức. Việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cấp xã mới chỉ đáp ứng yêu cầu về
bằng cấp mà chưa chú ý đến việc phát huy được hiệu quả công tác trong thực
tế. Trong công tác quản lý cán bộ cấp xã mới chỉ dừng lại ở quản lý về bằng
cấp, vị trí chức danh, ngạch bậc lương mà chưa chú ý đến chất lượng và hiệu
quả công tác, phục vụ nhân dân. Việc đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng cũng chỉ
tập trung theo hệ thống bằng cấp mà chưa thực hiện một cách đồng bộ, tập
trung vào vấn đề cốt lõi là chất lượng để phục vụ nhân dân. Bên cạnh đó sự
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đội ngũ cán bộ đã dẫn đến
những biểu hiện suy thối về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, ức hiếp dân, mất dân chủ, chạy chức, chạy quyền,
chạy bằng cấp, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, ý thức tổ chức kỷ luật kém,
phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng; lợi
dụng chức quyền làm trái các quy định của Đảng và Nhà nước, gây tổn hại
khơng nhỏ đến uy tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và

Nhà nước. Xuất phát từ thực tế đó và yêu cầu cấp thiết của địa phương, tác
giả lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cán bộ cấp xã ở tỉnh Đắk Nông
hiện nay dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ
Khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.


4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói chung và cơng tác cán bộ nói
riêng khơng cịn là một vấn đề mới nhưng ln là đề tài có tính thời sự. Vấn
đề này đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và
hoạt động thực tiễn tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm tịi, khảo sát. Đến nay đã
có nhiều cơng trình được cơng bố dưới những góc độ, mức độ, khía cạnh,
hình thức thể hiện khác nhau đã được đăng tải và công bố trên một số sách,
báo, tạp chí ở trung ương và địa phương như:
2.1. Các cơng trình viết liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và cơng tác cán bộ
- Trần Đình Huỳnh (Chủ biên) (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
- Đặng Xuân Kỳ (Chủ nhiệm), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
Chuyên đề khoa học cấp Nhà nước (KX - 02).
- Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh (2005), Một số vấn đề trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
- Đức Vượng, (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Phúc (2012), “Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ

lãnh đạo cấp chiến lược”, Đặc san Hồ Chí Minh, (4).
- Đặng Sĩ Lộc (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).
- Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và
huấn luyện cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).


5
2.2. Các cơng trình viết về cán bộ và cơng tác cán bộ trong đổi mới
- Hà Quang Ngọc (2000), Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ, cơng chức nhà nước hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh (2006), Vận dụng và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên)(2001), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bùi Đức Lại (2007), “Cán bộ và cơng tác cán bộ trong tình hình mới”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, (2).
- Nguyễn Văn Vinh (2012), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”, Tạp
chí Tổ chức nhà nước, (11).
2.3. Các cơng trình đề cập đến sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ
- Nguyễn Mậu Dựng (1996), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Khoa
học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hậu (2003), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơng
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

- Lê Thị Lan Hương (2006), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Cơng Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


6
- Phạm Ngọc Nhân (2013), “Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (1).
- Nguyễn Thị Kim Nhung (2009), ”Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh
về cán bộ vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Minh Quế (2007), “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
- Trần Đình Thu (2007), “Bốn giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
- Nguyễn Thị Lương Uyên (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính
trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội...
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích một cách có hệ thống, hồn
chỉnh, hiệu quả và tương đối toàn diện về vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và cơng tác cán bộ dưới góc độ lý luận cũng như sự vận dụng lý luận
đó vào việc nâng cao chất lượng cán bộ tại một số địa phương cụ thể - đó đều
là những cơng trình, sản phẩm trí tuệ có giá trị, ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận
và thực tiễn, là cơ sở để kế thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo.

Mặc dù vậy, trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xây dựng cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và cơng tác cán bộ vẫn cịn là vấn đề mang tính thời sự cấp thiết cần được tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Cho đến nay chưa có cơng trình nào
nghiên cứu trực tiếp về vấn đề vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về chất
lượng cán bộ vào việc nâng cao chất lượng cán bộ cấp xã trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông với tư cách là một luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị. Vì vậy,
việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị của tỉnh Đắk Nơng nói
riêng cũng như các tỉnh Tây Ngun nói chung.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm sáng tỏ quan điểm Hồ Chí Minh về chất lượng cán bộ và
sự vận dụng tư tưởng của Người vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp xã ở tỉnh Đắk Nông hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản quan điểm Hồ
Chí Minh về cán bộ và chất lượng cán bộ.
- Phân tích thực trạng chất lượng của cán bộ cấp xã của tỉnh Đắk Nơng,
qua đó chỉ ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục cũng như phân tích các
nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ cấp xã của tỉnh Đắk Nông.
- Đề xuất các phương hướng, nội dung, giải pháp nâng cao chất lượng
cán bộ cấp xã của tỉnh Đắk Nông nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắk Nơng hiện nay,
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh tại địa

phương, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và chất lượng
cán bộ.
- Những quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và của
Tỉnh uỷ, UBND - HĐND tỉnh Đắk Nông về công tác cán bộ.
- Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Đắk Nông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ một số quan điểm cơ bản của
Hồ Chí Minh về cán bộ và chất lượng của cán bộ. Thực trạng chất lượng cán


8
bộ cấp xã ở tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua và phương hướng xây dựng
thời gian tới.
- Về không gian: Luận văn tiến hành khảo sát tại 41 xã trên địa bàn 8
huyện, thị xã của tỉnh Đắk Nông đối với các chức danh cán bộ cấp xã.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu chất lượng cán bộ cấp xã ở tỉnh
Đắk Nông giai đoạn từ năm 2005 đến 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường
lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cán bộ, công tác cán bộ, chất lượng đội
ngũ cán bộ nói chung, chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã nói riêng; đồng thời
luận văn kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả của các tác giả đã
nghiên cứu vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp đồng thời nhiều phương pháp nghiên cứu để
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, trong đó tập trung vào một số phương pháp cơ
bản sau đây:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Các tài liệu chủ yếu được sử dụng để
nghiên cứu là các tài liệu đó được giới thiệu tại Phần mở đầu, Mục 2 - Tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Việc nghiên cứu đó cung cấp cơ sở lý
luận, những luận cứ cho việc đánh giá chất lượng của cán bộ nói chung,
những cơ sở đề ra giải pháp cho việc nâng cao chất lượng cán bộ cấp xã.
- Phương pháp thống kê: Đề tài đã tiến hành thu thập thông tin về chất lượng
cán bộ cấp xã tỉnh Đắk Nông do Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn: Đề tài trực tiếp tiến hành phỏng vấn tại 41
xã trên địa bàn tỉnh đối với cán bộ cấp xã.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Được tiến hành tại 41 xã được lựa
chọn ngẫu nhiên trên địa bàn 8 huyện, thị xã của tỉnh.


9
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ và chất
lượng cán bộ, qua đó tiếp tục khẳng định giá trị to lớn của nó đối với cách
mạng Việt Nam nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã nói riêng.
- Làm rõ thực trạng về chất lượng cán bộ cấp xã của tỉnh Đắk Nông.
Rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm và hạn
chế, từ đó làm tiền đề để xây dựng và nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ
cấp xã ở tỉnh Đắk Nông.
- Đề xuất và đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ cấp xã
trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách và quy hoạch, đào

tạo cán bộ cấp xã ở tỉnh Đắk Nông.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhất là ở Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị
xã của tỉnh Đắk Nơng.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu
liên quan sau này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


10
Chương 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ
1.1. MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ

1.1.1. Khái niệm “cán bộ”
Cán bộ là một thuật ngữ quen thuộc không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
các nước XHCN trên thế giới. Ở nước ta, thuật ngữ cán bộ được sử dụng từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) và được sử dụng phổ biến từ
sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để chỉ một lớp người là
những chiến sỹ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ hy
sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do
cho dân tộc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng
nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng
(năm 2006), cán bộ được định nghĩa như sau:
- Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đồn thể.

- Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân
biệt với người khơng có chức vụ [72, tr.67].
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu cán bộ theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước,
làm việc trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính
trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ
trung ương đến địa phương cơ sở.
Nghĩa thứ hai, người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một
tổ chức để phân biệt với người khơng có chức vụ, như cán bộ và chiến sĩ; cán
bộ và công nhân nhà máy; cán bộ đồn thanh niên…. Đây chính là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người có chức vụ, phân biệt với người


11
thường, khơng có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thơng qua
việc bầu cử dân chủ hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Như vậy, đối với cấp cơ sở (xã,
phường, thị trấn), cán bộ được hiểu theo nghĩa thứ hai, tức là những người có
chức vụ trong hệ thống tổ chức bộ máy ở cấp cơ sở.
Theo quy định tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày
13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ,
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.

Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và theo quy định tại Nghị định
số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động khơng chun trách ở cấp xã”, thì cán bộ cấp xã gồm
có các chức danh sau đây:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam;
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.


12
1.1.2. Khái niệm “chất lượng cán bộ”
Hiện nay có nhiều quan niệm, khái niệm về chất lượng cán bộ và được
hiểu theo các góc độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng
(năm 2006), “chất lượng” hiểu ở nghĩa chung nhất là “Cái tạo nên phẩm chất,
giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” [72, tr.44].
Theo một cơng trình khoa học nghiên cứu Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước thì “Chất lượng của đội ngũ cán bộ là sự tổng hợp chất lượng của từng
người cán bộ. Mỗi một cán bộ mạnh, có đủ đức, đủ tài sẽ tạo nên chất lượng
và sức mạnh tổng hợp của toàn đội ngũ” [92, tr.319]
Như vậy, chất lượng của cán bộ được hiểu là tổng hợp những phẩm
chất nhất định về sức khoẻ, trí tuệ khoa học, chun mơn nghiệp vụ, phẩm
chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực; ln gắn bó với tập thể, với cộng đồng

và tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, yêu cầu chất lượng đối với mỗi
người trong xã hội nói chung vốn đã cao thì yêu cầu đối với chất lượng cán bộ
càng cao hơn - đòi hỏi người cán bộ phải gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và
thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của người cán bộ.
Chất lượng của cán bộ được đánh giá qua các khía cạnh sau:
- Phẩm chất chính trị: đó là quan điểm, lập trường, tư tưởng của người
cán bộ, sự tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng của Đảng, chấp hành tốt chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Phẩm chất đạo đức: được thể hiện qua lối sống của cán bộ cấp xã; sự
tín nhiệm của nhân dân và uy tín của họ trước tập thể.
- Năng lực cơng tác: Bao gồm trình độ học vấn, chun mơn nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước; năng lực tư duy lý luận, năng lực


13
tổ chức thực tiễn, năng lực sáng tạo và tính quyết đoán, phong cách làm việc. Cùng
với các yếu tố: sức khoẻ, thâm niên công tác, thành phần, dân tộc, giới tính…
Trong giai đoạn hiện nay, phẩm chất chính trị của cán bộ phải được đặt
lên hàng đầu, là tiêu chuẩn quan trọng quyết định chất lượng của mỗi cán bộ.
Bất luận trong hoàn cảnh nào, họ cũng phải là người cầm lái giữ vững định
hướng XHCN, trung thành với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, phấn đấu
hết mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; có tinh thần trách
nhiệm, gắn liền với hiệu quả hoạt động, nói phải đi đơi với làm, mang lại lợi
ích thiết thực cho nước, cho dân, gắn liền trách nhiệm với mỗi cá nhân, phải
thật tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc, là “công bộc”, là “đày tớ” của dân,
trung thực, dám đấu tranh cho lẽ phải, công bằng. Vì vậy, yêu cầu về đạo đức
của cán bộ là phải thật sự: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư; u thương con người và có tinh thần quốc tế trong sáng. Nhân

dân sẽ dựa vào những chuẩn mực đó để lựa chọn, bầu cán bộ vào các chức danh,
đồng thời sẽ loại bỏ những người nào vi phạm đạo đức cách mạng.
Bên cạnh đó, trình độ năng lực cũng là nhân tố quan trọng quyết định
chất lượng, hiệu quả công việc, là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng
cán bộ ở bất cứ thời kỳ nào. Yêu cầu về trình độ, năng lực của cán bộ phải
toàn diện, vừa rộng, vừa sâu. Cán bộ không chỉ giỏi về chuyên môn, hiểu biết
những kiến thức liên quan đến nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý mà cịn có khả
năng nắm bắt, xử lý được các thông tin, các quy luật về kinh tế - xã hội, vận
dụng các quy luật đó trong lãnh đạo, quản lý ở từng điều kiện, hoàn cảnh,
từng cương vị một cách hiệu quả. Đó là năng lực tồn diện, tổng hợp, ln thể
hiện bằng hiệu quả thực tế, trên cơ sở đó mà đánh giá chất lượng cán bộ.
Như vậy, một đội ngũ cán bộ có chất lượng là đội ngũ có đủ phẩm chất và
năng lực nắm bắt được những yêu cầu của thời đại, có đủ tài năng, đạo đức và ý
chí để thiết kế và tổ chức thực hiện những kế hoạch của tiến trình CNH, HĐH đất
nước trên mọi lĩnh vực, đảm bảo thực hiện có kết quả mục tiêu đã đề ra.


14
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ
Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng
Chất lượng của cán bộ xã được hình thành và chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi cơng tác đào tạo, bồi dưỡng. Có thể thấy, qua đào tạo, bồi dưỡng mà mỗi
người tiếp thu được tri thức, kinh nghiệm, các quy luật vận động của tự nhiên,
xã hội và tư duy để vận dụng vào thực tiễn để từ đó đề ra phương hướng, mục
tiêu trong hành động, tự hoàn thiện bản thân và để phấn đấu vươn lên. Hiện
nay cán bộ cấp xã nhìn chung cịn hạn chế về trình độ chun môn. Thực tế
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó có cả việc cấp xã chưa quan
tâm chú trọng và nguồn nhân lực có trình độ chun mơn chưa mặn mà với
cấp xã; tại nhiều địa phương cán bộ cấp xã đều trưởng thành qua q trình
thực tiễn cơng tác và học tập dần lên, do đó thiếu nền tảng kiến thức chưa

đảm đương được nhiệm vụ trong tình hình mới. Đánh giá về nguyên nhân của
những hạn chế, yếu kém đó, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hànhTrung ương
lần thứ năm khoá IX chỉ rõ: “…Chưa nhận thức đúng vai trị, vị trí của cơ sở,
quan liêu, để một thời gian khá dài khơng có chính sách đồng bộ đối với cán
bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ ở cơ sở” [15, tr.153].
Thứ hai, cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm
Việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ cấp xã hiện nay thực hiện theo cơ
chế Đảng cử hoặc dân bầu và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cán bộ cấp
xã. Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm là cách thức để hình thành nên đội ngũ cán
bộ cấp xã và có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo ra đội ngũ cán bộ cấp xã
có năng lực hay khơng. Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng, được thực hiện
công khai, dân chủ, minh bạch sẽ khuyến khích những người có năng lực và
phẩm chất, có nhu cầu cơng tác thực sự, có tâm huyết với cơng việc ở cơ sở
tham gia thi tuyển, xét tuyển, và do đó sẽ có được những cán bộ thực sự có
trình độ chun mơn, năng lực và phẩm chất tốt đáp ứng yêu cầu công tác. Vì
thế u cầu đặt ra là phải có cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng, minh bạch,
tạo ra mơi trường bình đẳng, lành mạnh để tuyển dụng được những cán bộ
cấp xã thực sự có năng lực và phẩm chất, có sự gắn bó, tâm huyết với cơ sở.


15
Thứ ba, chế độ đãi ngộ, chính sách tiền lương
Chế độ đãi ngộ và chính sách tiền lương có tác động trực tiếp đến đời
sống và tâm lý của cán bộ. Đó là nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống và tái
sản xuất sức lao động cho cán bộ. Nó trực tiếp tác động đến cán bộ trên cả 2
mặt tích cực và tiêu cực. Chính sách tiền lương phù hợp, đảm bảo cuộc sống
sẽ khuyến khích cán bộ an tâm cơng tác, nỗ lực phấn đấu, hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao và hạn chế được những hành vi sách nhiễu đối với nhân
dân. Ngược lại chính sách tiền lương thấp, không đảm bảo cuộc sống sẽ khiến
cán bộ thiếu gắn bó, tâm huyết với cơng việc và là một trong những nguyên

nhân dẫn đến những hành vi sách nhiễu, tham ô, tham nhũng. Để khắc phục
những hạn chế đó Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ:
“Cải cách cơ bản tiền lương đối với cán bộ công chức nhà nước. Tiền tệ hoá
đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương bảo đảm mức sống tương ứng với
nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội”. Điều này cho thấy vai trị của chính sách
tiền lương đối với việc thu hút người tài vào khu vực công, tránh hiện tượng
chảy máu chất xám trong cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, cơng tác quản lý, kiểm tra, giám sát
Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc nâng cao chất lượng cán bộ cấp xã. Thông qua công tác quản lý, kiểm
tra, giám sát cán bộ cấp xã mới có thể phát hiện được những ưu điểm cũng
như những tiêu cực, bất cập nảy sinh từ việc thực thi nhiệm vụ của cán bộ.
Qua đó để khen thưởng những nhân tố tích cực, xử lý kịp thời những sai
phạm nhằm phát huy nhân tố tích cực, tạo lập lịng tin của nhân dân đối với
Đảng và chính quyền. Thông qua công tác này cơ quan quản lý cán bộ cấp xã
nắm bắt được đặc điểm, tình hình thực tế của cán bộ cấp xã, những ưu điểm,
khuyết điểm, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để có biện pháp khắc
phục. Tuy nhiên, do tâm lý địa phương, sự nể nang trong công tác, nhiều nơi
hoạt động cơng vụ chưa thốt khỏi cách nghĩ, cách làm mang tính tiểu nơng,
manh mún cho nên những hiện tượng tiêu cực như xuề xòa, nể nang, dựa


16
dẫm, cục bộ địa phương…trong công tác quản lý vẫn khá phổ biến, dẫn đến
việc đánh giá thiếu chính xác. Đánh giá cán bộ còn là cơ sở để quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng…do đó những hạn chế trong
cơng tác quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá cán bộ xã như vừa nêu ở trên
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ xã.
1.1.4. Vị trí, vai trị của cán bộ cấp xã
Cán bộ cấp xã có vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn

cấp của nước ta hiện nay. Bởi vì, cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư
trú, vì vậy cán bộ cấp xã là những người trực tiếp thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên
giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hàng ngày của nhân dân ở địa phương.
Trong hệ thống tổ chức chính quyền ở nước ta hiện nay, cán bộ cấp xã
có vị trí “gần dân” nhất, họ trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, làm cầu nối giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước. Họ có vai trị rất quan trọng trong việc quyết
định hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở nói riêng và hệ thống chính trị nói
chung. Cán bộ cấp xã có vị trí trực tiếp thực hiện và bảo đảm trên thực tế việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân có được tôn trọng và bảo đảm thực hiện hay
không, trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của chính quyền cấp xã, mà
thơng qua đó là chất lượng của cán bộ cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi cơng việc đều xong xuôi” [57, tr.460].
Ở nước ta, cấp xã có vai trị đặc biệt quan trọng là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền
lực nhân dân. Vai trò của cán bộ cấp xã được thể hiện qua các mối quan hệ:
với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với cơng
việc và với quần chúng nhân dân, cụ thể như sau:
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ cấp xã là mối


17
quan hệ nhân - quả. Cán bộ cấp xã có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể cụ
thể hố, bổ sung hồn chỉnh đường lối và tổ chức thực hiện tốt đường lối. Nếu
cán bộ cấp xã không vững mạnh thì cho dù đường lối, nhiệm vụ chính trị có
đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, bộ cán cấp xã góp phần quyết
định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời
nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước. Vì vậy,
cũng như vị trí của cán bộ cấp xã, vai trò của cán bộ cấp xã cũng thể là cầu
nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân.
Cán bộ cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý và tổ chức công
việc ở cấp xã. Mỗi cán bộ cấp xã được giao thực hiện một khối lượng cơng
việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính họ cũng có khả năng đóng góp
một khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước cấp trên để xây
dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
Cán bộ cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ
cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn các
hành vi vi phạm pháp luật. Thông qua hoạt động của cán bộ cấp xã, nhân dân thể
hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Tóm lại, cán bộ cấp xã có vị trí, vai trị hết sức to lớn, trong nhiều năm
qua, đội ngũ cán bộ cấp xã ở nước ta đã khẳng định được vị trí, vai trị quan
trọng của mình, đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở cơ sở, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


18
1.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHẤT
LƯỢNG CÁN BỘ

1.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ
Khi khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch
sử, học thuyết Mác - Lênin rất coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ, trước hết

là vai trò của người lãnh đạo đứng đầu đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
C.Mác-Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ của giai
cấp vơ sản. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính q trình
truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã khẳng định:
“Tư tưởng căn bản khơng thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng
thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [50, tr.181]. Nghĩa
là muốn cho tư tưởng, tri thức, lý luận được thực hiện, phải có tổ chức hoạt
động thực tiễn, tổ chức con người lại với những phương tiện vật chất nhất
định hành động theo đúng tư tưởng, trí tuệ, lý luận đó. Vấn đề cán bộ, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý được đặt ra chính là để đáp ứng u cầu đó.
Những quan điểm trên là nền tảng vơ cùng quan trọng trong cơng tác cán bộ
của các chính đảng cách mạng sau này.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng thời kỳ Đảng chưa nắm
chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có điều kiện để bàn nhiều về vấn đề
cán bộ và công tác cán bộ, nhưng hai ông rất quan tâm đến việc xây dựng một
đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng cộng sản; lãnh
đạo, tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Đến V.I.Lênin,
người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đặc biệt coi trọng việc
xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chun nghiệp cho phong trào vơ
sản. Đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bơnsêvích Nga,
những người giúp Đảng “…đảo ngược nước Nga lên” [48, tr.162], “Những nhà
chính trị của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vơ sản và khơng
thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản” [49, tr.80-81] và “Trong lịch sử
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền trị, nếu nó khơng đào tạo ra được


19
trong hàng ngũ của mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiền phong có
đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [47, tr.473].
Khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề cán bộ đã được quan tâm, khi

có chính quyền, vấn đề cán bộ lại càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn.
Hàng loạt vấn đề được đặt ra sau khi Đảng giành được chính quyền, rất nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo, quản lý “Khơng có
một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu khơng có một tổ chức ổn
định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [47, tr.158]. Vì
vậy, Đảng phải gấp rút lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ mạnh
cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Thực tiễn
cấp bách đó địi hỏi Đảng Cộng sản Nga và V.I.Lênin phải tập trung giải
quyết. Chính vì vậy, những vấn đề quan trọng về cán bộ và công tác cán bộ đã
được V.I.Lênin bàn đến rất nhiều ở giai đoạn Đảng đã giành được chính
quyền và tập trung ở thời kỳ sau khi chính quyền được thiết lập trong cả
nước, khi nước Nga bước vào thời kỳ ổn định, xây dựng chế độ xã hội mới.
Theo V.I. Lênin, đã là người cán bộ thì đều có vai trị là người đưa
đường, chỉ lối cho phong trào quần chúng thông qua việc đề ra mục tiêu, vạch
ra đường lối chủ trương, chiến lược và sách lược của phong trào. Đó chính là
cái “ý chí duy nhất của những người lãnh đạo” [48, tr.245], “địi hỏi quần
chúng phải phục tùng vơ điều kiện” [48, tr.245]. Người cán bộ cịn có vai trị
tun truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng, kế tiếp là tổ chức quần chúng
đấu tranh, thực hiện thi đua nhau nhằm đạt được mục tiêu cách mạng.
Như vậy, từ C.Mác, Ph.Ăngghen đến V.I. Lênin, có thể thấy các nhà
kinh điển đã hình thành một hệ thống quan điểm về tiêu chuẩn chung nhất đối
với mỗi cán bộ cộng sản là tự rèn luyện đầy đủ cả hai mặt năng lực thực tiễn
và tư duy lý luận. Nhưng chỉ có như vậy thơi thì chưa đủ mà cịn phải có đạo
đức cách mạng. Có lúc Lênin khái quát thành điểm chung nhất là “phẩm chất
cao quý” của người cán bộ, trong đó bao hàm cả mặt năng lực mà “lịng trung
thành với sự nghiệp cách mạng” là điều kiện, là tiêu chuẩn quan trọng nhất


20
đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo ở bậc cao nhất trong hệ

thống tổ chức quyền lực của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm nhuần các quan điểm đó, nhận thức sâu
sắc vị trí, vai trị của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Người đã
giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, tìm cách giải quyết một cách linh
hoạt và tồn diện vấn đề đó phù hợp với thực tế của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu
nước đến khi sáng lập và lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ cho sự nghiệp cách
mạng. Ngay trong những năm 20 của thế kỷ XX, trên các phương tiện tuyên
truyền mang đậm dấu ấn của Người như báo “Le Paria” (1922), “Bản án chế
độ thực dân Pháp” (1925), sách “Đường cách mệnh” (1927)… Người đã đề
cập ở những mức độ khác nhau về vị trí, vai trị của người cán bộ. Trong
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người nhận thấy: “ở Đơng
Dương chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong
muốn… Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức” [54, tr.143].
Vì vậy, Người đặc biệt yêu cầu Quốc tế công sản phải có trách nhiệm giúp
đỡ các nước thuộc địa trong việc đào tạo, huấn luyện cán bộ cách mạng. Và
sau đó, Người cũng đã trực tiếp tổ chức đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ
làm hạt giống đỏ cho cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong quá trình cùng
Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề cán bộ được Người đề cập
thường xun và nhất qn.
Thơng qua các bài viết và nói chuyện của Người, ta thấy Người có quan
niệm về người cán bộ rất cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng” [57, tr.309]. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể trong


21

sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của
cán bộ do Đảng, Nhà nước, đồn thể phân cơng và nhân dân giao phó.
Từ đó, khi bàn về vị trí, vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh ln đặt cán
bộ trong sự tổng hòa các mối quan hệ đa chiều. Chiều sâu trong tư duy chính
trị của Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ luôn được Người coi trọng và đặt cán
bộ là cơ sở, là gốc của mọi sự thành cơng trong sự nghiệp cách mạng. Người
nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [57, tr.309]. Bởi lẽ theo Người,
cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo, sơng thì phải có nguồn, khơng
có nguồn thì sơng cạn. Vì vậy, trong mọi việc mà khơng có cán bộ thì khơng
thể hồn thành “Bất cứ cơng việc gì thiếu cán bộ, khó thực hiện được” [56,
tr.295]. Hơn nữa, Hồ Chí Minh khơng dừng lại ở đó, ở chỗ có hay khơng có
cán bộ để cho cơng việc mà Người ln tìm đến điểm gốc của vấn đề, là chất
lượng cán bộ để từ đó mới khẳng định: “Công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém” [57, tr.313]. Như vậy, Người đã đặt cán bộ ở vị
trí, vai trị là quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
Khi có chính quyền, Hồ Chí Minh khẳng định vai trị của cán bộ “Cán
bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem
chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [57, tr.68].
Hồ Chí Minh quan niệm cán bộ “là cái dây chuyền của bộ máy”. Nếu
dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy
cũng tê liệt. Trong đời sống kinh tế - xã hội, sự chuyển động của xã hội được
coi như một “cỗ máy” khổng lồ. Vì vậy, cán bộ và đội ngũ cán bộ là mắt xích
liên kết các bộ phận của bộ máy. Trong “cỗ máy” đó, cán bộ là dây chuyền, vị
trí là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Đây là một “dây chuyền”
đặc biệt. Bởi vì, theo Người: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt



22
chính sách cho đúng” [57, tr.309]. Như vậy, nếu cán bộ dở thì một mặt chính
sách khơng thể thực hiện được, mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính
sách mới sẽ sai lầm hoặc khơng phù hợp.
Khi nói đến cán bộ là nói đến “tiền vốn của Đồn thể”. Có vốn mới làm
ra lãi. Bởi bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức
là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn [58, tr.356]. Hơn
nữa, Hồ Chí Minh đã đi xa hơn, sâu hơn khi chỉ ra cội rễ của vấn đề một cách
cụ thể, vừa có tính tổng qt: Khi đã có chính sách đúng thì sự thành cơng
hay thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn
cán bộ và nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách dù đúng mấy
cũng vơ ích. Đồng thời, Người khẳng định vai trò của người cán bộ trong xã
hội mới không phải là “ông quan cách mạng”, càng khơng phải là người có
“quyền sinh, quyền sát” như các ông chúa thời phong kiến, mà cán bộ phải là
người đại diện, đại biểu cho nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ mà
nhân dân giao phó. Nếu thiếu họ thì khơng có cách mạng, mục tiêu đề ra
khơng thể hồn thành, cán bộ có vai trị quyết định đối với công việc “Muôn
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [57, tr.X].
Khi bàn đến vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh không đề cập đến cán bộ
một cách chung chung mà rất cụ thể. Đó là “cán bộ tốt”, “cán bộ kém”.
Khẳng định vai trò của người cán bộ cần phải hiểu rằng khơng phải là cán bộ
thì chỉ có tính tốt. Mà cán bộ cũng là con người, mà đã là con người ai cũng
có tính tốt và tính xấu. Song đã làm một người cán bộ cách mạng thì phải cố
gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì “tính xấu của một
người thường chỉ có hại cho người đó; cịn tính xấu của một đảng viên, một
cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân” [57, tr.294].Và Người cũng
đã chỉ ra đã là cán bộ cơ quan, các đoàn thể, dù ít hoặc nhiều đều có quyền
hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền
mà thiếu lương tâm, là cán bộ xấu, là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút.

Người viết: “Những người trong các cơng sở đều có nhiều hoặc ít quyền


23
hành. Nếu khơng giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân” [57, tr.122]. Như vậy, theo Người: người cán bộ phải
nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học
hỏi quần chúng, dựa vào quần chúng để thực hiện nhiệm vụ của người lãnh
đạo; phải thật thà ngay thẳng không được giấu dốt, giấu khuyết điểm. Khơng
kiêu ngạo, chủ quan. Phải chí cơng vơ tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ;
có ý thức tổ chức kỷ luật cao, khơng độc đốn cá nhân, tự cho phép mình
đứng ngồi kỷ luật; có ý thức tự phê bình và phê bình rất cao.
Nhấn mạnh vai trị của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, điều đó
khơng có nghĩa là “cán bộ quyết định tất cả”. Mà “Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách
mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng
của chủ nghĩa Mác - Lênin” [67, tr.672]. Hồ Chí Minh cho rằng, đồng thời với
những tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, người cán bộ cách mạng còn phải
có phong cách làm việc. Muốn vậy phải chống bệnh quan liêu, chủ quan, hình
thức, làm việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi chỉ tay năm ngón... Người yêu
cầu phải làm tốt công tác cán bộ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong từng
giai đoạn cách mạng.
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới, vai trò của người cán bộ được
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Người viết: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có
người, mà trong số người muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và
cốt cán” [63, tr.598]. Cán bộ có tư tưởng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
mới quyết tâm thi hành, hướng dẫn quần chúng nhân dân làm mọi việc như:
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống lại sự phá hoại của kẻ
thù, với những cái cũ, cái lỗi thời. Như vậy, trong bất cứ giai đoạn nào của sự

nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đều khẳng định, vị trí, vai trò quan trọng của
người cán bộ và được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực khi gắn với đường
lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cán bộ các cấp, nhưng Người đã dành sự


24
quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Bởi đội ngũ này là những người
gần dân nhất, đóng vai trị then chốt trong việc hồn thành mọi nhiệm vụ. Người
viết: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [57, tr.460]. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau
trong tổ chức Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung ương là những cán bộ cấp
chiến lược có trách nhiệm hoạch định, hoặc gắn với việc hoạch định chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng thì cán bộ cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo
xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Q trình thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ này,
Đảng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng” [12, tr.66]. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cấp,
các ngành có vị trí, vai trị quan trọng, đội ngũ cán bộ ở cơ sở lại càng có vai
trị quan trọng hơn. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc
biệt thực tiễn cách mạng nước ta cũng khẳng định điều đó.
1.2.2. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền
đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Người cho rằng, đạo đức là cái gốc của
người cách mạng: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có

nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” [57, tr.292]. Đối với người cán bộ, nếu thiếu hoặc yếu về
đạo đức cách mạng thì khơng thể làm tốt những cơng việc được giao. Chỉ khi
có đầy đủ đạo đức cách mạng thì người cán bộ mới có đủ điều kiện làm cách
mạng “Muốn giải phóng dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc
to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa
thì cịn làm nổi việc gì” [57, tr.293]. Như vậy, đạo đức là hết sức cần thiết cho


25
tất cả mọi người và đặc biệt cần thiết cho người cán bộ: “Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang” [63, tr.601] và người cán bộ phải giữ được đạo đức cách mạng,
đó mới là người cán bộ chân chính. Bởi vì “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt
là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không” [61, tr.354].
Nội dung đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện
một cách dễ hiểu, thiết thực nhưng cũng đầy đủ và tồn diện. Tiêu chí đạo đức của
người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức cụ thể, đó là:
Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân
Trong đạo đức truyền thống của dân tộc ta phạm trù đạo đức “Trung”
và “Hiếu” luôn là cặp phạm trù quan trọng hàng đầu trong hệ thống những
chuẩn mực đạo đức của con người.
“Trung”, “Hiếu” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khơng phải là
những khái niệm mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có
từ xa xưa, bắt nguồn từ tư tưởng đạo đức Phương Đơng nói chung và đạo đức
truyền thống Việt Nam nói riêng. Trong xã hội phong kiến quan niệm “Trung”
là trung thành với vua, còn “Hiếu” là hiếu với cha, mẹ. Tuy nhiên, đến Hồ Chí
Minh vẫn là khái niệm “Trung”, “Hiếu” nhưng được Người phát triển lên tầm
cao mới, đưa vào nội dung mới, phản ánh đạo đức cách mạng cao hơn, rộng

hơn phù hợp với thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, “Trung” là trung với nước, cịn “Hiếu” là hiếu với
dân, quan niệm cách mạng thực sự về đạo đức của Hồ Chí Minh. “Trung với
nước” là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh
của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội,
trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Mối quan này
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Với cán bộ điều đó cũng có nghĩa là phải “suốt đời đấu tranh cho dân tộc, cho
Tổ quốc. Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết” [57, tr.305]. Đồng


×