Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ĐỀ tài: ẢNH HƯỞNG của tín NGƯỠNG THỜ THẦN, THỜ mẫu đối với đời SỐNG TINH THẦN NGƯỜI dân THÁI BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.26 KB, 20 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa tâm linh, tín ngưỡng từ lâu đã đóng vai trị rất quan trọng đối với
đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Trong đó, tín ngưỡng thờ Mẫu là
một trong những tập tục phổ biến ăn sâu vào trong tâm thức của dân tộc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian mang sắc thái
ngun thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát
triển đa dạng của tín ngưỡng dân gian mà khơng theo một quy luật định sẵn
nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua lễ hội, qua niềm tin và qua đời
sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt.
Với việc tôn thờ người phụ nữ, người mẹ, coi người mẹ là đấng sáng tạo, bảo
trợ cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, con người, trải qua bao thăng trầm
của lịch sử dựng nước và giữ nước, tín ngưỡng thờ Mẫu đã đi vào mạch sống
của từng cộng đồng người, tạo nên những nét văn hoá đậm đà bản sắc của mỗi
dân tộc. Ở các mức độ khác nhau, nó có ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, giáo
dục… trong đó có đời sống tinh thần của con người. Bởi vậy, ở mỗi dân tộc,
mỗi địa phương cần có sự quan tâm nghiên cứu, tìm tịi những nét hay, nét đẹp
trong trong sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu để duy trì và phát huy những phong
tục, tập quán tốt đẹp và ngăn chặn những tiêu cực, những mặt xấu còn len lỏi
trong đời sống cộng đồng.
Hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân ta là đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước ta diễn ra trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế mạnh
mẽ không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cả trên lĩnh vực văn hóa. Trước hồn
cảnh mới của đất nước, Đảng ta đã chủ trương “hòa nhập nhưng khơng hịa
tan”. Ngồi việc phải phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, một hệ thống chính trị mang bản chất của giai cấp công nhân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì cần phải xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc bởi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của


xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta khẳng định:
Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá
trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tơn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các
tổ chức tơn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Là một tỉnh thuần nông nên mọi biểu hiện trong đời sống văn hóa (trong đó
có đời sống tâm linh) của người Thái Bình từ trước đến nay mang đậm bản sắc
văn hóa truyền thống của người Việt. Tín ngưỡng dân gian nói chung và tín


2
ngưỡng thờ Mẫu của người Thái Bình nói riêng vừa có những đặc điểm chung
của cư dân đồng bằng Bắc bộ vừa có những yếu tố đặc sắc riêng. Trong những
năm gần đây cũng giống như nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ khác, ở Thái Bình
đã và đang diễn ra những sinh hoạt tín ngưỡng rất đa dạng và phức tạp. Sự đan
xen giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và các nghi lễ tơn giáo với mê tín dị đoan trong
các lễ hội truyền thống dẫn đến sự phục hồi những tập tục, hủ tục lạc hậu. Tình
trạng thương mại hóa hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu đang hiện hữu ở nhiều địa
phương trong tỉnh.
Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, đời sống tinh thần của nhân dân
Thái Bình đã được nâng lên rõ rệt, đây chính là điều kiện để các tín ngưỡng tơn
giáo nói chung mà đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng ngày càng được
phục hồi và phát triển sâu rộng hơn. Đồng thời nó đã và đang tác động đến đời
sống tinh thần người dân Thái Bình trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt
tích cực, nó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá vật thể và phi
vật thể, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội. Mặt tiêu cực, nó dễ bị lợi
dụng để phục vụ mưu lợi ích cá nhân, ảnh hưởng khơng tốt đến sự phát triển
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Do đó, phát huy ảnh hưởng tích cực, loại bỏ

ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với các lĩnh vực của đời sống
xã hội mà đặc biệt là trong lĩnh vực đời sống tinh thần là việc làm rất cần thiết
cho sự bứt phá đi lên của tỉnh nhà hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, có nhiều đề tài nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu dưới
nhiều góc độ khác nhau, thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Những cơng
trình này có thể nằm độc lập hoặc nằm trong những cơng trình về tín ngưỡng
dân gian nói chung.
* Có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian
trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu được đề cập đến như một loại hình tín ngưỡng
dân gian như:
- Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam của tác giả Nguyễn Minh San
(1998). Trong công trình của mình, tác giả Nguyễn Minh San khơng sử dụng
thuật ngữ tín ngưỡng dân gian mà lại sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng dân dã
nhưng về thực chất hai thuật ngữ này là giống nhau và tác giả cho rằng tín
ngưỡng thờ Mẫu cũng là một loại hình của tín ngưỡng dân dã. Tác giả khẳng
định tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn từ ý thức tưởng nhớ tổ tiên xuất phát từ
lịng tơn kính, vì sự nhớ ơn, vì sự tin tưởng và cũng vì ảnh hưởng của đạo giáo;
tác giả tập trung trình bày về điện thờ và một số lễ nghi cơ bản của tín ngưỡng
thờ Mẫu như: lễ hầu đồng, lễ đội bát nhang…


3
- Các hình thái tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam của tác giả Nguyễn Đăng Duy
(2001). Trong cơng trình này, tác giả cho rằng ở Việt Nam từ xưa cho tới nay
khơng hề có tơn giáo mà chỉ có các hình thái tín ngưỡng là: tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhưng tác giả

khơng coi tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian mà theo
tác giả tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ là một loại hình “tín ngưỡng” mà thơi. Trong
đó, tác giả cho rằng, vấn đề cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu chính là mong
muốn về sự sản sinh, sự sinh sôi nảy nở và người Mẹ biểu tượng đầu tiên chính
là Mẹ Cây, ngồi ra tác giả cịn đề cập đến hiện tượng đồng bóng, hiện tượng
Mẫu Liễu Hạnh và một số không gian thiêng liêng của tín ngưỡng thờ Mẫu
như Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ…
- Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam do Ngơ Đức Thịnh chủ
biên (2001). Cơng trình này được chia làm hai phần, phần thứ nhất tác giả phác
họa về tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam, đi sâu nghiên cứu sáu
loại hình tín ngưỡng dân gian tiêu biểu là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín
ngưỡng thờ thành hồng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín
ngưỡng nghề nghiệp và tín ngưỡng thờ Mẫu (tác giả gọi là Đạo Mẫu). Phần thứ
hai trình bày một số hình thức văn hóa - nghệ thuật dân gian có mối quan hệ
mật thiết với tơn giáo, tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ Mẫu được nghiên cứu
trong cơng trình này chủ yếu dưới góc độ văn hóa, tác giả đã trình bày những
yếu tố cấu thành của tín ngưỡng thờ Mẫu có liên quan nhiều đến văn hóa như:
điện thờ (với hệ thống tượng thờ và vị trí của chúng trong điện thờ), thần tích
(văn học dân gian Đạo Mẫu), lễ hội và nghi lễ cơ bản (lễ hầu đồng) của tín
ngưỡng thờ Mẫu.
- Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam do Nguyễn Đức Lữ
làm chủ biên (2007). Trong cơng trình này, tác giả cho rằng tín ngưỡng dân
gian như là một bộ phận của văn hóa dân gian, tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại
hình tín ngưỡng dân gian chứ khơng phải là tơn giáo và đưa ra khái niệm về tín
ngưỡng thờ Mẫu, chỉ ra một cách khái lược nhất về điện thờ (với hệ thống
tượng thờ) cùng nghi lễ hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
- Ngồi những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian được xuất bản
dưới dạng sách thì cũng có một số cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân
gian dưới dạng các bài báo trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Tri
Nguyên với bài “Bản chất và đặc trưng tín ngưỡng dân gian” (Tạp chí Di sản

văn hóa số 7, 2004); Nguyễn Quốc Phần với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân
gian và mê tín dị đoan” (Tạp chí Văn học Nghệ thuật số 11, 1998); Ngô Đức
Thịnh với bài, “Những giá trị của Đạo Mẫu Việt Nam” (Tạp chí văn học nghệ
thuật số 310, tháng 4- 2010); Đinh Gia Khánh với bài, “Tục thờ Mẫu và những
truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam” (Tạp chí Văn hóa số 5, 1992); Trần
Lâm Bền với bài “Mẫu thần điện”, (Tạp chí văn hóa dân gian, 1992). Các bài


4
báo, tạp chí góp phần bàn thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu dần đưa nghi lễ tín
ngưỡng thành tài sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
* Những cơng trình nghiên cứu chun sâu về tín ngưỡng thờ Mẫu:
- Những cơng trình nghiên cứu tổng quan về tín ngưỡng thờ Mẫu
Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam (2 tập), Nxb Văn hóa thơng
tin, Hà Nội. Đây được coi là một tác phẩm lớn nghiên cứu một cách cơ bản và
tương đối tồn diện về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng chủ yếu tác giả tiếp cận tín
ngưỡng này dưới góc độ văn hóa. Ở tập 1, tác giả đã trình bày một cách có hệ
thống các khía cạnh thần tích, truyền thuyết, điện thần, nghi lễ thờ cúng và lễ
hội của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và đi sâu tìm hiểu những loại hình thờ
Mẫu phổ biến ở các địa phương từ Bắc vào Nam như: Thờ Mẫu ở Bắc bộ (với
hình tượng thờ Mẫu Liễu ở Phủ Giầy, Phủ Tây Hồ và Lạng Sơn), Thờ Mẫu ở
Huế (với hình tượng bà Mẹ Chăm), Thờ Mẫu ở Nam Bộ và Tây Nguyên…từ
đó, khẳng định tục thờ Mẫu là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể đang
trong xu thế phát triển trở thành một hình thái tôn giáo dân gian sơ khai với rất
nhiều các giá trị về văn hóa, nghệ thuật…cũng như cịn một số hạn chế trong
hoạt động của nó. Cịn ở tập 2, tác giả đã thống kê và sưu tầm hệ thống các bài
hát văn thường được thực hiện trong nhiều nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu đặc
biệt là nghi lễ hầu đồng.
Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Cuốn sách đã chỉ ra rằng Đạo Mẫu là một loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu có
nguồn gốc bản địa của người Việt, trong q trình phát triển của mình nó đã
thu nhận khơng ít những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo, là sự
tích hợp của ba lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ
phủ; Đạo Mẫu không chỉ là một hiện tượng tơn giáo mà cịn là một hiện tượng
văn hóa, thơng qua nghi lễ lên đồng, lễ hội, phong tục thì Đạo Mẫu thực sự là
một bảo tàng sống của văn hóa Việt Nam…
Nguyễn Hữu Thơng (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền
Trung, Nxb Phân viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thành phố Huế. Với
cơng trình này, tác giả lại tiếp tục khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại
hình tín ngưỡng bản địa của người Việt với việc phát triển từ việc thờ Mẹ
đến hệ thống thần linh trong Tứ phủ và công trình cũng đã đề cập đến hiện
tượng đồng bóng với vấn đề chầu văn mang những dấu ấn của tín ngưỡng
thờ Mẫu ở miền Trung.
Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa thánh Mẫu, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà
Nội. Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích sự hình thành và phát triển của
các biểu tượng Thánh Mẫu: Mẫu Mỵ Châu, Mẫu Ỷ Lan, Mẫu Liễu Hạnh.
Vũ Ngọc Khánh, Mai Thị Chúc, Phạm Hồng Hà (2002), Nữ thần và Thánh
Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Trong cơng trình này, các tác giả đã
chia các nữ thần ở Việt Nam thành các nữ thần trong thần thoại, nữ thần của


5
các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các Chư thần và trình bày thần tích của
117 vị nữ thần ở Việt Nam. Cơng trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong
phú và bổ ích để các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở
Việt Nam.
Vũ Ngọc Khánh (2008), Tục thờ Đức Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần,
Nxb Văn hóa thơng tín, Hà Nội. Tác giả đã trình bày về sự phát triển từ nguyên
lý Mẹ của văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ

phủ. Cơng trình tập trung vào phân tích và chỉ ra vị trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh
trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung, tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ
nói riêng và trình bày các nghi lễ trong việc thờ phụng Mẫu Liễu. Bên cạnh đó,
tác giả cũng trình bày khái lược về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong
lịch sử Việt Nam, sự hiển thánh của Ngài trong tâm thức dân gian cũng như hệ
thống thần linh, lễ hội Đức Thánh Trần được diễn ra ở Đền Kiếp Bạc.
- Ngồi những cơng trình mang tính tổng quan về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng
có nhiều cơng trình nghiên cứu những yếu tố riêng lẻ (mang tính bộ phận) cấu
thành nên tín ngưỡng thờ Mẫu như điện thờ, tượng thờ, nghi lễ, âm nhạc…có
thể kể đến các cơng trình sau:
Ngơ Đức Thịnh (chủ biên) (1992), Hát văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Cơng trình này chia làm hai phần, ở phần một tác giả tập trung nghiên cứu và
tìm hiểu về những khía cạnh tín ngưỡng – tơn giáo, văn hóa nghệ thuật trong
hát văn và hầu bóng; cịn phần hai tác giả thống kê một số bài hát văn trong
nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Ngơ Đức Thịnh (2010), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận,
Nxb Thế giới, Hà Nội. Với cơng trình này, tác giả đã khẳng định lên đồng
khơng phải là một tín ngưỡng mà là một nghi lễ đặc trưng của Đạo Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ của người Việt. Nghi lễ hầu đồng về bản chất cũng có sự tương
đồng với các nghi lễ shaman – một trong những tín ngưỡng phổ biến trong
nhiều dân tộc trên thế giới và bước đầu tìm hiểu các khía cạnh tâm sinh lý và
trị liệu của lên đồng.
Nguyễn Ngọc Mai (2010), Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh đổi mới,
Luận án tiến sỹ văn hóa học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam. Trong luận
án này tác giả đã chỉ ra những thay đổi của nghi lễ lên đồng từ thời phong kiến
cho đến hiện nay và phân tích những ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến
sự biến đổi đó. Bên cạnh đó, cơng trình đã làm rõ bản chất của hiện tượng hầu
đồng trong xã hội Việt Nam hiện nay dưới góc độ nhân học văn hóa.
Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Luận án tiến sỹ triết học. Trong luận án

này, tác giả đã khái quát những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ thông qua quan niệm về con người, tự
nhiên, về mối quan hệ giữa con người với xã hội và tự nhiên trong tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ.


6
- Bên cạnh các cơng trình được xuất bản dưới dạng sách in trên cịn có nhiều
bài viết trên các tạp chí, lý luận chuyên ngành như: Đinh Gia Khánh, Tục thờ
Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam, tạp chí văn học số
5/1992; Hương Nguyên, Quanh tục thờ Thánh Mẫu, Tạp chí Di sản văn hóa số
7/2004, Nguyễn Hữu Thụ, Đơi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín ngưỡng
thờ Mẫu qua truyền thuyết phật Mẫu Man Nương và Thánh Mẫu Liễu Hạnh,Tạp
chí nghiên cứu tôn giáo số 4/2009, Nguyễn Hữu Thụ, Về cơ sở hình thành và hát
triển của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ - xét dưới
góc độ triết học, Tạp chí nghiên cứu tơn giáo số 1/2012…
Thơng qua các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng
thờ Mẫu này tác giả đã kế thừa và vận dụng vào luận văn của mình trong việc
đưa ra những cách hiểu về tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng thờ Mẫu; lịch sử
hình thành, điện thờ và nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài ra, tác giả cũng
đã thấy được một số những giá trị văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng cũng như
lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu như: truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
xâm; truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái; uống nước nhớ nguồn; tôn
trọng phụ nữ và khả năng chữa bệnh của hầu đồng…
* Ở Thái Bình, một số tác giả đã nghiên cứu ít nhiều về tín ngưỡng thờ Mẫu
nhưng lại thể hiện chủ yếu dưới dạng văn hoá truyền thống, các lễ hội, các trị
chơi, điệu múa dân gian. Đó là Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hố làng
Thái Bình, Sở Văn hố Thơng tin và Thể thao Thái Bình; Nhiều tác giả (1999),
Múa dân gian ở Thái Bình, Sở Văn hố Thơng tin và Thể thao Thái Bình; Nguyễn
Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội;

Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2005), Nữ thần và Thánh mẫu Thái Bình, Sở Văn
hố Thơng tin và Thể thao Thái Bình.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến tín ngưỡng thờ Mẫu từ nhiều
khía cạnh khác nhau, mang tính tổng quát hay từng khu vực, lĩnh vực cụ thể.
Riêng vấn đề “Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần
người dân Thái Bình hiện nay” cho đến nay chưa có đề tài nào đề cập một cách
cụ thể, hệ thống. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các thế
hệ trước, kết hợp với sự nghiên cứu, tìm tịi, khảo sát của bản thân trong q
trình học tập và công tác, tôi quyết định nghiên cứu, tìm hiểu về ảnh hưởng của
tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu và ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình hiện nay luận văn đề
ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực trong tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần lành mạnh
hóa đời sống tinh thần người dân Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ


7
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng thờ Mẫu và đời sống
tinh thần người dân Thái Bình hiện nay.
- Khảo sát thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống
tinh thần người dân Thái Bình hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với
đời sống tinh thần của người dân Thái Bình trong giai đoạn hiện nay trên cả hai
phương diện tích cực và tiêu cực (dưới góc độ Triết học).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn ở việc khái quát một số vấn đề lý
luận về tín ngưỡng thờ Mẫu và đời sống tinh thần người dân Thái Bình hiện
nay, đồng thời nhấn mạnh những nét đặc sắc về biểu hiện và cách thức sinh
hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân Thái Bình. Từ đó, đi nghiên cứu thực
trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân
Thái Bình – đây là một lĩnh vực rộng lớn, do đó luận văn chỉ giới hạn nghiên
cứu ảnh hưởng của nó đối với một số lĩnh vực như: ảnh hưởng đến đời sống
chính trị; ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống; ảnh hưởng đến đời sống tâm linh
của người dân Thái Bình trên cả hai phương diện ảnh hưởng tích cực và ảnh
hưởng tiêu cực. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng
thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo…làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu; đồng thời sử dụng những phương
pháp khác như: điều tra khảo sát, thống kê và tổng hợp, so sánh, phương pháp
lơgíc, lịch sử…
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những nét đặc trưng về tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Thái Bình; phân tích những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần người
dân Thái Bình.

- Bước đầu luận văn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống


8
tinh thần người dân Thái Bình góp phần củng cố, nâng cao sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội
ở tỉnh Thái Bình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã đề cập tới một vấn đề tuy không mới nhưng quan trọng và
còn nhiều điểm chưa được làm sáng tỏ. Luận văn đã kế thừa có chọn lọc các
cơng trình nghiên cứu trước đó về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín
ngưỡng thờ Mẫu nói riêng.
- Luận văn góp phần nhận diện đặc điểm, các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần người dân Thái Bình. Qua đó,
giúp người đọc hiểu thêm những nét đặc sắc của tín ngưỡng dân gian và văn
hóa cổ truyền của mảnh đất và con người Thái Bình.
- Đề tài sau khi hồn thành có thể dùng làm tài liệu cho việc học tập và
nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến các khoa học xã hội như: triết học, văn
hóa học, dân tộc học, xã hội học và nhất là các chuyên đề về tín ngưỡng tơn
giáo. Ở mức độ nào đó, luận văn cũng sẽ là nguồn tài liệu bổ ích cho các nhà
hoạch định chủ trương, chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo ở Thái
Bình nói riêng và cả nước nói chung.
8. Kêt cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương và 4 tiết.
Chương 1
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI
DÂN THÁI BÌNH HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở VIỆT NAM VÀ THÁI BÌNH HIỆN NAY


1.1.1.Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
1.1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm “tín ngưỡng dân gian”
Tín ngưỡng dân gian là một thành tố của văn hố dân gian, được hình
thành và phát triển dựa trên cơ sở sản xuất nơng nghiệp tự nhiên, do chính
người dân - trước hết là người lao động sáng tạo ra. Nó phản ánh đời sống tinh
thần phong phú của người Việt. Nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác
trong dân gian qua nhiều thế hệ. Nó phản ánh những ước nguyện tâm linh của
con người và cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ
thờ cúng, gắn liền với phong tục, tập quán, truyền thống.
* Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu: Hiện nay, chưa có cách đánh giá
thống nhất về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng cơ bản có bốn khuynh hướng chủ
yếu đánh giá về tín ngưỡng thờ Mẫu của các học giả và các nhà khoa học
trong nước như sau:


9
Thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Thứ hai: Xem thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian
Thứ ba: Xem thờ Mẫu là tín ngưỡng, là tập tục truyền thống
Thứ tư: Xem thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách thức
chứ khơng mang nghĩa tơn giáo.
Sau khi tìm hiểu các quan niệm trên chúng tôi đi đến nhận định tín
ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Nữ
thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng liêng vào
quyền năng của Mẫu, đấng sáng tạo, bảo trợ cho sự tồn tại và sinh thành của
vũ trụ, đất nước, con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một bộ phận của ý thức xã
hội được hình thành từ chế độ thị tộc Mẫu hệ, thuộc một loại hình tín ngưỡng
dân gian thờ Nữ thần (những khơng phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu) để tôn

vinh những người phụ nữ có cơng với nước,với cộng đồng tiêu biểu cho những
giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội làm Thánh Mẫu, Vương
Mẫu…và qua đó người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ của các
lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần.
- Thờ Nữ thần là lớp thờ nằm trong tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện sớm
nhất, có đối tượng được thờ cúng là những vị thần có tính nữ.
- Thờ Mẫu thần là lớp thờ nằm trong tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện muộn
hơn lớp thờ Nữ thần, có đối tượng được thờ cúng là những vị thần có tính nữ
những được dân gian tôn xưng là Mẫu thần. Thờ Mẫu thần là sự phát triển từ
thờ Nữ thần.
- Thờ Tam phủ - Tứ phủ là lớp thờ ra đời khoảng thế kỷ XVI thể hiện sự
phát triển tương đối hồn thiện của tín ngưỡng thờ Mẫu. Từ rất nhiều các vị Nữ
thần và Mẫu thần, người Việt đã khái quát và trưng cất lên còn ba (Tam), bốn
(Tứ) vị Thánh Mẫu cai quản ba hay bốn vùng (phủ) gồm: Mẫu Thượng Thiên
cai quản vùng Trời (Thiên phủ), Mẫu Thượng Ngàn cai quản vùng Rừng (Nhạc
phủ), Mẫu Thoải cai quản vùng Nước (Thoải phủ) và Mẫu Địa cai quản vùng
Đất (Địa phủ).
1.1.1.2. Lịch sử phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu
Nếu như thờ Mẫu thần là sự phát triển từ thờ Nữ thần thì thờ Mẫu Tam
Phủ, Tứ Phủ chính là sự phát triển cao về nhiều mặt từ thờ Mẫu thần (về tính
hệ thống, quy mơ thờ phụng, nghi lễ tổ chức)
Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển của tín
ngưỡng thờ Mẫu từ lớp thờ Nữ thần đến lớp thờ Mẫu thần và sau này là lớp thờ
Tam Phủ - Tứ Phủ không chỉ đơn giản là sự khái quát về sự thay đổi nghi lễ và
điện thờ, mà hơn thế nữa đó chính là sự phản ánh tiến trình lịch sử của xã hội
người Việt.
1.1.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình


10

1.1.2.1. Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội và tình hình tơn
giáo, tín ngưỡng ở Thái Bình
* Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội
Thái Bình là tỉnh nơng nghiệp có diện tích đất tự nhiên là 1546 km2,
chiếm 0,5% diện tích đất đai của cả nước. Phía Đơng giáp Vịnh Bắc bộ, phía
Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải
Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phịng. Thái Bình là một tỉnh ven biển
nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là hành lang cận kề với tam
giác phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh),
là cửa ngõ thơng thương giữa Hải Phịng, Quảng Ninh, nối dài tới các tỉnh
duyên hải suốt dọc đất nước. Tồn tỉnh được bao bọc bởi hệ thống sơng biển
khép kín. Bờ biển Thái Bình chạy dài trên 50 km, là môi trường thuận lợi để
phát triển kinh tế biển và phát triển du lịch. Có 4 sơng lớn chảy qua địa phận
của tỉnh: phía Bắc và Đơng Bắc là sơng Hố, phía Bắc và Tây Bắc là sơng
Luộc, phía Tây và Nam là hạ lưu của sông Hồng và sông Trà Lý với 5 cửa sông
lớn Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân.
Đơn vị hành chính của tỉnh gồm thành phố Thái Bình và 7 huyện: Kiến
Xương, Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Thái Thụy, Tiền Hải, Vũ Thư với
286 xã, phường, thị trấn và một thành phố. Với quy mơ dân số tính đến thời
điểm hiện tại khoảng 1.945.276 người, mật độ dân số trung bình khoảng 1.250
người/km2 (cao hơn nhiều so với các tỉnh trong cả nước), tỷ lệ sinh khoảng
1,3%. Đây cũng là tỉnh có mật độ dân cư cao nhất so với các tỉnh đồng bằng và
trung du Bắc Bộ, trong đó có gần 90,1% dân số sống ở nông thôn. Người Việt
(người Kinh) sinh sống là chủ yếu, các dân tộc khác chỉ có khoảng trên dưới
100 người.
Là tỉnh thuần nơng, kinh tế Thái Bình chậm phát triển so với các tỉnh lân
cận. Sản xuất nông nghiệp chiếm đa số nhưng năng suất và hiệu quả chưa cao.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đang phát triển nhưng chưa
mạnh mẽ. Thu nhập bình qn/đầu người cịn thấp, đời sống và sản xuất của
nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn.

* Khái qt tình hình tơn giáo, tín ngưỡng ở Thái Bình
Ở Thái Bình hiện có ba tơn giáo lớn: Cơng giáo, Phật giáo, Tin Lành với
hệ thống cơ sở thờ tự bề thế, khang trang và tương đối hoàn thiện (quy mô tôn
giáo lớn thứ ba so với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Nếu tính cả các cơ sở thờ tự
tín ngưỡng dân gian truyền thống thì Thái Bình là một trong những tỉnh có mật
độ tín ngưỡng, tơn giáo khá dày đặc. Đặc điểm của các tín ngưỡng, tơn giáo là
không tập trung ở một địa bàn nhất định mà đan xen và phân bố đều khắp trong
cộng đồng dân cư. Quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo, tín đồ các tơn giáo với
người dân khơng theo tơn giáo bình đẳng, hồ đồng, cùng đồn kết gắn bó xây
dựng cuộc sống mới.
1.1.2.2. Các hình thức và đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình


11
* Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình
Ở Thái Bình, tín ngưỡng thờ Mẫu mang đặc trưng của văn hóa nơng
nghiệp lúa nước. Tục thờ Mẫu đã tiềm tàng trong đời sống tinh thần của người
dân quê lúa từ trước khi đạo Phật được truyền vào Thái Bình. Trước sự truyền
bá của Phật giáo, tín ngưỡng thần linh bản địa - nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu không những không bị mai một đi mà được kết hợp đan xen tạo nên sự hịa
đồng của những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng rất phong phú, đa dạng.
Các nữ thần được phụng thờ và tôn làm Thánh Mẫu ở Thái Bình là những
vị có nhiều cơng trạng với nhân dân, xã tắc và được nhân dân tơn kính, thờ
phụng. Bao gồm: các nữ thần có cơng đánh giặc giữ nước, giữ quê (những nữ
tướng của Hai Bà Trưng như Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục (Thục Nương),
đền thờ hiện ở xã Tây Tiến huyện Hưng Hà; Quế Hoa công chúa, Ả Cực công
chúa thờ ở xã Hồng Phong huyện Vũ Thư; Ngọc Nương công chúa thờ ở
Thanh Lãng xã Minh Hòa huyện Hưng Hà… Các nữ thần có cơng mở đất lập
làng xây dựng phong tục tập quán tốt đẹp như Ả Lã Phương Dung thờ ở làng
Thuận Vi, xã Bách Thuận, huyện Vũ Thư là người vừa có cơng lập làng, vừa là
tổ nghề trồng dâu nuôi tằm; Bà Chúa Muối Mai Thị Nguyệt Ảnh thờ ở làng

Quan Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy; Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung
hiện thờ ở khu di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà…Các nữ thần là
tổ nghề như bà Nguyễn Nhất Nương – bà tổ nghề gai vó – thờ ở xã Đình
Phùng, huyện Kiến Xương; bà Nguyễn Thị Tần – thủy tổ nghề làm bánh cáy –
thờ ở làng Nguyễn, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng…Các nữ thần là những
tấm gương sáng về đạo đức trung hiếu, tiết nghĩa như: Trinh liệt nữ Mai Hoa
công chúa hiện thờ ở xã An Dục, huyện Quỳnh Phụ; Hoa Đình cơng chúa thờ ở
thơn Hồng Xá, xã Quỳnh Châu huyện, Quỳnh Phụ; Gia Thục trưởng công
chúa thờ ở thôn An Phúc, xã Song An, huyện Vũ Thư; Trinh thục Từ Hịa cơng
chúa thờ ở làng Đót, xã Văn Lang, huyện Hưng Hà...
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân Thái Bình rất coi trọng Mẫu Liễu
Hạnh và thờ Mẫu ở cả Tam phủ, Tứ phủ. Hiện nay, ở Thái Bình có khoảng 45
phủ (cả Tam phủ và Tứ phủ). Các làng thuộc huyện Hưng Hà như: Làng Hậu
(xã Bạch Đằng), An Vi (xã Đông Hải), Hà Xá, Bùi Xã (xã Tân Lễ), Như Khê
(xã Tân Hòa); huyện Đơng Hưng có các làng như: Long Bối (xã Đơng Hợp),
Đông Trại (xã Đông Quan), Gia Lễ, Tống Thỏ (xã Đơng Mỹ); Sa Cát (xã Đơng
Hịa, thành phố Thái Bình); Đào Xá (xã An Đồng), Hiệp Lực (xã An Khê) của
huyện Quỳnh Phụ…đều có phủ Mẫu Liễu Hạnh. Đó là các phủ lớn cịn phối
thờ thì hầu như làng nào cũng có. Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở làng Hiệp
Lực (An Khê), đền Đào Động (Quỳnh Phụ), đền Tiên La (Hưng Hà), đền Tam
Hòa xã Thụy Trường (Thái Thụy). Mẫu Thoải (Thủy Tiên công chúa) được thờ
phối ở các phủ, các đền cùng Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thượng Ngàn, song nổi
tiếng nhất vẫn là ở phủ Luộc xã Tân Lễ (Hưng Hà).


12
Không chỉ thờ Mẫu ở các đền, chùa, miếu, phủ, người Thái Bình cịn thờ
Mẫu cả ở những điện thờ tư gia. Theo thống kê (mang tính tương đối) ở Thái
Bình có tới gần 2000 điện thờ tư gia được các gia đình lập nên để thờ chư vị
bách thần, trong đó có gian riêng để thờ Mẫu.

* Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình mang đặc điểm chung của tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt đồng bằng Bắc bộ nhưng lại có những nét riêng về quan
niệm, mức độ, biểu hiện, hành vi tín ngưỡng. Có thể đề cập đến một vài đặc
điểm cơ bản sau đây:
Một là, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình thể hiện tính dân chủ, nhân văn rất cao.
Hai là, tính dung hợp, đan xen với các tín ngưỡng, tơn giáo khác (đặc biệt
là Phật giáo) cũng là một đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái
Bình.
Ba là, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình gắn bó chặt chẽ với văn hố dân
gian, văn hoá cổ truyền của dân tộc, do vậy nó mang bản sắc văn hố cao
1.2. ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ CƠ CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN
NGƯỠNG THỜ MẪU ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN THÁI BÌNH
HIỆN NAY

1.2.1. Đời sống tinh thần của người dân Thái Bình hiện nay
1.2.1.1. Khái niệm và cấu trúc của đời sống tinh thần
Đời sống tinh thần được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, những quá
trình, những hoạt động và quan hệ tinh thần của xã hội, nó phản ánh đời sống
vật chất của xã hội và bị quy định bởi đời sống vật chất ấy trong từng giai đoạn
phát triển của lịch sử nhất định.
* Cấu trúc của đời sống tinh thần.
Có nhiều cách phân chia cấu trúc của đời sống tinh thần, tuy nhiên trong
giới hạn của đề tài, đời sống tinh thần bao gồm các lĩnh vực cơ bản như sau:
Thứ nhất, xét với tính cách là một quá trình vận động và phát triển, đời
sống tinh thần được biểu hiện qua các yếu tố cơ bản như: nhu cầu tinh thần, sản
xuất tinh thần, giao tiếp và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần. Các yếu tố của
cấu trúc đời sống tinh thần luôn tác động lẫn nhau làm cho đời sống tinh thần
tồn tại, vận động và phát triển sinh động, phong phú, phức tạp. Trong đó, sản
xuất tinh thần là nhân tố quyết định, chi phối nhu cầu tinh thần và các yếu tố

khác của đời sống tinh thần, các yếu tố khác có vai trị tác động trở lại sản xuất
tinh thần.
Thứ hai, xét với tính cách là hệ thống đang vận động và biến đổi, thì đời
sống tinh thần được xem xét ở các lĩnh vực: đời sống tư tưởng; đời sống tâm
linh; đạo đức, lối sống; hoạt động khoa học; giáo dục và đào tạo; nghệ thuật;
tín ngưỡng, tơn giáo…Mỗi lĩnh vực của đời sống tinh thần có tính đặc thù
riêng, chúng đều đáp ứng một dạng nhu cầu tinh thần nào đó của đời sống xã


13
hội, đều bao gồm cả các hoạt động sáng tạo, trao đổi, tiêu dùng các giá trị
tinh thần.
1.2.1.2. Một vài nét về đời sống tinh thần người dân
Thái Bình hiện nay
Đời sống của người dân Thái Bình những năm qua không ngừng được cải
thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh sự quan tâm phát triển kinh tế - xã
hội, Thái Bình cịn là địa phương thực hiện tốt việc gìn giữ, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống. Với 16 loại hát múa dân gian đặc sắc như chiếu chèo
“Làng Khuốc”, múa rối “làng Nguyễn”…hay những trò chơi dân gian trong
các lễ hội, đến nay vẫn được lưu truyền, gìn giữ như một nếp sinh hoạt văn hóa
cộng đồng thấm đượm tính nhân văn. Hàng năm ở Thái Bình diễn ra khoảng
hơn 200 lễ hội gắn với những địa danh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người
dân quê lúa như lễ hội đền Trần, chùa Keo, đền Đồng Bằng, từ đường Lê Quý
Đôn... Cách thức tổ chức các buổi lễ hội luôn được thực hiện với những nghi lễ
trang nghiêm, đúng mực đảm bảo tiết kiệm và hướng đến mục tiêu giáo dục
trong cộng đồng nói chung. Việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp ln được kết hợp với nhiều hình thức đa dạng, gần gũi với những sinh
hoạt hàng ngày của người dân. Hưởng ứng các phong trào “toàn dân đồn kết
xây dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng gia đình văn hóa”, “xây dựng nơng thơn
mới”, nhân dân Thái Bình đã tích cực thực hiện nếp sống mới trong các hoạt

động như cưới xin, ma chay, bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, đẩy lùi tệ nạn xã hội,
xây dựng hương ước, quy ước về làng xã văn hóa và cùng nhau thực hiện. Nhờ
đó bộ mặt nơng thơn địa phương đang từng ngày có sự chuyển biến. Đến năm
2013, tồn tỉnh đã có 75% số gia đình, 46% thơn, tổ dân phố, 62% cơ quan, đơn
vị đạt chuẩn văn hóa. Nhiều gương sáng điển hình được tuyên dương tạo ra
phong trào thi đua sôi nổi giữa các địa phương trong tồn tỉnh, góp phần động
viên và nêu cao tinh thần trách nhiệm của nhân dân. Hưởng ứng chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước, Thái Bình đã đẩy mạnh việc thực hiện xây
dựng nơng thơn mới. Những năm qua, với phương châm Nhà nước và nhân
dân cùng làm, nhân dân các địa phương đã đóng góp trên 300 tỷ đồng cùng với
chính quyền xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động sản xuất và
đảm bảo an sinh xã hội. Nhờ sự tích cực phấn đấu, đến năm 2013, tất cả các địa
phương trong toàn tỉnh đã thực hiện xong các chương trình: điện, đường,
trường, trạm, thơng tin và nước sạch.
Thơng qua nhu cầu tâm lý, tình cảm của nhân dân: Đây là yếu tố cơ bản
nhất làm cho tín ngưỡng, tơn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng
tồn tại và khi có cơ hội lại bùng lên phục hồi phát triển một cách mạnh mẽ.
1.2.2. Cơ chế ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống tinh
thần người dân Thái Bình hiện nay
Một là, thơng qua nhu cầu tâm lý, tình cảm của nhân dân


14
Đây là yếu tố cơ bản nhất làm cho tín ngưỡng, tơn giáo nói chung và tín
ngưỡng thờ Mẫu nói riêng tồn tại và khi có cơ hội lại bùng lên phục hồi phát
triển một cách mạnh mẽ.
Hai là, thông qua thói quen, tập tục, truyền thống
Ba là, thơng qua các sinh hoạt tôn giáo
Bốn là, thông qua điều kiện kinh tế - xã hội
Năm là, thông qua thể chế, thiết chế chính trị - xã hội hiện hành

Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN THÁI BÌNH
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN THÁI BÌNH HIỆN NAY

Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần trên nhiều
lĩnh vực, song trong khuôn khổ đề tài chúng tôi chỉ đề cập ảnh hưởng của nó
đối với đời sống tâm linh; đạo đức, lối sống và chính trị.
2.1.1. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống tâm linh
người dân Thái Bình hiện nay
* Ảnh hưởng tích cực
Tơn giáo, tín ngưỡng nào dù lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống tâm linh của con người. Nói đến tâm linh là nói đến những vấn đề thiêng
liêng, đến niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên nào đó. Niềm tin vào sự linh
thiêng của tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân Thái Bình được thể hiện qua các
hành động, hành vi tín ngưỡng như: Tục lệ cầu cúng, lễ bái, các nghi lễ hơn
nữa còn ảnh hưởng đến phương pháp chữa bệnh của con người.
Dù trong quá khứ hay ở hiện tại thì tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là một trong
những phương thức để người Việt nói chung và người dân Thái Bình nói riêng
phản ánh cái tồn tại xã hội mà mình đang sống, và thơng qua đó, họ gửi gắm
những ước vọng, những mong muốn mà trong thực tế, với nỗ lực của riêng bản
thân họ, họ khơng cịn đủ tự tin để thực hiện hay vượt qua. Ngày nay, vấn đề
tâm linh là vấn đề được nhiều người quan tâm khơng chỉ riêng người dân tỉnh
Thái Bình mà dường như xã hội càng phát triển thì con người lại càng quan
tâm nhiều hơn. Tín ngưỡng thờ Mẫu có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi người đặc biệt là ảnh hưởng đối với đời sống tâm linh của
con người, có thể thấy với bất cứ vấn đề gì trong cuộc sống, con người đều có
thể tìm đến Mẫu, cậy nhờ cửa Mẫu mong Mẫu che chở. Từ việc đi lễ ngày tuần

hàng tháng hàng năm, đến cơng việc làm ăn thậm chí có bệnh cũng đến nương


15
nhờ cửa Mẫu, mặc dù đây là quan niệm không có cơ sở khoa học nhưng nhiều
người vẫn tin theo như một lẽ tự nhiên.
* Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực nêu trên của tín ngưỡng thờ Mẫu đối
với đời sống tâm linh người dân Thái Bình thì vẫn cịn nhiều ảnh hưởng tiêu
cực. Những quan niệm về con người trong tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn cịn chứa
đựng nhiều yếu tố duy tâm thần bí mang tính tơn giáo. Điều này đã phần nào
làm cho con người trở nên thụ động, phó mặc cuộc sống của mình cho thần
thánh, giảm thiểu sự sáng tạo và những hành động mang tính thực tiễn của con
người. Ngồi ra, sự giải thích về con người và cuộc sống của con người trong
tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là cơ sở cho nhiều hành vi mê tín, di đoan của các
ơng đồng, bà đồng, các con nhang, đệ tử; là cơ sở để rất nhiều người lợi dụng
tín ngưỡng thờ Mẫu vào mục đích phi tơn giáo như chữa bệnh, trừ tà ma, bn
thần bán thánh…
2.1.2. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đạo đức, lối sống
người dân Thái Bình hiện nay
Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng bản địa nhưng lại có sự kết hợp với
nhiều quan điểm của các tín ngưỡng, tơn giáo khác đặc biệt là với đạo Phật nên
trong đạo Mẫu cũng có những quan niệm “từ bi hỉ xả”, tích đức, hành thiện.
Trong quan niệm của người dân từ xưa đến nay luôn tâm niệm “phúc đức tại
Mẫu”, có nghĩa là mọi sự như may mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh…
của con cái đều do người mẹ để lại. Người mẹ nào biết tu thân, tích đức sẽ để
lại phúc cho con cháu còn ngược lại làm nhiều điều ác trái với đạo lý thì ngay
bản thân mình và thế hệ sau phải gánh chịu hậu quả. Chính vì quan niệm này
mà người phụ nữ nói riêng và mỗi người nói chung tự điều chỉnh hành vi của
mình, ln ăn ở phúc đức với cộng đồng, làm điều thiện, tránh làm điều ác,

sống chan hịa, đồn kết, có tình có nghĩa để phúc đức, để phần cho con cháu
sau này, hướng con người đến hoàn thiện nhân cách cá nhân theo chuẩn mực
đạo đức chung của xã hội. Vì vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần khơng nhỏ
vào việc giáo dục và hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ.
Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần khơng nhỏ trong việc bảo
tồn, củng cố và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương
Thái Bình:
- Thứ nhất: Đó là truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm
- Thứ hai: Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện tinh thần “uống nước nhớ
nguồn”, biết ri ân những người có cơng với làng với nước.
- Thứ ba: Tinh thần đồn kết tương thân, tương ái:
- Thứ tư: Tín ngưỡng thờ Mẫu ảnh hưởng rất lớn đến truyền thống tôn
trọng phụ nữ, một nét đẹp trong truyền thống đạo đức Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã ảnh hưởng rất lớn đến lối sống của người dân
Thái Bình đặc biệt là đã tác động không nhỏ tới tư tưởng và hành động của


16
nhân dân trong làm ăn phát triển kinh tế. Trong lao động sản xuất kinh doanh ai
cũng muốn thuận lợi may mắn, “lời nhiều, lỗ ít”, “phát tài phát lộc”, “ăn ra làm
nên”. Do đó nhân dân khơng qn thờ cúng các vị thần bảo trợ cho họ. Mỗi khi
công việc làm ăn gặp khó khăn, thất bát, họ sắp lễ kêu cầu các thần phù hộ, cứu
giúp che chở; khi gặp may mắn làm ăn phát đạt họ lại sắp lễ vật tạ ơn. Cứ như
vậy, niềm tin vào sự phù trợ, ban ơn của tổ tiên, của Mẫu và các vị thần đã tạo
cho người dân yên tâm, vững tin vào những quyết định của mình, giảm bớt sự
hoang mang, dao động, thậm chí là đau buồn mỗi khi bị thất bại. Đó là chưa kể
người dân Thái Bình đã số là dân làm nơng nghiệp. Cơng việc sản xuất của họ
phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Bởi vậy, nhân dân không chỉ thờ cúng các
vị Thánh Mẫu là nhân thần mà còn rất coi trọng các vị Thánh Mẫu là nhiên
thần. Mỗi khi khấn bái các đấng thiêng người ta không quên cầu mong được

phù hộ để “mưa thuận, gió hịa, cửa nhà n ấm”. Vào những ngày đầu xuân,
sau khi việc cấy hái đã xong thì đó là thời gian “nơng nhàn”, nhân dân bắt dầu
đi du xuân, trảy hội, lễ chùa cầu xin các vị thánh thần phù hộ cho công việc
làm ăn của họ trong cả năm đó.
* Ảnh hưởng tiêu cực
Trong thực hành tín ngưỡng, do tin tưởng thái quá, nhiều người đã lấy
đạo đức cá nhân của một thế lực siêu nhiên áp đặt cho cộng đồng. Người ta
quan niệm rằng, đa số thần, thánh vốn dĩ là những người rất chuẩn mực về mọi
mặt. Trong thần tích của các Nữ thần và Thánh Mẫu ở Thái Bình cũng đều kể
về những vị trung trinh, tiết nghĩa, tài năng, đức độ, ý chí hơn người. Nhân dân
rất sùng bái các vị ấy nên tự khốc cho mình những tiêu chí mà họ cho là phù
hợp với ý nguyện của các thánh, thần và sợ rằng nếu thực hiện khác đi sẽ bị
trách phạt. Có nơi dân khơng dám canh tác ở gần đền phủ, miếu do quan niệm
“đất thiêng” nên đã bỏ hoang cả một vùng đất rộng lớn rất lãng phí. Thậm chí
người ta khơng dám xây dựng cơng trình phúc lợi, nhà ở những nơi vốn là nền
móng của đình, đền, miếu, phủ, chùa…Tâm lý sợ hãi các thế lực vơ hình đó đã
ln đè nặng, chi phối và chế ngự con người khiến họ đánh mất sự tự tin vào
bản thân.
Cũng do sợ hãi các thế lực siêu nhiên thần thánh, ma quỷ, khơng ít người
đã sa đà vào mê tín dị đoan hao tiền tốn của. Cũng giống như tơn giáo, tín
ngưỡng thờ Mẫu có khả năng dẫn con người đến những niềm tin mù quáng, dễ
bị một số yếu tố mê tín lợi dụng. Gắn với sinh hoạt tín ngưỡng ln là những
hiện tượng tiêu cực như bn thần, bán thánh, mê tín dị đoan, lừa đảo trộm cắp
tiền của nhân dân trong dịp lễ hội. Tình hình này làm cho một số kẻ giàu nên
do làm ăn bất chính nhưng lại làm tổn hại đến vật chất và tinh thần của nhân
dân. Tại Thái Bình đã xảy ra khơng ít những câu chuyện đau lịng ảnh hưởng
lớn đến đạo đức xã hội bởi hậu quả của mê tín dị đoan.
2.1.3. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống chính trị
người dân Thái Bình hiện nay



17
* Ảnh hưởng tích cực
Thực hành tín ngưỡng có tác động không nhỏ đối với việc tuyên truyền,
giáo dục nâng cao ý thức chính trị, pháp luật. Với sự quan tâm của cấp uỷ,
chính quyền và sự nỗ lực của các ban ngành, đồn thể, tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Thái Bình đã ngày càng đi theo chiều hướng tích cực, hạn chế dần mặt tiêu
cực. Nhu cầu tín ngưỡng được đảm bảo tốt giúp nhân dân có tín ngưỡng phấn
khởi, yên tâm, tin tưởng vào Đảng và chính quyền, vào đội ngũ cán bộ địa
phương. Theo đó, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước sẽ được tuyên truyền phổ biến đến nhân dân một cách thuận lợi dễ dàng
tránh được thái độ bất hợp tác của một số phần tử có tư tưởng chống.
Thực hành tín ngưỡng có tác dụng rất tốt đối với việc củng cố, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, Cùng với xu hướng thế tục hố của tín ngưỡng thờ
Mẫu, nó đã hồ mình vào mọi hoạt động sống của xã hội ở trong từng gia đình
cho đến ngồi cộng đồng. Nó trở thành sợi dây vơ hình gắn kết các giai cấp, tầng
lớp trong một lợi ích chung, tạo nên tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư.
Làm được điều đó, tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp tạo nên sự đồng thuận xã hội lớn,
góp phần thúc đẩy việc mở rộng và thực thi dân chủ, tiến tới công bằng xã hội.
* Ảnh hưởng tiêu cực
Cũng như tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói
riêng nó là lĩnh vực nhạy cảm và là một phần khơng thể thiếu của đời sống, nó
dễ bị lợi dụng, kích động gây bức xúc dư luận, mất đồn kết, tiềm ẩn nguy cơ
mất ổn định an ninh, trật tự xã hội.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC VÀ
HẠN CHẾ MẶT TIÊU CỰC ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU ĐỐI
VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN THÁI BÌNH HIỆN NAY

2.2.1. Nhóm giải pháp về mặt nhận thức
Thứ nhất: Cần phải xác định tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín

ngưỡng dân gian được hình thành từ rất sớm trong lịch sử, đã và đang thỏa mãn
nhu cầu tâm linh của một bộ phận quần chúng nhân dân. Tín ngưỡng thờ Mẫu
là nét đẹp của văn hóa truyền thống và phải tơn trọng các nghi lễ của tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Thứ hai: về phía cấp uỷ, chính quyền và các đồn thể ở địa phương cần
nhận thức đầy đủ về tín ngưỡng thờ Mẫu. Trên cơ sở đó đa dạng hố các hình
thức tun truyền, giáo dục để nhân dân nắm được bản chất của tín ngưỡng thờ
Mẫu hiện có ở địa phương mình. Phân tích làm rõ vai trị, ảnh hưởng (cả tích
cực và tiêu cực) của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống xã hội. *Thứ ba: Nâng
cao nhận thức xã hội và ý thức pháp luật của nhân dân về mọi lĩnh vực, trong
đó có vấn đề tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng.


18
Thứ tư: Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng các lượng
chính trị ở cơ sở.
2.2.2. Nhóm giải pháp về văn hóa
Thứ nhất: Phải xác định tín ngưỡng thờ Mẫu là nét đẹp của văn hóa
truyền thống. Ban dân vận, Ban tơn giáo, Sở Văn hóa thể thao và du lịch, Bảo
tảng tỉnh cần quan tâm đầu tư nghiên cứu, tra cứu, truyên truyền về tín ngưỡng
thờ Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác trên địa bàn tỉnh Thái Bình, tìm hiểu
sâu sắc về tín ngưỡng thờ Mẫu, những địa điểm thờ Mẫu từ đó phát hiện ra
những nét độc đáo mới mang bản sắc văn hóa của tỉnh để bảo tồn và phát huy.
Thứ hai: Phải tơn trọng các nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu đặc biệt là
nghi lễ Hầu đồng. Tuy nhiên việc tôn trọng các nghi lễ tín ngưỡng thờ Mẫu
khơng có nghĩa là khôi phục một cách tràn lan mà các cấp quản lý cần phải gạn
đục khơi trong, loại bỏ những gì là phản văn hóa khơng phù hợp với xu thế
phát triển chung của xã hội.
Thứ ba: Tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động toàn đân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hố, trong đó có xây dựng gia đình văn hố, dịng họ

văn hố, thơn làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá, khu dân cư tiên tiến.
2.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng
thờ Mẫu nói riêng
Thứ nhất: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc những quy định cụ
thể trong văn bản luật về trách nhiệm, quyền hạn quản lý của các cơ quan từ
tỉnh đến cơ sở trong việc quản lý hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Thứ hai: về cán bộ làm cơng tác văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo
Thái Bình cần tiếp tục cụ thể hoá và triển khai thực hiện tốt các quy định
về công tác cán bộ nêu trong Nghị định 22/2004/NĐ-CP ngày 24 tháng 1 năm
2004, Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo ngày 18 tháng 3 năm 2004, Nghị định
22/2005/NĐ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2005.... Có quy hoạch, kế hoạch cụ thể
đối với công tác củng cố, kiện tồn bộ máy làm cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo
của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mơ hình tổ chức quản lý Nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo ở các cấp. Xây dựng quy chế phối hợp nhằm phát huy sức mạnh và
hiệu quả công tác.
2.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất: chính quyền các cấp cần tập trung phát triển kinh tế đi đôi với
việc chăm lo tới các vấn đề xã hội. Đảm bảo đáp ứng nhu cầu về kinh tế mới
giúp nhân dân có điều kiện tham gia các sinh hoạt tín ngưỡng. Hướng dẫn nhân
dân lên kế hoạch cụ thể cho việc sản xuất và việc thực hành tín ngưỡng, lễ hội
hàng năm.


19
Thứ hai: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu
hướng hội nhập, đa phương hố phải gắn với đề phịng và khắc phục mặt trái
của các q trình đó. Tránh hiện tượng các lực lượng phản động dùng kinh tế,
vật chất tạo áp lực cản trở, kiềm chế hoặc can thiệp thô bạo nhằm đồng hố về

văn hố, tín ngưỡng. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở mọi cấp, mọi
ngành đến từng cơ sở. Phòng chống mọi biểu hiện và hành vi tham ô, tham
nhũng, sách nhiễu nhân dân. Nếu cứ để tiếp diễn tình trạng trên, nhân dân sẽ
thiếu niềm tin vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, vào sự lãnh đạo, quản lý của cấp
uỷ, chính quyền và chế độ xã hội thực tại. Đa dạng hoá các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục nâng cao tri thức và ý thức pháp luật cho nhân dân trong sản
xuất kinh doanh.
Thứ ba: Gắn phát triển kinh tế với thực hiện tốt các chính sách xã hội. Sản
xuất kinh doanh phải đi đôi với các hoạt động từ thiện, nhân đạo nhằm thực
hiện tốt chiến dịch xố đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa. Đó là những việc
làm cụ thể như: tham gia ủng hộ quỹ vì người nghèo, người bị nhiễm chất độc
điơxin, người tàn tật; ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình thương
binh liệt sĩ, các cá nhân và gia đình có cơng với cách mạng; nhận đỡ đầu, chăm
nuôi Mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ mồ côi, người đau yếu không nơi nương tựa;
làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài...
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời
sống xã hội, là một bộ phận của ý thức xã hội, chịu sự quy định của đời sống
vật chất. Tín ngưỡng là sản phẩm của lịch sử, của thời đại, có q trình hình
thành, biến đổi và ảnh hưởng nhất định đối với tiến trình phát triển của lịch sử
lồi người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, lối sống của
người Việt Nam và đã trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Nó có
nguồn gốc, bản chất giống như những loại hình tín ngưỡng khác song nó có sắc
thái riêng với những dấu ấn của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước điển hình.
Được hình thành từ rất lâu nên tín ngưỡng thờ Mẫu trong quá trình tồn tại và
phát triển đã dung nạp, đan xen với nhiều hình thức tín ngưỡng, tơn giáo khác.
Ở đồng bằng Bắc bộ nói chung và đặc biệt ở Thái Binh nói riêng tín ngưỡng
thờ Mẫu đã trở thành tín ngưỡng rất gần gũi với mọi tầng lớp dân cư trong xã
hội, được nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi. Tín ngưỡng này ngồi những nghi

lễ thờ cúng còn sản sinh nhiều giá trị văn hóa – nghệ thuật, góp phần bảo lưu
nhiều yếu tố văn hóa có giá trị, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngồi ra, tín ngưỡng
cịn đáp ứng nhu cầu khơng thể thiếu và khát vọng của đời sống thường nhật
của con người.


20
Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như tơn giáo là nhu cầu thuộc về đời sống văn
hoá, là nhu cầu tinh thần của tuyệt đại đa số các thành phần cư dân ở Thái
Bình. Xét ở khía cạnh nào đó, tín ngưỡng thờ Mẫu là nền tảng của mọi tôn giáo
cũng như nó là nền tảng, gốc rễ của văn hố truyền thống ở mỗi làng quê. Giữ
gìn bản sắc văn hố của các địa phương trong tỉnh cũng chính là lưu giữ và bảo
tồn các giá trị truyền thống, các thuần phong mỹ tục, trong đó có các loại hình
tín ngưỡng thờ Mẫu cho mn đời sau. Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng tâm linh
con người nhớ về cội nguồn, hướng về những người có cơng sáng lập ra cộng
đồng làng xã, những danh nhân làm rạng rỡ non sông, đất nước. Các vị Thành
hoàng làng, các vị thần, các vị Mẫu chính là các vị thần bản mệnh, thần bảo vệ
đất nước, quê hương, gia tộc. Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính đạo đức cao, thể
hiện lịng biết ơn sâu sắc và truyền thống uống nước nhờ nguồn.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Thái Bình với những giá trị độc đáo riêng biệt, có
ảnh hưởng khơng nhỏ đối với đời sống tinh thần của nhân dân. Trong đó, ảnh
hưởng mạnh mẽ, sâu rộng nhất đó là ảnh hưởng đến đời sống tâm linh; đạo
đức, lối sống; đời sống chính trị.
Mặc dù tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại nhiều giá trị nhưng cũng tồn tại một
số hạn chế trong đời sống tinh thần của xã hội. Những hạn chế này bên cạnh
tính cố hữu của nó là chủ yếu, thì đồng thời cũng xuất phát từ việc lợi dụng của
một số người trong việc bn thần, bán thánh. Chính vì vậy, cần đánh giá đúng
đặc điểm, tình hình, thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu, dự báo xu
hướng vận động, phát triển và biến đổi của nó trên thực tiễn để có cái nhìn tồn
diện về đời sống văn hố tinh thần của người dân Thái Bình hiện nay. Đồng

thời, qua đó thấy được những ảnh hưởng thực tế của nó đến đời sống tinh thần
- mặt nhạy cảm của đời sống xã hội của con người để đề xuất những giải pháp
thiết thực, góp phần xây dựng, hoạch định, bổ sung, điều chỉnh chủ trương,
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Thái Bình nói riêng. Có như vậy mới phát huy được mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực để tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một nét đẹp trong văn hóa của
người dân Thái Bình. Chỉ có trên cơ sở vững mạnh về kinh tế, ổn định về chính
trị - xã hội, tốt đẹp về văn hố... Thái Bình mới có đủ sức mạnh nội lực để cùng
cả nước vững bước trong thế kỉ XXI.



×