Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Luan van thac si - Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.38 KB, 108 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ đang được tập trung xây dựng và
phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, ngành du lịch với những đặc điểm đặc thù của một
ngành kinh tế dịch vụ mang tính tổng hợp, tính liên ngành và tính xã hội
hóa cao, địi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, nhằm đảm
bảo phát triển nhanh và bền vững.
Từ trước đến nay đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với
việc phát triển du lịch. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung cấp độ quản lý
kinh tế vĩ mơ - trên tồn ngành du lịch quốc gia, chưa có sự nghiên cứu sâu
vào vai trị, nội dung quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch ở địa bàn
tỉnh Quảng Ninh. Trong khi đó về lý luận cũng như thực tiễn, quản lý nhà
nước đối với phát triển du lịch là một trong những yếu tố có tính chất quyết
định sự phát triển ngành du lịch ở địa phương.
Quảng Ninh là một tỉnh miền núi duyên hải, có 80% diện tích đất đai là
đồi núi. Hơn 2.000 hòn đảo nổi trên mặt biển phần lớn đều là núi, với tổng
diện tích là 620km², có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch. Ðặc biệt
vùng biển Quảng Ninh có Vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới với hàng
ngàn đảo đá nguyên là vùng địa hình karts bị nước bào mòn tạo nên cảnh đẹp
độc đáo, kỳ vĩ độc nhất vô nhị trên thế giới. Vùng ven biển và hải đảo Quảng
Ninh ngoài những bãi bồi phù sa cịn có những bãi cát trắng, bãi biển tuyệt
đẹp, như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng…
Tỉnh Quảng Ninh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... gắn
với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của quốc
gia như chùa n Tử, đền Cửa Ơng, di tích lịch sử Bạch Đằng, chùa Long
Tiên, đình Quan Lạn... đây là những điểm thu hút khách thập phương đến
với các loại hình du lịch văn hố, tơn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.



2
Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đang tập trung để phát triển ngành
du lịch thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Để góp phần xác định vai trò, nội dung quản lý nhà nước đối với phát
triển du lịch tại Quảng Ninh, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp
quản lý nhà nước đối với du lịch tại Quảng Ninh, em đã lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển
du lịch tại Quảng Ninh” cho luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm khắc
phục những tồn tại, đổi mới và phát triển hoạt động du lịch trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển
du lịch tại tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường quản lý
nhà nước đối với sự phát triển du lịch tại tỉnh Quảng Ninh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ mục tiêu nghiên cứu có thể đề ra các nhiệm vụ cơ bản của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với
phát triển du lịch.
- Phân tích đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước đối với phát triển du
lịch tại Quảng Ninh. Từ đó nêu ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối
với phát triển du lịch ở tỉnh Quảng Ninh.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước đối với phát
triển du lịch tại Quảng Ninh.



3
+ Về thời gian: Các số liệu được khảo sát trong giai đoạn 2011 - 2013,
giải pháp đề xuất được áp dụng cho giai đoạn đến năm 2015 và tiếp theo.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các phương pháp cụ thể, gồm: Phương pháp
thu thập dữ liệu, phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống hóa, phương
pháp so sánh…
5. Nội dung kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận
văn có 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với
phát triển du lịch.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch tại
Quảng Ninh trong thời gian qua.
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà
nước đối với phát triển du lịch tại Quảng Ninh trong thời gian tới.


4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Các khái niệm cơ bản về kinh doanh du lịch và quản lý nhà nước đối
với phát triển du lịch
1.1.1. Khái niệm du lịch và kinh doanh du lịch
a) Khái niệm du lịch:
Du lịch trước hết là một mặt hoạt động của con người. Trong quá trình
phát triển, hoạt động của du lịch từ chỗ chỉ là hiện tượng đơn lẻ của một số ít

người thuộc tầng lớp trên, ngày nay du lịch đã trở thành hệ thống. Du lịch là
một nhu cầu khơng thể thiếu được trong đời sống văn hóa - xã hội, và hoạt
động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành
kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.
Du lịch có thể được hiểu dưới nhiều góc độ:
Dưới góc độ khách du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên và quay trở lại, nhằm thoả mãn những
nhu cầu khác nhau với những mục đích khác nhau, ngoại trừ mục đích làm
cơng và nhận thù lao ở nơi đến.
Dưới góc độ nhà kinh doanh du lịch: Du lịch là một lĩnh vực bao gồm
các hoạt động tạo ra những dịch vụ và hàng hóa để thỏa mãn những nhu cầu
của khách du lịch, nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Quan điểm tổng hợp: Du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối
quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh
doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá
trình thu hút và lưu giữ khách du lịch.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Du lịch (do Chủ tịch nước công bố ngày
20/02/1999) nêu rõ: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú


5
thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định » .
Như vậy, du lịch là một loại hoạt động có nhiều đặc thù, nhưng lại có
tính chất pha trộn, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch
vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại mang những đặc điểm văn hóa, xã hội,
nhưng trước hết du lịch là một ngành kinh tế. Là một ngành kinh tế, du lịch
vừa có tính chun ngành - ngành kinh tế dịch vụ du lịch, vừa là một ngành
kinh tế tổng hợp. Pháp lệnh Du lịch Việt Nam đã nêu: “Nhà nước Việt Nam
xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung

văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển
du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân
và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.”
b) Khái niệm kinh doanh du lịch:
Theo định nghĩa trong Pháp lệnh du lịch số 11/1999/PL-UBTVQH10 ban
hành ngày 23/02/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì: “Kinh doanh du
lịch là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn, của quá trình
hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”. Như vậy nói một cách cụ thể: Kinh doanh du lịch là q trình
tổ chức sản xuất lưu thơng, mua bán hàng hóa du lịch trên thị trường nhằm
đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, kinh doanh du lịch cũng như mọi loại
hình kinh doanh khác, diễn ra theo một chu trình chặt chẽ, gồm các bước:
a) Tiếp thị, tổ chức sản xuất hàng hóa và dịch vụ du lịch
b) Tiếp thị, ký kết hợp đồng kinh tế du lịch
c) Tổ chức thực hiện hợp đồng
d) Thanh quyết toán hợp đồng, rút kinh nghiệm để bước vào chu trình mới.
Ngành kinh doanh du lịch ngày nay được xem như ngành kinh tế mũi nhọn
của nhiều quốc gia trên thế giới. Có một thực tế là hầu hết các quốc gia có nền


6
kinh tế phát triển đều có một ngành du lịch dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế quốc dân
1.1.2. Khái niệm và vai trò của sự phát triển du lịch
a) Khái niệm:
Phát triển du lịch có thể được nhận thức đầy đủ khi nghiên cứu 5 nội dung sau:
Thứ nhất, là sự tăng trưởng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện sự
tăng trưởng là: Mức gia tăng lượng khách du lịch; Mức tăng thu nhập từ du
lịch; Mức tăng quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật; số lượng việc làm tăng thêm từ

phát triển du lịch.
Thứ hai, mức độ thay đổi phương thức tiến hành các hoạt động du lịch
theo hướng ngày càng hiện đại và hiệu quả đem lại từ các hoạt động du lịch
đó. Cụ thể là những sản phẩm du lịch, những hướng phát triển hiệu quả có tốc
độ phát triển nhanh, những cơng nghệ, phương thức phục vụ hiện đại có năng
suất cao được chú trọng phát triển; cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch được
đầu tư có hiệu quả bảo đảm sự phát triển có tính bền vững cao.
Thứ ba, mức độ và chất lượng tham gia của du khách, dân cư và chính quyền
địa phương cũng như các nhà kinh doanh du lịch và quá trình phát triển ngày càng
tự giác, tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng và sự hài hịa về lợi ích.
Thứ tư, phát triển du lịch hiện tại không làm tổn hại đến khả năng hưởng
thụ du lịch của các thế hệ tương lai.
Thứ năm, phát triển du lịch phải bảo đảm sự hài hoà giữa 3 mục tiêu:
kinh tế - xã hội và môi trường. Về kinh tế, phải bảo đảm duy trì nhịp tăng
trưởng theo thời gian và sự tăng trưởng phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động và hiệu quả cao chứ không phải chỉ dựa trên sự gia tăng của các yếu tố
đầu vào. Về mặt xã hội, ít nhất phải được hiểu trên cơ sở quan điểm tồn diện
và bình đẳng giữa những người, giữa các bên tham gia vào quá trình hoạt
động du lịch không phải chỉ là thu nhập và trên tất cả các phương diện khác.
Tiếp đến phải quan tâm đến sự bình đẳng giữa các thế hệ. Mở rộng cơ hội lựa


7
chọn hưởng thụ các sản phẩm du lịch của thế hệ hôm nay, nhưng không làm
tổn hại đến cơ hội lựa chọn của thế hệ mai sau. Về mặt môi trường, chứa
đựng tư tưởng cơ bản sau: các quyết định khai thác tài nguyên du lịch đặc biệt
là tài nguyên thiên nhiên phải bảo tồn, tái sinh các hệ sinh thái, bảo đảm chất
lượng môi trường cho hiện tại và cho tương lai; bảo đảm sự phối hợp giữa các
hoạt động kinh doanh du lịch với các hoạt động kinh tế, xã hội khác v.v..
b) Vai trò:

Về vai trò của ngành du lịch, Tuyên ngôn Manila về du lịch 1980 nêu rõ:
“Du lịch được hiểu như hoạt động chủ yếu trong đời sống của các quốc gia
do hiệu quả trực tiếp của nó trên các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh
tế của các quốc gia và trong quan hệ quốc tế trên thế giới… Chính sự tồn tại
và phát triển của du lịch gắn chặt hoàn toàn với trạng thái hịa bình bền
vững, địi hỏi về phần mình du lịch cũng phải góp phần vào".
Trên giác độ kinh tế phát triển, du lịch có vai trị to lớn đối với quốc gia
về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và mơi trường sinh thái.
Đối với kinh tế:
Là một ngành kinh tế, du lịch phát triển góp phần tăng GDP cho nền kinh
tế quốc dân, tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu dịch vụ tại chỗ, góp
phần cân bằng cán cân thanh tốn quốc tế. Du lịch phát triển, mở rộng giao
lưu quốc tế, kích thích đầu tư nước ngồi và trong nứơc, phát triển sản xuất,
dịch vụ, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước qua thuế và thu khác. Phát
triển du lịch mang hiệu quả số nhân, ảnh hưởng, kích thích phát triển các
ngành khác của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra, du lịch trực tiếp liên quan đến con người. Con người, người lao
động là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, một nhân tố của nền kinh tế.
Đối với văn hóa xã hội:
Hoạt động du lịch góp phần giữ gìn - tăng cường sức khoẻ và nâng cao
đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân.


8
Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc
với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng
thêm lịng u q hương, đất nước, tinh thần đồn kết quốc tế, hình thành
phẩm chất đạo đức tốt đẹp như u lao động, tình bạn…
Đối với chính trị:
Du lịch góp phần tăng thêm sự hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử,

văn hóa các dân tộc, các địa phương; là nhân tố để đẩy mạnh các quan hệ giao
lưu kinh tế quốc tế, củng cố hịa bình, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc.
Làm cho con người sống ở các khu vực, các nước hiểu biết và xích lại gần nhau.
Đối với mơi trường:
Du lịch gắn chặt với môi trường sinh thái. Du lịch dựa vào môi trường,
nhưng cũng đồng thời tác động trở lại mơi trường, nhất là các loại hình du
lịch sinh thái, du lịch bền vững, du lịch văn hóa - lịch sử…
Du lịch góp phần tơn tạo, bảo vệ, cân bằng môi trường sinh thái bằng
hoạt động trực tiếp của du khách, người kinh doanh du lịch và bằng các hoạt
động đầu tư từ nguồn thu do du lịch mang lại.
Trong nền kinh tế thị trường, du lịch đóng vai trị quan trọng, mang lại
nhiều kết quả và hiệu quả to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những vai trị, tác động
tích cực, du lịch cũng đưa lại những ảnh hưởng tiêu cực về môi trường - môi
trường kinh tế, môi trường văn hóa - xã hội, mơi trường sinh thái. Điều đó địi
hỏi, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước cần tăng cường quản lý nhằm hạn
chế “mặt tiêu cực” do hoạt động du lịch mang đến, phát huy những mặt tích
cực của du lịch.
1.1.3. Quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch
1) Khái niệm quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch.
Quản lý nhà nước về du lịch ở một tỉnh là thực hiện quản lý nhà nước đối
với một ngành phát triển trong phạm vi địa phương. Do đó, địi hỏi phải
hướng tới các yêu cầu sau:


9
- Mục đích của quản lý nhà nước đối với du lịch ở một tỉnh là nhằm cho
ngành du lịch ở đây phát triển mạnh mẽ, bền vững. Thị trường du lịch được mở
rộng, thể chế thị trường du lịch được mở rộng, thể chế thị trường được xác lập,
sự vận động của các yếu tố thị trường thông suốt. Sự phát triển du lịch ở địa
phương góp phần đắc lực và sự phát triển của ngành du lịch cả nước.

- Du lịch là một ngành tổng hợp trong tổng thể các lĩnh vực ngành nghề
phát triển tại địa phương sự phát triển của ngành du lịch (với tư cách là một
ngành có lợi thế phát triển ở địa phương) phải là động lực để phát triển kinh tế
chung của tỉnh, tạo nên sắc thái riêng của kinh tế địa phương (cơ cấu kinh tế
hợp lý với nhân lõi là ngành du lịch phát triển).
- Quản lý nhà nước đối với ngành du lịch trên địa bàn địa phương là nhằm
phát triển ngành, phát triển địa phương, nâng cao phúc lợi địa phương (mức
sống, sự văn minh, công bằng, an ninh, môi trường sinh thái được cải thiện).
2) Sự cần thiết phải tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển du
lịch ở địa phương.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, về lý luận và thực tiễn, nhà nước có vai trị khơng thể thiếu đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung, ngành kinh tế du lịch nói riêng. Sự can thiệp, điều
tiết của nhà nước vào kinh tế nhằm phát huy những ưu thế của thị trường, đẩy
nhanh tốc độ phát triển và phát triển bền vững, khắc phục những hạn chế,
khuyết tật của thị trường. Du lịch với vai trị, vị trí đã được xác định trong cơ
cấu tổng thể kinh tế quốc dân, và với những đặc điểm đặc thù của mình, càng
địi hỏi cao hơn ở vai trò quản lý của nhà nước. Nhất là trong những thời kỳ
đầu của sự hình thành và phát triển ngành.
Xét trên bình diện kinh tế - xã hội địa phương, trên địa bàn lãnh thổ của
tỉnh, thành phố, hoạt động du lịch gắn chặt với những đặc điểm, điều kiện cụ
thể. Tùy theo tình hình cụ thể và nhận thức khác nhau, mỗi địa phương có
quan điểm, định hướng riêng trong việc phát triển ngành du lịch. Có những


10
tỉnh, thành phố coi ngành du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn.
Các địa phương khác thì xác định du lịch là một ngành kinh tế quan trọng
trong cơ cấu kinh tế của địa phương mình.
Nhìn từ phương diện phát triển kinh tế đơn thuần thì du lịch có thể được

điều khiển một cách hiệu quả bởi khu vực tư nhân. Tuy nhiên đối với sự phát
triển của du lịch địi hỏi nhất thiết phải có vai trò của nhà nước. Vai trò của
nhà nước thể hiện một cách cơ bản nhất là tổ chức và giám sát hoạt động du
lịch có phù hợp với định hướng phát triển. Nhà nước có thể tác động đến phát
triển du lịch bằng cách thông qua các công cụ quyền lực và hệ thống chính
quyền từ trung đến địa phương. Đưa chính sách phát triển du lịch vào tất cả
các thỏa thuận về phát triển du lịch địa phương cũng như quốc gia.
Dù xét ở vị trí nào, trên giác độ kinh tế địa phương, ngành du lịch đều thể
hiện rõ nét nhất những đặc điểm, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của nhiều nhân
tố. Đó là các nhân tố về tài nguyên (gồm tài nguyên du lịch tự nhiên, tài
nguyên du lịch nhân văn); về kinh tế - xã hội - chính trị (như : đặc điểm dân
cư và lao động, sự phát triển sản xuất, nhu cầu và điệu kiện sống, tình hình an
ninh - chính trị...); về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật (như: mạng lưới
giao thông, phương tiện vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước, cơ sở lưu trú,
ăn uống, mua sắm, thể thao, y tế...).
Hoạt động du lịch mang lại hiệu quả về nhiều mặt : kinh tế - xã hội chính trị - mơi trường...Nhưng du lịch cũng đưa đến những tác động tiêu cực
cho địa phương, cư dân và mơi trường.
Chính vì vậy, để phát triển ngành du lịch trên địa bàn tỉnh - thành phố,
cần thiết phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước. Nhằm:
- Định hướng phát triển du lịch phù hợp với tiềm năng, điều kiện và yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Thể chế hóa luật pháp, ban hành chủ trương, chính sách khuyến khích,
hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh hoặc hạn chế tác
động tiêu cực của hoạt động du lịch.


11
- Hỗ trợ, can thiệp, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vậtchất kỹ thuật
để phát triển du lịch.
- Giúp đỡ đào tạo nhân lực, tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến... làm cho

ngành du lịch có nhiều cơ hội để phát triển.
3) Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch.
Dựa trên Luật Du lịch, quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch trên
nguyên tắc:
1. Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà
giữa kinh tế, xã hội và mơi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo
hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá
trị của tài nguyên du lịch.
2. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội.
3. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an
ninh, an tồn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch.
4. Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư
trong phát triển du lịch.
5. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
6. Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường
thu hút ngày càng nhiều khách du lịch nước ngồi vào Việt Nam.
4) Cơng cụ và phương pháp quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch
của địa phương
a) Công cụ quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch của địa phương
• Kế hoạch hóa
Kế hoạch theo nghĩa rộng là một quá trình xây dựng, quán triệt, chấp
hành, giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai.


12
Với chức năng là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nuớc, kế hoạch
là một hệ thống công cụ gồm nhiều nội dung hoạt động: chiến lược phát triển;
qui hoạch phát triển; kế hoạch dài, trung, ngắn hạn; chương trình - dự án.

Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các công cụ thị trường - công cụ
kinh tế, nhà nước cần sử dụng công cụ kế hoạch để quản lý, can thiệp, điều
tiết hoạt động kinh tế.
• Chính sách kinh tế
Khác với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong cơ chế thị trường, nhà
nước chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế đề điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế và
ngành kinh tế du lịch. Thơng qua các chính sách về: tài chính - tiền tệ, thuế, lãi
suất, vốn, tín dụng, giá cả, các chính sách xã hội,… nhà nước định hướng và điều
tiết hoạt động du lịch theo xu hướng khuyến khích hoặc hạn chế.
Hệ thống chính sách, cơng cụ kinh tế là bộ phận nhạy cảm nhất, năng
động nhất trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế của nhà nước. Vì vậy cần
phải hết sức chú ý xây dựng hệ thống đồng bộ, phù hợp.
Với xuất phát điểm thấp, du lịch Việt Nam trong 2 thập kỷ qua đã vượt
qua mọi khó khăn về nguồn vốn, cơng nghệ để hội nhập và phát triển. Đây là
những bài học tốt trở thành nguồn lực mềm tạo đà phát triển du lịch cho giai
đoạn tới. Tiếp tục phát huy xu hướng thu hút lượng khách du lịch đến Việt
Nam tăng trưởng nhanh và liên tục (5 triệu lượt khách quốc tế và 28 triệu lượt
khách nội địa, thu nhập đạt trên 98 nghìn tỷ đồng năm 2010). Đây là động lực
quan trọng để du lịch Việt Nam tiếp tục tăng trưởng.
Đầu tư của giai đoạn trước đến nay đang được phát huy hiệu quả. Giai
đoạn vừa qua kết cấu hạ tầng du lịch được quan tâm hỗ trợ đầu tư của Nhà
nước và thu hút được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Nhiều cơng
trình giao thơng, sân bay được cải tạo và đầu tư mới; cơ sở vật chất các khu
du lịch được đầu tư, nâng cấp từng bước tạo điều kiện mở đường cho hoạt
động du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu trú và dịch vụ du


13
lịch phát triển nhanh, chất lượng được nâng lên một bước; nhiều khu du lịch,
resorts, khu giải trí, khách sạn cao cấp đạt trình độ quốc tế đã hình thành.

Nguồn nhân lực du lịch cũng được đầu tư thích đáng, đến nay đã có 11 cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp về du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
trực tiếp quản lý và trên 60 trường đại học, cao đẳng, trung cấp có tham gia
đào tạo du lịch. Hệ thống chương trình, giáo trình đào tạo từng bước hoàn
thiện nhờ sự đầu tư của nhà nước và hỗ trợ của quốc tế thông qua dự án
Luxemboug, dự án EU. Hoạt động thẩm định và chứng nhận kỹ năng nghề đã
hình thành thơng qua Hội đồng cấp chứng chỉ VTCB nhờ vậy chất lượng
nguồn nhân lực được đánh giá bài bản hơn.
• Luật pháp và những quy định
Quản lý, điều tiết bằng hệ thống luật pháp, trong đó có pháp luật về du lịch.
Xây dựng, thiết lập khn khổ pháp luật là nội dung quản lý nhà nước,
đến lượt nó - trở thành cơng cụ được xem như là điều kiện tiên quyết để đảm
bảo sự quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo cho các hoạt động du lịch và kinh doanh du lịch được mở
rộng, phát triển có hiệu quả.
Luật pháp là cơng cụ quyền lực, có tính cưỡng chế rất sắc bén, có hiệu
quả trong quản lý.
Pháp luật thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các vấn đề đó. Cho nên
mơi trường pháp lý ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của các chủ thể tham
gia thị trường du lịch. Luật pháp tác động đến các chủ thể thông qua các vấn đề
sau: pháp luật xác định vị trí pháp lý của các chủ thể kinh tế trong ngành (tổ
chức hoặc cá nhân).
Luật pháp tạo ra luật chơi bình đẳng cho các chủ thể kinh tế trên thị
trường du lịch. Thông qua các chính sách đã luật hố, Nhà nước khuyến
khích các chủ thể kinh tế trong ngành phát triển kinh doanh theo đúng hướng
chiến lược, quy hoạch đã xác định; hạn chế các mặt tiêu cực có hại cho sự


14
phát triển (các hiện tượng xâm hại đến tài nguyên du lịch, mơi trường sinh

thái, các tệ nạn xã hội...).
• Sử dụng bộ máy quản lý nhà nước để quản lý và giám sát hoạt động du
lịch.
Thông qua thực hiện nhiệm vụ cụ thể bộ máy này sẽ tác động, can thiệp
vào hoạt động kinh tế, chủ yếu bằng các qui định, thể lệ, cấp giấy phép hoạt
động, tổ chức thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn hoạt động đúng pháp luật.
Cùng với cơng cuộc cải cách thủ tục hành chính, việc nâng cao năng lực
và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực là một
trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm
hiện nay. Hoạt động quản lý nhà nước chỉ thực sự đạt kết quả khi cơ quan chủ
quản hành chính phát huy hết vai trị và khả năng của mình từ việc hoạch định,
tổ chức, quyết định tới việc kiểm tra, giám sát của mình đối với các khách thể.
Để du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn một yêu cầu
không thể thiếu đó là vai trị quản lý nhà nước về du lịch. Bởi lẽ thông qua
quản lý nhà nước sẽ định hướng cho du lịch phát triển về mọi mặt với mục
tiêu khai thác lợi thế tối đa nhằm đem lại lợi nhuận đóng góp ngày càng nhiều
cho nền kinh tế trên cơ sở phát triển bền vững.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng và thơng báo kế hoạch kiểm tra,
giám sát hoạt động du lịch tại các địa phương. Phân công các thành viên Ban Chỉ
đạo Nhà nước về Du lịch kiểm tra giám sát tại các địa phương. Trong đó tập
trung vào 3 chuyên đề: các địa điểm du lịch phải có nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn,
bảo đảm văn minh lịch sự ở những trạm dừng chân và bảo đảm an toàn, an ninh
cho khách du lịch tại các trung tâm du lịch lớn là Hà Nội, Quảng Ninh, thành
phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác có nhiều khách du lịch.


15
b) Phương pháp quản lý nhà nước đối với phát triển du
lịch của địa phương
Quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch trên cơ sở quản lý nhà nước

về kinh tế.
Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức
tác động có chủ đích và có thể có của nhà nước lên nền kinh tế và các bộ phận
hợp thành để thực hiện các mục tiêu quản lý.
Sử dụng các phương pháp quản lý phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc,
mục tiêu quản lý, nhưng nó có tính khoa học và tính nghệ thuật nhằm đảm
bảo hiệu quả của quản lý.
Nhà nước sử dụng 3 phương pháp chủ yếu là:
• Phương pháp hành chính.
Là cách thức tác động trực tiếp của nhà nước thơng qua các quyết định
dứt khốt có tính bắt buộc lên đối tượng quản lý.
Phương pháp hành chính tác động theo hai hướng:
Tác động về mặt tổ chức, nhà nước xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động trong an toàn,
trật tự. Ban hành các văn bản qui định quy mô cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu
chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định những mối quan hệ hoạt động nội bộ.
Tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý: qui định những
thủ tục hành chính bắt buộc tất cả các chủ thể cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp, hộ gia đình phải tuân thủ.
Phương pháp hành chính có hiệu quả rất rõ và có tính tức thời. tuy nhiên,
nó cũng có những nhược điểm dễ sa vào tình trạng lạm dụng quyền hành, chủ
quan, duy ý chí, sinh ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, cửa quyền. Đó là lối
quản lý hành chính quan liêu.
Vì vậy, khi sử dụng phương pháp hành chính địi hỏi: Quyết định hành
chính phải có căn cứ khoa học và luận chứng đầy đủ về kinh tế; phải gắn chặt
quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định.


16
Phương pháp hành chính là cần thiết, khơng có phương pháp hành chính

nhà nước khơng thể quản lý kinh tế có hiệu quả. Hồn chỉnh hệ thống pháp
luật với các thế chế quản lý kinh tế phù hợp là nội dung cơ bản của quản lý
nhà nước về kinh tế.
• Phương pháp kinh tế.
Là cách thức tác động gián tiếp của nhà nước dựa trên những lợi ích kinh
tế có tính hướng dẫn, lên đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế, nhằm làm cho
họ quan tâm tới hiệu quả cuối cùng của hoạt động và phải chịu trách nhiệm vật
chất về hành động của mình, từ đó mà tự giác, chủ động hồn thành tốt nhiệm
vụ của mình không cần phải thường xuyên tác động về mặt hành chính.
Đây là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm, nâng cao
hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên có cũng có những nhược điểm khi các chủ thể kinh
doanh chỉ biết chạy theo lợi ích kinh tế, lợi nhuận, bất chấp pháp luật và đạo lý.
Bằng phương pháp kinh tế, nhà nước tác động quản lý theo các hướng:
Định hướng phát triển chung bằng mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện
thực tế, chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
Sử dụng định mức kinh tế - kỹ thuật: thuế suất, lãi suất, các địn bẩy kinh tế.
Chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế.
Các phương pháp kinh tế được nhà nước sử dụng thơng qua các cơng cụ:
chính sách thuế, lãi suất ngân hàng, giải pháp hỗ trợ phát triển; quỹ dự trữ
quốc gia; chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước; ngân sách nhà nước.
Ngày nay, xu hướng chung của các nhà nước là mở rộng việc áp dụng
phương pháp kinh tế. Theo đó cần phải: hồn thiện hệ thống các địn bẩy kinh
tế, nâng cao năng lực vận dụng quan hệ hàng hóa tiền tệ, quan hệ thị trường,
phân cấp đúng mức giữa các cấp quản lý, mở rộng quyền hạn cho cấp dưới;
phải có cán bộ đủ trình độ, năng lực đáp ứng đòi hỏi quản lý nhà nước về kinh
tế trong nền kinh tế thị trường.


17
• Phương pháp giáo dục, tuyên truyền.

Là cách thức tác động của nhà nước vào nhận thức, tình cảm của con
người thuộc đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế, nhằm nâng cao ý thức tự
giác, nhiệt tình, hiệu quả công tác.
Nội dung giáo dục: Đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước, ý thức
lao động sáng tạo, năng suất, chất lượng, hiệu quả; xóa bỏ tâm lý và phong
cách sản xuất nhỏ; xóa bỏ tư tưởng tư sản, phong kiến, chủ nghĩa thực dụng,
vơ chính phủ, xây dựng tác phong cơng nghiệp…
Các hình thức sử dụng: Thơng qua các phương tiện thông tin đại chúng;
sử dụng các đồn thể, hoạt động có tính xã hội; sử dụng các hội nghị, tổng kết
thi đua khen thưởng; rèn luyện giáo dục đội ngũ các cán bộ công nhân viên
chức nhà nước;….
Trong quá trình quản lý, các cơ quan quản lý của nhà nước căn cứ vào
mục tiêu, yêu cầu của các qui luật khách quan, nguyên tắc quản lý, thực trạng
và xu thế vận động của đối tượng quản lý, pháp luật và thông lệ thị trường để
lựa chọn phương pháp quản lý thích hợp. Và để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế, cần phải biết vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh, thành phố
1.2.1. Triển khai thực hiện pháp luật, xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực phát triển du lịch ở địa phương
Để quản lý sự phát triển du lịch tại địa phương, Nhà nước địa phương cần chỉ
đạo việc thực hiện các luật lệ, chính sách của trung ương ban hành có hiệu quả ở
địa phương mình (nghiên cứu đặc điểm, hoàn cảnh địa phương, ra văn bản hướng
dẫn, tổ chức thực thi, kiểm tra, uốn nắn lệch lạc, đánh giá kết quả thực thi chính
sách...) ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương xuất phát từ yêu
cầu quản lý phát triển ngành ở địa phương, nhưng không trái với luật pháp của


18
Nhà nước. Mục đích là thiết lập mơi trường luật pháp đưa các hoạt động du lịch

vào khuôn khổ, và tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Sở hữu và lợi ích
là các mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể tham gia thị trường du lịch.
Nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong lĩnh vực du lịch, thực
thi có hiệu quả Luật Du lịch, Nhà nước đã ban hành các văn bản như:
- Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 10/08/2007 của Chính phủ về việc
hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Du lịch và những quy định pháp luật
khác có liên quan.
- Nội dung hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật gồm Luật Du lịch số
44/2005/QH 11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội; Nghị định 92/2007/ NĐ-CP
ngày 1/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Du lịch;
- Thông tư 88/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ Văn hoá,
thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 92/2007/NĐ-CP, quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.
- Thông tư số 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ Văn
hoá - Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 92/2007/NĐCP, quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về kinh doanh lữ hành, chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam,
hướng dẫn du lịch và xúc tiến du lịch;
- Nghị định 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.
1.2.2. Quy hoạch và xây dựng chiến lược phát triển du lịch
1) Quy hoạch phát triển du lịch
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 chỉ ra quan điểm phát triển theo chiều sâu chất lượng, hiệu quả, bền
vững, có thương hiệu và có sức cạnh tranh.


19
Quan điểm đó mở ra tầm nhìn mới trong quy hoạch phát triển du lịch.

Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 đã xác định không gian 7 vùng du lịch đặc trưng, 46 khu du lịch
quốc gia, 40 điểm du lịch quốc gia và 12 đô thị du lịch. Cho đến nay, 4/7 vùng
du lịch, 63 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương đã có quy hoạch phát triển
du lịch. Nhiều tỉnh đã điều chỉnh hoặc lập mới quy hoạch theo quan điểm mới
của Chiến lược. Hầu hết các khu, điểm du lịch quan trọng cũng đã có quy
hoạch. Có thể nói, hệ thống quy hoạch phát triển du lịch trên phạm vi cả nước
đã hình thành cơ bản và là cơ sở định hướng quan trọng cho hoạt động du lịch
ở mọi cấp.
Tuy nhiên, qua đánh giá cho thấy thực tế ở hầu hết các nơi hoạt động
du lịch không diễn ra theo đúng quy hoạch. Nhiều quy hoạch chỉ tồn tại trên
giấy mà ít được thực thi trong thực tế. Hầu hết các quy hoạch vẽ ra bức tranh
khá lạc quan về các chỉ tiêu phát triển nhưng cũng rất ít quy hoạch đạt được
mục tiêu đề ra. Biểu hiện rõ nét là hoạt động du lịch ở nhiều nơi diễn ra tự
phát, lộn xộn; sản phẩm không có phong cách riêng; thị trường mục tiêu
khơng rõ ràng; không tạo lập được giá trị thụ hưởng cho khách... Nút thắt của
vấn đề ở đây chính là chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch. Một mặt,
chất lượng các quy hoạch c n nhiều hạn chế, c n nặng về ý chí chủ quan, chủ
yếu dựa trên “cái mình có” về tiềm năng tài ngun du lịch mà chưa thực sự
bám sát vào nhu cầu và xu hướng thị trường. Quy hoạch chưa “dọn đường”
cho cung và cầu gặp nhau. Ngay cả khi một số quy hoạch được lập có sử dụng
tư vấn quốc tế với chất lượng được coi là khả dĩ nhưng việc thực thi quy
hoạch cũng không đạt được kết quả như mục tiêu đặt ra. Mặt khác, việc quản
lý quy hoạch ở mọi cấp cũng chưa đến nơi đến chốn. Do tính chất đặc thù của
ngành du lịch mà quy hoạch du lịch phụ thuộc nhiều vào quy hoạch các ngành
khác. Nếu khơng có quan điểm, tầm nhìn đúng đắn trong quản lý quy hoạch
thì quy hoạch phát triển du lịch ln bị tác động, làm biến dạng bởi quy hoạch


20

các ngành khác. Thực tế cho thấy nhiều khu, điểm du lịch đã được đưa vào
quy hoạch nhưng đồng thời người ta lại cho triển khai các dự án phát triển
cơng nghiệ, khai khống, thủy điện, sản xuất vật liệu xây dựng...vì mục tiêu
trước mắt đã làm phá vỡ khơng gian du lịch và hủy hoại tài nguyên du lịch.
Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản về quan điểm và tầm nhìn
trong quy hoạch cần bám sát quan điểm chiến lược phát triển theo chiều sâu
chất lượng, hiệu quả, bền vững, có thương hiệu và có sức cạnh tranh. Theo
đó, thay đổi từ tư duy đến hành động trong quy hoạch với những ý sau đây:
- Thứ nhất, thực hiện quan điểm thị trường (market orientated
planning); hướng tới thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách, lấy sự hài
lòng của khách làm mục tiêu phát triển. Trước hết xác định rõ được thị trường
mục tiêu (theo phân đoạn) cho mỗi điểm đến trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu
cầu thị trường có tính đến những yếu tố cạnh tranh. Từ thị trường, tiến hành
xây dựng cho sản phẩm hướng tới tạo lập những giá trị thụ hưởng, giá trị trải
nghiệm du lịch cho từng phân đoạn thị trường khách cần thu hút. Sản phẩm có
phong cách và giá trị cao được hình thành dựa trên những giá trị nổi bật về tài
nguyên và phong cách dịch vụ. Quy hoạch đồng thời tính tốn sức chứa đảm
bảo duy trì chất lượng và phát huy được giá trị bền vững; tạo lập được khơng
gian và hình ảnh đặc trưng cho điểm đến trở thành thương hiệu để tiến hành
quảng bá và xúc tiến bán đến thị trường mục tiêu. Đây là bước đầu tiên định
hướng cho cung và cầu gặp nhau, có ý nghĩa quyết định.
- Thứ hai, xác định vòng đời sản phẩm/dịch vụ với tầm nhìn dài hạn
trong quy hoạch; ln ln khởi đầu bằng sản phẩm/dịch vụ có cấp độ chất
lượng cao cấp, chuyên biệt dành cho thị trường phân biệt ở quy mô hẹp và
từng bước mở rộng; ưu tiên phát triển sản phẩm/dịch vụ có giá trị gia tăng
cao, có thương hiệu mạnh; xác định lộ trình làm mới sản phẩm/dịch vụ khi dự
báo xuất hiện xu hướng đại trà. Phân biệt thị trường theo mục đích, độ dài lưu
trú và khả năng chi tiêu để quy hoạch những không gian phân biệt, tránh hiệu



21
ứng hỗn tạp; hướng tới thị trường có mục đích nghỉ dưỡng, nghỉ phép dài
ngày với phong cách thụ hưởng giá trị đặc sắc về văn hóa và mơi trường sinh
thái có lợi ích cao cho sức khỏe thể chất và tinh thần.
- Thứ ba, tổ chức không gian du lịch đảm bảo sự hài hịa giữa con
người, văn hóa với thiên nhiên; tơn trọng giá trị văn hóa bản địa và giá trị tự
nhiên để tạo điểm nhấn và hình ảnh đặc trưng cho đểm đến; khai thác được
những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể để làm tăng giá trị cho điểm đến;
quy hoạch điểm đến có hạt nhân trung tâm và những vệ tinh được kết nối giao
thoa với hoạt động của cộng đồng địa phương; tạo lập được “ngôi nhà chung”
- không gian chung cho khách có cơ hội giao lưu với nhân dân địa phương.
Quy hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư địa phương được tham gia vào
hoạt động đón tiếp và phục vụ khách du lịch; tạo cơ hội sinh kế cho dân cư
địa phương do vậy phải tính đến chia sẻ lợi ích hài hịa giữa cộng đồng địa
phương và các đối tác.
- Thứ tư, quy hoạch hướng tới phát huy tính liên vùng, trong 7 vùng du
lịch vừa tạo được tính đặc trưng vùng vừa tạo ra tính đa dạng cho những kỳ
nghỉ và kéo dài kỳ nghỉ thông qua kết nối giữa các địa phương và điểm đến
trong vùng. Quy hoạch du lịch đồng thời phải khai thác được yếu tố liên
ngành, gắn với quy hoạch các ngành kinh tế - xã hội để khai thác sức lan tỏa,
động lực phát triển của du lịch với các ngành liên quan như nông nghiệp, giao
thông, thương mại, viễn thông... Do vậy quy hoạch đảm bảo cân đối lợi ích
giữa các địa phương và giữa các ngành.
- Thứ năm, quy hoạch phải tính đến khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm
và phát huy được giá trị tài nguyên du lịch. Trước hết, quy hoạch đánh giá
đúng những giá trị hiện hữu và tiềm ẩn của tài nguyên, hoạch định phương án,
lộ trình khai thác, bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn một cách bền vững. Quy hoạch cũng chỉ ra những quy



22
định, giới hạn những gì “được làm” và “khơng được làm” và tuyệt đối tuân
thủ trong quản lý quy hoạch.
- Thứ sáu, quy hoạch đảm bảo tính hiện đại, mở đường cho việc ứng
dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sạch hướng tới sản phẩm du lịch vì con
người, thân thiện mơi trường và du lịch có trách nhiệm. Quy hoạch tính đến
khả năng đáp ứng của các nguồn lực, trong thiết kế chức năng đảm bảo tiện
nghi, tiện lợi nhưng tiết kiệm tài nguyên; sử dụng nguồn lực địa phương.
Phong cách hiện đại khơng có nghĩa chỉ là những cơng trình vĩ đại, hồnh
tráng mà thể hiện trong các chi tiết của sản phẩm với cách thức sử dụng dịch
vụ, tính tiện dụng, chức năng thơng minh và được phục vụ bởi con người với
kỹ năng chuyên nghiệp, đậm nét văn hóa truyền thống.
- Thứ bảy, quy hoạch chỉ ra được những chương trình, dự án, nhiệm vụ
ưu tiên để tập trung đầu tư có lộ trình và đảm bảo hiệu quả đồng bộ trong
phạm vi nguồn lực cho phép. Trong những nhiệm vụ ưu tiên đó, bên cạnh đầu
tư vào hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phải tập trung ưu tiên đầu tư cho chương
trình xúc tiến, quảng bá; phát triển nguồn nhân lực và bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa, bảo vệ mơi trường. Đây là những chương trình “mềm” có ý nghĩa quyết định
và là điều kiện tiên quyết để quy hoạch được thực thi trong thực tế.
- Thứ tám, để đảm bảo thực hiện tốt việc quản lý và thực thi quy hoạch,
từ quá trình lập cho tới triển khai quy hoạch phải coi trọng nâng cao nhận thức
du lịch cho tất cả các đối tượng từ cấp quản lý, hoạch định chính sách, cho đến
doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Đây là điều kiện cần và đủ để quy hoạch
có chất lượng và được thực thi trong thực tế đáp ứng yêu cầu phát triển.
2) Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thời gian qua du lịch Việt
Nam cũng đã hiện diện những hạn chế và yếu kém cần được điều chỉnh như:
nhận thức của xã hội về du lịch chưa đồng đều; cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật chưa đồng bộ; lượng khách thu hút chưa tương xứng với tiềm năng;



23
chưa có bước phát triển đột phá để khẳng định du lịch thực sự là ngành kinh
tế mũi nhọn…
Vì vậy, yêu cầu thiết thực về việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch
giai đoạn mới với quan điểm phát triển đột phá, các định hướng có chọn lọc
cùng các giải pháp mang tính khả thi cao… nhằm đáp ứng được những yêu
cầu mới của thời đại về tính chuyên nghiệp, hiện đại, hội nhập và tính hiệu
quả, tương xứng với tiềm năng đất nước được đặt ra.
Mục tiêu của chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 là du lịch cơ
bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chun nghiệp, hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng
cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hoá
dân tộc, thân thiện với môi trường… đưa Việt Nam trở thành điểm đến đẳng
cấp trong khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến
du lịch ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới.
Cụ thể, đến năm 2015 tăng trưởng du khách sẽ đạt 7-8 triệu khách quốc
tế, 32- 35 triệu khách nội địa. Đến năm 2020 thu hút 11- 12 triệu khách quốc
tế và 45- 48 triệu lượt khách nội địa. Và, đến năm 2030 các con số này đạt 1920 triệu khách quốc tế, 70 triệu khách nội địa.
Thu nhập du lịch đạt 10- 11 tỷ USD năm 2015, 18- 19 tỷ USD năm 2020
và tăng gấp đơi vào năm 2030.
Theo đó, GDP du lịch tồn quốc năm 2015 sẽ chiếm 5,5 – 6% và năm
2020 đạt 6,5-7%/tổng GDP cả nước.
Trên cơ sở mục tiêu hướng tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã
xác định các chiến lược thành phần để phát triển du lịch nước nhà một cách
hiệu quả.
Về phát triển sản phẩm, thị trường: Tập trung xây dựng hệ thống sản
phẩm, loại hình du lịch đặc trưng và chất lượng cao trên cơ sở phát hy giá trị
tài nguyên du lịch độc đáo, đặc sắc, có thế mạnh nổi trội.



24
Cụ thể, đó là phát triển mạnh du lịch biển với hệ thống sản phẩm cạnh
tranh khu vực về nghỉ dưỡng, tham quan thắng cảnh; Phát triển du lịch văn
hoá gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu văn hoá, lối sống địa
phương… Đẩy mạnh phát triển du lịch nghỉ dưỡng sinh thái, khám phá hang
động, du lịch sinh thái nông nghiệp, nông thôn.
Các thị trường quốc tế được tính đến là: Đơng Bắc Á (Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc), Đơng Nam Á và Thái Bình Dương (Singapore, Indonesia,
Thái Lan, Úc); đồng thời tăng cường khai thác thị trường khách cao cấp đến
từ Tây Âu (Pháp, Đức, Anh, Hà Lan; Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) và Đông Âu
(Nga, Ucraina); mở rộng thị trường mới đến Ấn Độ và Trung Đông.
Về phát triển thương hiệu, mục tiêu tạo dựng được thương hiệu du lịch
Việt Nam và một số thương hiệu du lịch nổi bật được biết đến rộng rãi trong
khu vực và trên thế giới. Xây dựng hệ thống bài bản các thương hiệu: Du lịch
Việt Nam, thương hiệu du lịch vùng, điểm đến, thương hiệu sản phẩm du lịch,
thương hiệu doanh nghiệp du lịch, các địa danh nổi tiếng…
Về xúc tiến quảng bá lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch làm
nội dung trọng tâm hướng tới thị trường mục tiêu. Đầu tư ứng dụng công
nghệ cao, khai thác tối ưu công nghệ thông tin, truyền thông, phối hợp với các
đối tác quốc tế…
Về phát triển nguồn nhân lực: Xây dựng lực lượng lao động ngành du
lịch đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, đảm bảo tính chuyên
nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội nhập khu vực, góp phần nâng cao chất lượng
dịch vụ du lịch.
Về phát triển du lịch theo vùng: Sẽ thực hiện trên 7 vùng lãnh thổ phù
hợp với đặc điểm tài nguyên du lịch gắn với vùng kinh tế, văn hố, vùng địa
lý, khí hậu và các hành lang kinh tế; trong đó có các địa bàn trọng điểm du
lịch tạo thành các cụm liên kết phát triển mạnh về du lịch.



25
Các vùng du lịch gồm: Vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng
sơng Hồng và dun hải Đơng Bắc, vùng Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung
Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ.
Trong đầu tư phát triển du lịch, đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng
cung ứng du lịch, tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xúc tiến quảng bá và
xây dựng thương hiệu du lịch.
Đáng chú ý là Nhà nước tiếp tục hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng du lịch, thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư hạ tầng
cũng như vật chất kỹ thuật dịch vụ du lịch; ưu tiên vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo nơi có tiềm năng du lịch. Chú trọng đầu tư cho thương hiệu du
lịch quốc gia và các thương hiệu du lịch quan trọng; tăng cường cho xúc tiến
quảng bá, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực bậc cao.
Đặc biệt, tôn tạo tài nguyên du lịch, nâng cấp các di tích, di sản để phát
huy giá trị khai thác phục vụ du lịch hiệu quả; quy hoạch phục hồi những
cơng trình kiến trúc có giá trị, phát triển các bảo tàng và các cơng trình văn
hố lớn phục vụ tham quan du lịch.
Đầu tư hình thành, phát triển các khu, điểm du lịch trọng điểm: tạo điều
kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu du lịch nghỉ dưỡng vùngven biển,
các khu nghỉ dưỡng núi, các khu du lịch tổng hợp, giải trí chuyên đề, kết hợp
trung tâm thương mại, mua sắm, hội nghị hội thảo.
Với những định hướng mang tính chiến lược, lâu dài và những chương
trình, kế hoạch tổ chức thực hiện hiệu quả, chắc chắn du lịch Việt Nam sẽ có
bước đột phá mới trong những năm tới đây.
1.2.3. Lập kế hoạch phát triển du lịch và xây dựng các chính sách phát
triển du lịch
1) Lập kế hoạch phát triển du lịch
Một quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch,
nhưng khơng có chính sách phát triển hợp lí thì cũng khơng phát huy một cách



×