Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Triết lý “dĩ dân vi bản” trong nho giáo và ý nghĩa của nó đối với việc phát huy vai trò quần chúng nhân dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.83 KB, 97 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là học thuyết lớn, khởi nguồn từ Trung Quốc cách đây hơn
2500 năm, là học thuyết có sức sống lâu bền và có tầm ảnh hưởng sâu rộng
đối với nhiều quốc gia trong khu vực. Nho giáo vừa là học thuyết chính trị xã hội, vừa là học thuyết về đạo đức và cũng là học thuyết triết học. Trong
học thuyết Nho giáo, các vấn đề đạo đức không tách rời các vấn đề triết học
cũng như các vấn đề chính trị - xã hội. Cùng với sự vận động, phát triển của
xã hội phong kiến Trung Quốc, học thuyết Nho giáo cũng ngày càng được bổ
sung để đáp ứng yêu cầu của các giai cấp thống trị đương thời. Về phương
diện chính trị xã hội, triết lý “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) được Nho
giáo đặc biệt coi trọng. Nếu tạm gạt đi những yếu tố lỗi thời, bảo thủ do hạn
chế lịch sử thì nó vẫn có ý nghĩa, giá trị nhất định đối với xã hội hơm nay.
Hiện nay, việc đánh giá vai trị, tác động của triết lý “Dĩ dân vi bản” có
nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, “Lấy dân làm gốc” của Nho giáo
có nhiều giá trị tích cực và ý nghĩa to lớn đối với việc thiết lập trật tự xã hội
nói chung và đường lối trị nước của triều đại phong kiến Việt Nam. Ngược
lại, có quan điểm cho rằng, Nho giáo không vượt qua và không bao giờ rời
bỏ đạo lý “quân thần”, mọi mối quan hệ trong xã hội đều do “thiên mệnh”
quyết định, trong Nho giáo khơng có tư tưởng dân chủ, đấu tranh cho dân
chủ. Như vậy, quan điểm này đã tuyệt đối hóa mặt tiêu cực, phủ nhận mọi
đóng góp của nó trong lịch sử dân tộc. Cũng có quan điểm cho rằng, Nho
giáo khi du nhập vào Việt Nam hịa vào tín ngưỡng dân gian, văn hóa,
truyền thống dân tộc, thích nghi một cách sáng tạo và trở thành Nho giáo
Việt Nam… Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu triết lý “Dĩ dân vi bản” trong
Nho giáo Trung Quốc, qua đó thấy được ý nghĩa của nó đối với việc phát
huy vai trò quần chúng nhân dân ở nước ta hiện nay là một yêu cầu đang
được đặt ra từ phương diện lý luận.


2


Sự nghiệp đổi mới của chúng ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
công việc to lớn, lâu dài, khơng ít khó khăn gian khổ, nhằm xây dựng thành
cơng chủ nghĩa xã hội. Q trình đổi mới đất nước đã và đang đặt ra cho chúng
ta nhiều vấn đề cần được giải quyết, như: vấn đề giữ vững độc lập dân tộc và
chủ quyền quốc gia; vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước thực sự trong sạch
vững mạnh, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân; vấn đề đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân,... Sự nghiệp ấy đòi hỏi hơn bao giờ hết, phải phát huy
cao nhất sự sáng tạo cách mạng của quần chúng nhân dân lao động. Nghiên
cứu triết lý “Dĩ dân vi bản” của Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay có ý nghĩa thiết thực về phương diện thực tiễn.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, học viên chọn vấn
đề "Triết lý “Dĩ dân vi bản” trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với việc
phát huy vai trò quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài
luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu Nho giáo nói chung, tư tưởng về dân, “Lấy dân làm gốc”
nói riêng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
Liên quan đến đề tài có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, trong đó có một số
tác phẩm tiêu biểu.
Trong tác phẩm Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc do GS. Ngơ Vĩnh
Chính, Vương Miện Q chủ biên, khi phân tích một số biện pháp chủ yếu trong
tư tưởng về đường lối đức trị của Nho giáo, trong đó có nói đến quan niệm về
dân và vai trị của dân trong Nho giáo sơ kỳ, khẳng định tính nhân văn, nhân bản
của Nho giáo. Nho giáo luôn xem dân là rường cột của xã tắc. Nhưng đồng thời
tác giả cũng phê phán Nho giáo thiên về tư tưởng bình qn, tích trữ, tiết kiệm
đã ít nhiều kìm hãm sự phát triển kinh tế Trung Quốc trong lịch sử. Nho giáo đã
quá đề cao việc giáo dục đạo đức nhân luân, coi thường lao động chân tay và
không quan tâm đến việc dạy kỹ thuật lao động cho dân chúng.



3
Quang Đạm trong tác phẩm Nho giáo xưa và nay (Nxb Văn hóa, Hà
Nội, 1994) đã phân tích khá sâu sắc về phạm trù dân cũng như vai trò của
dân, chính sách cai trị dân, trong đó có chính sách dưỡng dân, giáo dân và sử
dụng người hiền tài của Nho giáo.
Tác phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim, xuất bản trước năm 1930 và
đến nay tác phẩm đã được tái bản nhiều lần. Đây là bộ sách lớn giới thiệu về
lịch sử Nho giáo Trung Quốc từ Khổng Tử cho đến thời Thanh; Cuốn sách
trình bày nhiều phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong sự phát triển
của chúng. Bên cạnh đó, tác giả bàn nhiều đến nội dung khía cạnh của phạm
trù dân, vai trị của dân và một số nội dung trong chính sách cai trị dân của
Nho giáo. Tác giả cho rằng, Nho giáo còn nhiều giá trị đối với xã hội ta trong
bối cảnh mà đa số người Việt Nam lúc bấy giờ hồi nghi, xa lánh, ghét bỏ nó.
Ngồi ra, cuốn sách cịn có một phần riêng trình bày khái qt q trình du
nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Cuốn Đại cương triết học Trung Quốc (2 tập) của Giản Chi - Nguyễn
Hiến Lê (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004) Trong tập 2 của cuốn sách, các tác
giả đi sâu nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan. Thiên thứ năm về chính trị luận,
tác giả có đề cập đến quan niệm về dân trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ
- trung đại, mối quan hệ giữa vua và dân, quân và thần. Trong khi khẳng định
vai trò quan trọng của dân, đồng thời Nho giáo cũng yêu cầu đối với vua,
người cai trị phải có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm ni dân, giáo dân.
Trong các cuốn sách bàn đến Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó tới Việt
Nam, phải kể đến: Nho giáo xưa và nay của Vũ Khiêu chủ biên, xuất bản năm
1991; Nho giáo và phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, xuất bản năm 1997;
Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của
Nguyễn Tài Thư, xuất bản năm 1997; Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng
chủ biên, xuất bản năm 1991.v.v.



4
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề
tài luận văn cịn có những luận án, luận văn về vấn đề này, như: Học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI
đến nửa đầu thế kỉ XIX) của tác giả Nguyễn Thanh Bình, Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Tư tưởng chính trị cơ
bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay của Nguyễn Thị Lan Anh, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002; Tư tưởng chính trị “Lấy dân làm
gốc” trong các triều đại phong kiến Việt Nam độc lập từ thế kỉ X đến thế kỉ
XV và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay của Lê
Thị Oanh, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2003.
Một số tạp chí chuyên ngành viết về Nho giáo, tư tưởng về dân, “Lấy
dân làm gốc”, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam: Nho giáo và sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư, Tạp
chí Triết học số 5 năm 2002; Góp phần tìm hiểu đường lối chính trị trong học
truyết Nho giáo của Phan Mạnh Tồn, Thơng tin nhũng vấn đề triết học và đời
sống năm 2012; Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam của Lê Ngọc Anh,
Tạp chí Triết học số 3 năm 1999; “Dân là gốc nước” và quan niệm về xây
dựng xã hội của Nho giáo với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam của
Nguyễn Văn Hịa, Tạp chí Triết học số 10 năm 2011,…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên cho chúng ta cái nhìn khách
quan hơn trong tư tưởng về dân của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào trình bày một cách
hệ thống quan niệm “Dĩ dân vi bản”của Nho giáo và đặc biệt là ý nghĩa của
nó đối với việc phát huy vai trị quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã được công
bố, từ phương pháp tiếp cận triết học, luận văn đi sâu phân tích nội dung quan



5
niệm về dân trong Nho giáo, những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của nó đối với
việc phát huy vai trị quần chúng nhân dân trong cơng cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ những nội dung cơ bản của triết lý “Dĩ dân vi bản” trong Nho
giáo; những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của nó đối với việc phát huy vai trị
quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở hình thành và những nội dung cơ bản của triết lý “Dĩ
dân vi bản” trong Nho giáo.
- Khái quát ý nghĩa của triết lý “Dĩ dân vi bản” trong Nho giáo đối với
việc phát huy vai trò quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở
phân tích những giá trị và hạn chế của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Triết lý "Dĩ dân vi bản" trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với việc
phát huy vai trò quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu triết lý “Dĩ dân vi bản” trong quan niệm
của Nho giáo sơ kỳ qua một số đại biểu điển hình; ý nghĩa của nó đối với việc
phát huy vai trò của quần chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là CNDV biện chứng và CNDV lịch sử; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt



6
Nam về quần chúng nhân dân và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của CNDV biện chứng và CNDV
lịch sử, tuân thủ nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nghiên cứu để đánh giá vấn
đề một cách khách quan. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp,
như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê,…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Khái quát và hệ thống hóa những nội dung cơ bản của triết lý “Dĩ dân
vi bản” trong Nho giáo.
- Phân tích những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của triết lý “Dĩ dân vi
bản” trong Nho giáo đối với việc phát huy vai trò của quần chúng nhân dân ở
Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm sáng tỏ thêm nội dung của học thuyết Nho giáo qua tư tưởng về
dân, “Lấy dân làm gốc” và ý nghĩa của nó đối với việc phát huy vai trò quần
chúng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm
nghiên cứu về Nho giáo, cũng như trong việc nghiên cứu và giảng dạy về
Lịch sử tư tưởng phương Đông.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


7
Chương 1
TRIẾT LÝ “DĨ DÂN VI BẢN” TRONG NHO GIÁO
Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 TCN) là thời kỳ lịch sử sôi

động, với nhiều chuyển biến sâu sắc và toàn diện trong lịch sử Trung Hoa cổ
đại. Đây là thời kỳ có nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập, nhiều học
thuyết triết học và chính trị ra đời, cùng với đó là sự xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng kiệt xuất mà những tư tưởng của họ ảnh hưởng tới văn hóa, chính trị xã hội Trung Quốc sau này, thậm chí nó cịn có tầm ảnh hưởng sâu rộng ở một
số nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Khảo sát quan niệm của Nho giáo sơ
kì (Nho giáo Tiên Tần) về triết lý “Dĩ dân vi bản”, tác giả luận văn đi sâu
khảo sát quan niệm của một số đại biểu tiêu biểu thời kỳ này như: Khổng Tử,
Mạnh Tử, Tuân Tử.
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ “DĨ DÂN VI BẢN” TRONG NHO GIÁO

1.1.1. Điều hiện kinh tế - chính trị - xã hội
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XI tr.CN, trên dải hồng thổ phì nhiêu của
con sơng Hồng Hà, ở phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc
rộng lớn với một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được
sử dụng và những hình thức của một nhà nước phơi thai đã bắt đầu xuất hiện.
Đó là thời đại Ân - Thương - buổi bình minh của nền văn minh Trung Quốc.
Vào khoảng thế kỷ XI tr.CN, tộc Chu từ phía Tây Bắc men theo sơng
Hồng Hà, tiến vào đất Ân và tiêu diệt nhà Ân, lập lên nhà Chu. Giai đoạn
đầu của nhà Chu, sử gọi là Tây Chu (từ Vũ Vương đến U Vương đóng đơ ở
Cảo Kinh, phía Tây của Lạc Ấp nên gọi là Tây Chu. Sau U Vương đến Bình
Vương, do các bộ tộc du mục ở Tây Bắc luôn quấy phá nên phải dời đô về
Lạc Ấp, nên gọi là Đông Chu). Từ thế kỷ VIII tr.CN, xã hội Tây Chu bước
vào thời kỳ có nhiều biến động lớn lao, toàn diện, kéo dài cho đến giữa thế kỷ
III tr.CN. Lịch sử gọi đây là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc.


8
Có thể nói, Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ thuộc phạm trù xã hội cổ
đại Trung Quốc. Theo nhà sử học và triết học nổi tiếng của Trung Quốc là
Hầu Ngoại Lư thì xã hội cổ đại Trung Quốc tuy xuất hiện sớm hơn, song cũng

tương đương như xã hội cổ đại Hy Lạp - La Mã, chỉ có khác là ở Hy Lạp - La
Mã thì mang tính chất cổ điển, cịn ở Trung Quốc cổ đại thì mang tính phi cổ
điển. Theo nhiều nhà sử học Trung Quốc và một số nước khác, xã hội cổ đại
Trung Quốc có một số nét khác với xã hội cổ đại Hy Lạp - La Mã. Nếu lịch sử
của xã hội Hy Lạp - La Mã là xã hội của thành thị thì lịch sử xã hội cổ đại
Trung Quốc là lịch sử thống nhất mật thiết giữa thành thị và nông thôn. Trong
xã hội Hy Lạp - La Mã, quyền sở hữu là sở hữu tư nhân, lực lượng sản xuất
là những người nô lệ lao động trên các cánh đồng và trên các công xưởng thủ
công, sự bóc lột là bóc lột sức lao động trực tiếp của nơ lệ và lịch sử xã hội có
sự phân kỳ rõ rệt; còn trong xã hội cổ đại Trung Quốc thì khác, ở đó ruộng đất
thuộc quyền sở hữu cơng cộng hay nói đúng hơn là sở hữu nhà nước; người
lao động là các nô lệ phục dịch trong các gia tộc quyền quý, cách thức bóc lột
theo kiểu cống nạp, và từ thời kỳ này chuyển sang thời kỳ khác khơng có sự
phân cách rõ rệt. Như vậy, xã hội cổ đại Trung Quốc không giống xã hội chủ
nô như Hy Lạp - La Mã cổ đại mà ở đó đã bao gồm các yếu tố trong giai đoạn
đầu của chế độ phong kiến. Có thể nói, xét về mọi mặt từ kinh tế, chính trị
đến văn hóa, tư tưởng, theo nhiều nhà nghiên cứu thì thời Xuân Thu - Chiến
Quốc là thời kỳ quá độ từ chế độ chủ nô sang chế độ phong kiến.
Căn cứ vào các sự kiện lịch sử ở Trung Quốc thời cổ đại ta thấy, kể từ
khi triều đại nhà Hạ ra đời, đánh dấu sự ra đời và phát triển của chế độ chiếm
hữu nô lệ ở Trung Quốc, đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bước vào giai
đoạn khủng hoảng và suy tàn. Xã hội Trung Hoa trải qua thời kỳ giao thời, từ
chế độ tông tộc sang chế độ gia trưởng, chuyên quyền độc đoán; những giá trị
tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, những giá trị tư tưởng đạo đức
mới còn manh nha, đang trên con đường đấu tranh, vươn lên để tự khẳng


9
định. Sự quá độ từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của thời kỳ này đã tạo
tiền đề cho sự giải phóng tư tưởng con người dần thốt khỏi sự chi phối của

thế giới quan duy tâm thần bí truyền thống trước đây. Điều đó đã ảnh hưởng
sâu sắc đến quá trình ra đời và phát triển của các học thuyết triết học thời
Xuân Thu - Chiến Quốc.
Về kinh tế: Từ thời Tây Chu trở về trước, công cụ sản xuất bằng đồng
thau (đồng pha thiếc) là một bước tiến của lịch sử, nhưng công cụ bằng đồng
chưa thực sự tiện dụng, chưa thể làm ra được nhiều sản phẩm và phổ biến để
làm đất trên đồng ruộng, hoặc chế tác đồ dùng trong các lị thủ cơng. Khi dân
số ngày một tăng, để đáp ứng việc đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân số cần có một loại công cụ bằng chất
liệu khác thay thế. Đồ sắt ra đời ở thời kỳ Đông Chu như là kết quả tất yếu
của đòi hỏi trên.
Từ sắt, người ta làm ra lưỡi cày, lưỡi cuốc, liềm, hái… để sử dụng trên
đồng ruộng, làm ra dao, cưa, đục, búa… để tạo ra các thứ đồ dùng trong gia
đình, làm ra các phương tiện để chuyên trở, vận chuyển nông sản, đồ đạc..
phục vụ sản xuất nông nghiệp, thương nghiệp và nhu cầu của đời sống. Tiếp
đó là việc sử dụng sức kéo, cày của trâu bò thay cho sức kéo của người; ngựa
được đưa vào kéo xe thay cho sức đẩy của người đã trở nên phổ biến; kỹ thuật
canh tác thay đổi nhiều, nhiều ruộng đất hoang được nông dân khai khẩn,
thủy lợi được coi trọng, làm cho năng suất trong lao động nông nghiệp ngày
càng cao, của cải ngày càng nhiều. Cùng với việc sử dụng công cụ bằng sắt
ngày càng nhiều và việc mở ra các ngành nghề liên quan tới nơng nghiệp, con
người cũng tích cóp cho mình những tri thức về thiên nhiên và sản xuất ngày
một lớn. Con người đã bắt đầu có sự quan sát, tích lũy kinh nghiệm, tri thức
về tự nhiên, về sản xuất; đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, họ nhận biết
rằng để cây trồng tốt tươi, sản xuất ra nhiều hoa lợi thì cần đầy đủ các yếu tố
liên quan, gắn kết với nhau như: đất, nước, phân, giống tốt, sức lao động của


10
con người và biết được “ngũ hại”: lụt, hạn, sương, gió bão, sâu bệnh để phịng

tránh; biết được trời, đất, người là những yếu tố không thể thiếu được trong
sản xuất: “người làm”, “đất sinh”, “trời dưỡng”. Những hiện tượng khơng giải
thích được thì quy về do trời, do quỷ thần.
Cùng với sự ra đời và phổ biến của công cụ lao động bằng sắt, việc mở
rộng các ngành nghề liên quan đến nông nghiệp, kĩ thuật canh tác đất đai
được cải tiến, hệ thống thủy nơng hồn thiện, quy mô sử dụng lực lượng lao
động được mở rộng. Việc tích lũy những kinh nghiệm, tri thức về tự nhiên,
trong sản xuất đã làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên không ngừng,
của cải xã hội ngày một nhiều, làm cho những giai cấp, tầng lớp bên dưới của
xã hội được tự do hơn. Điều này đồng thời ảnh hưởng đến quan hệ sản xuất
cổ truyền.
Trên lĩnh vực thủ cơng nghiệp và thương nghiệp cũng có bước phát
triển mới, xuất hiện những xưởng sản xuất thủ công như xưởng đồng, sắt,
gốm, mộc,… Thương nghiệp cũng phát triển khá mạnh, trong xã hội xuất hiện
một số lái buôn lớn. Tiền đồng đã ra đời vào cuối thời Xuân Thu, đến thời
Chiến Quốc, tiền được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.
Gắn với lực lượng sản xuất trên là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ
với chế độ “tỉnh điền”. Sự bóc lột nhân dân lao động theo kiểu của thiên tử
quý tộc nhà Chu quy định trước đây đã trở nên lạc hậu, khơng cịn phù hợp
nữa, địi hỏi phải thay thế bằng hình thức sở hữu khác. Bởi dưới thời Tây Chu
(1066- 771 TCN) toàn bộ đất đai, nhân dân ở Trung Quốc đều thuộc quyền sở
hữu của nhà vua: “Dưới gầm trời không đâu không phải là đất của nhà vua,
ngồi vùng biên viễn khơng đâu không phải thần dân của nhà vua” [Dẫn theo,
74, tr.19]. Thiên tử nhà Chu phong đất cho các chư hầu, vua chư hầu lại
phong cho các quý tộc quan lại và khi đến làng xã ruộng đất được chia cho
nông dân để cấy cày. Nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, ruộng đất của nhà
nước dần dần bị tan rã, ruộng đất tư xuất hiện ngày một nhiều. Đến thời Chiến


11

Quốc, chế độ ruộng tư ngày càng phát triển mạnh mẽ, chế độ sở hữu “tỉnh
điền” đang đi đến chỗ tan rã hoàn toàn. Trong hoàn cảnh ấy, ruộng đất ngày
càng tập trung vào tay các địa chủ lớn, nông dân nhiều người bị mất ruộng
đất. Một phần đất công từ quý tộc được chuyển sang tay các thương nhân giàu
có, một phần do chư hầu phong cấp cho các tướng lĩnh có cơng trong trận
mạc, một phần đất tự nhiên do được phép khai hoang mà trở thành đất của các
nơng dân tự do. Điều đó, đã làm rạn nứt chế độ sở hữu ruộng đất cổ truyền,
khiến một phần đó chuyển sang chế độ tư hữu. Kẻ bóc lột mới đã xuất hiện
với tư cách địa chủ phong kiến và họ ngày càng có vai trị to lớn trong xã hội.
Do đó, trong xã hội lúc bấy giờ có câu: “nhà giàu ruộng liền bờ bát ngát,
người nghèo không tấc đất cắm dùi” [59, tr.143]. Do việc mua bán ruộng đất
ngày càng trở nên phổ biến càng thúc đẩy nhanh chóng q trình tập trung
ruộng đất vào tay một số ít lãnh chúa, địa chủ giàu có. Sự phát triển của chế
độ tư hữu về ruộng đất là nguyên nhân dẫn đến phương thức sản xuất mới,
phương thức sản xuất phong kiến.
Về xã hội: Sự thay đổi về kinh tế và sự thay đổi quyền sở hữu ruộng
đất làm cho cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi, trước hết là trong nội
bộ giai cấp thống trị. Giai cấp này trước đây chỉ là những quý tộc chủ nô, là
thiên tử, chư hầu, khanh đại phu của nhà Chu nhưng nay đã có sự thay đổi.
Một số người trong đó bị sa sút đi và trở thành thứ dân, khơng cịn vai trị gì
đáng kể. Một số thức thời đã thay đổi quan niệm và cách thức cai trị mới tồn
tại và giữ được vị trí; một số người ở tầng lớp tự do khác, do giàu có mà trở
nên có lực, bắt đầu chi phối xã hội theo cách thức của mình. Cả hai bộ phận
này xuất hiện với tư cách là những địa chủ mới. Họ khơng tán thành đường
lối, chính sách của q tộc chủ nô.
Sự tan rã của chế độ “tỉnh điền” cũng làm cho giai cấp nơng dân bị
phân hóa, một bộ phận nông dân vẫn giữ được ruộng đất như trước kia, cộng
với ruộng đất khai khẩn thêm trở thành nông dân tự canh, một bộ phận khác



12
hồn tồn “khơng có tấc đất cắm dùi” buộc phải làm tá điền hoặc cày thuê cho
địa chủ. Sự phân hóa giai cấp đó dẫn đến sự xuất hiện những mâu thuẫn
giai cấp trong xã hội mà khởi nguồn của nó là những mâu thuẫn từ lợi ích
kinh tế của các giai cấp đối lập nhau. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ
phong kiến mới nổi lên với giai cấp quý tộc đang nắm quyền lực chính trị
nhưng địa vị và sức mạnh kinh tế đã suy yếu; mâu thuẫn trong nội bộ giai
cấp quý tộc, giữa bộ phận quý tộc bảo thủ với bộ phận quý tộc muốn thực
hiện đổi mới bằng những chính sách kinh tế - xã hội có tính chất cải lương
nhằm duy trì quyền lợi và địa vị của mình; mâu thuẫn giữa quý tộc nhỏ với
đại quý tộc thống trị; mâu thuẫn giữa nông dân, nông nô với giai cấp địa chủ
mới và quý tộc…
Đến thời Chiến Quốc, không những quan lại nhà nước mà một số nhà
bn giàu có cũng mua được nhiều ruộng đất trở thành những thương nhân
kiêm địa chủ. Từ tầng lớp này xuất hiện một lớp quý tộc mới với thế lực ngày
càng mạnh, chiếm địa vị cao trong xã hội, như Huyền Cao ở nuớc Tấn, Tử
Cống ở nước Lỗ, … Họ tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với quý tộc
cũ. Bên cạnh đó là một tầng lớp trí thức (sĩ) có vai trị to lớn, có nhiều
đóng góp cho sự phát triển xã hội sau này cũng đã hình thành và phát triển
nhanh chóng. Sau tầng lớp sĩ phải kể đến dân. Trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, dân có nhiều tên gọi khác nhau, như: lê dân, quần lê, miêu
dân, chúng nhân, thứ nhân, thứ dân, chúng, thứ, v.v. Số này bao gồm
nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: có nô lệ, nông nô, nông dân tự do,
người sản xuất thủ cơng, người bn bán nhỏ. Ngồi ra cịn có tầng lớp sĩ
và quý tộc do hoàn cảnh thay đổi mà miễn cưỡng gia nhập vào. Nghèo
khổ nhất trong đó là nô lệ và nông nô, nhưng yếu tố năng động lại là
những người nông dân tự do, những người thợ thủ cơng, những thương
nhân. Khát vọng thay đổi hồn cảnh bản thân và hoàn cảnh xã hội ở số
người này là mạnh mẽ nhất.



13
Trên cơ sở lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển, ở thời Chiến Quốc
những mâu thuẫn trên vẫn tiếp tục phát triển, cùng với nó là sự xuất hiện và
hoàn thiện dần quan hệ sản xuất phong kiến, của những yếu tố kinh tế hàng
hoá. Chiến tranh giữa các nước vẫn không ngừng xảy ra và ngày càng tàn
bạo, khốc liệt hơn đã làm cho công xã nông thôn tan rã. Từ đó, chế độ chiếm
hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Thay cho
chế độ thu thuế vào sản lượng trước đây thì nay nhà nước thu thuế theo số
lượng ruộng đất mà nông dân sở hữu. Việc mua bán ruộng đất tự do và sự phổ
biến của chế độ tư hữu về ruộng đất đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất
vào tay một số ít lãnh chúa, địa chủ giàu có. Đa số nơng dân nghèo bị mất hết
ruộng đất phải đi cày thuê cuốc mướn và trở thành tá điền, cố nơng. Như vậy,
chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô là biểu hiện cho sự xuất hiện phương
thức sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận huyện.
Có thể nói, đây là thời kỳ trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi,
các quy chế thời Tây Chu bị phá hoại. Tình hình ấy đã làm cho xã hội bị rối
loạn, sản xuất bị đình trệ, ruộng vườn bị bỏ hoang, đời sống nhân dân vơ cùng
khổ cực, gia đình ly tán. Trong xã hội thường diễn ra hiện tượng bề tôi giết
vua, con giết cha, em giết anh. Sự mục ruỗng đó của chế độ xã hội đã làm cho
chế độ nhà Chu suy tàn, những mâu thuẫn xã hội đạt đến đỉnh cao làm cho
chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc thời Xuân Thu nhanh chóng tan rã.
Trong bối cảnh xã hội ấy, các nhà sáng lập Nho giáo với tinh thần “nhập thế
cứu đời” mong muốn thiết lập lại trật tự xã hội theo thể chế nhà Chu, một xã
hội “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”, xã hội khơng cịn chiến
tranh tàn khốc, khơng cịn cảnh người tàn sát lẫn nhau, xã hội an lạc thái bình
thịnh trị, vua thánh tơi hiền, một xã hội có giáo dục. Từ mơ ước về một xã hội
tốt đẹp, các đại biểu Nho giáo sơ kỳ như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử đã
xây dựng lên chủ thuyết của mình. Song, sống trong thời đại loạn lạc ấy, mơ
ước và học thuyết của các ơng về một xã hội thái bình thịnh trị đều không trở
thành hiện thực.



14
Về chính trị: Thể chế chính trị nhà Chu là chế độ mang tính chất thế
tập, được xây dựng trên nguyên tắc phân phong và cống nạp hàng năm. Thiên
hạ là của nhà Chu, trật tự đẳng cấp được duy trì theo thứ tự: Thiên tử, chư
hầu, khanh, đại phu, sĩ. Trong đó, thiên tử nhà Chu là lãnh chúa tối cao chiếm
toàn bộ đất đai và thống trị thần dân khắp thiên hạ, mỗi nước chư hầu là một
vương quốc riêng. Thiên tử chia đất đai, phong chức tước cho anh em, họ
hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân. Các vua chư hầu
lại phân phong đất đai, chức tước cho các bậc đại phu, q tộc. Vua chư hầu
cũng có chính quyền và quân đội riêng, hàng năm phải triều cống và triều hội
với thiên tử nhà Chu. Vì thế, chế độ “phong hầu kiến địa” nhà Chu vừa có ý
nghĩa về mặt chính trị, vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế và huyết thống. Như
vậy, xét về danh nghĩa thì các tộc người Hoa Hạ lúc bấy giờ là một quốc gia
thống nhất, quốc gia của nhà Chu, nhưng trên thực tế đó lại là một tập hợp các
quốc gia được tổ chức theo chế độ lãnh chúa phân quyền.
Thời Tây Chu, số nước chư hầu lớn, bé của nhà Chu có đến mấy trăm
nước. Có nước chỉ là một thái ấp, gọi là “gia” (nhà), tương đương với một
huyện sau này. Nhưng số lượng nước càng về sau càng ít dần. Nguyên nhân là
bởi các nước lớn thôn tính các nước bé. Trước và sau thời Xuân Thu, nước Sở
thơn tính 45 nước, nước Tề thời của Tề Hồn Cơng thơn tính 35 nước, nước
Tấn thơn tính 20 nước, nước Lỗ diệt 12 nước, nước Tống diệt 6 nước.v.v.
Cuối thời Đơng Chu chỉ cịn 5 nước lớn: Tống, Sở, Tề, Tần, Việt và 4 nước
nhỏ là Lỗ, Tống, Trịnh, Vệ. Rồi Tấn lại bị chia làm 3 là: Hàn, Triệu, Ngụy.
Đến thời Chiến Quốc thì cịn 7 nước là: Tần, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy
[Dẫn theo, 74, tr.29].
Nhưng đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, sự phân quyền này trở thành
cục diện chia cắt, rã rời. Sợi dây trước kia nối các nước lại với nhau là nhà
Chu thì đã đứt đoạn, bị đặt ra ngồi vịng quyền lực, các nước chư hầu luôn

đối địch nhau; âm mưu thơn tính nhau, nội bộ mỗi nước đều rơi vào tình trạng


15
khủng hoảng triền miên trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Nhà Chu suy
yếu, một số chư hầu không những không tuân theo mệnh lệnh của thiên tử mà
cịn xâm phạm lãnh địa nhà Chu, thậm chí cịn muốn khống chế thiên tử để
chỉ huy các nước chư hầu. Đến giai đoạn này, chế độ “phong hầu, kiến địa”
của nhà Chu khơng cịn được thực hiện nghiêm như trước nữa. Vua nhà Chu
khơng cịn đủ thế và lực để nắm được toàn bộ bất đai và thần dân cũng như
các nước chư hầu, các vương hầu tự xưng hùng xưng bá, lợi dụng danh nghĩa
bảo vệ, tôn vinh nhà Chu để tập hợp lực lượng xâm lược, trừng phạt, tiêu diệt
nước khác mà thực chất là từng bước tiếm quyền, chiếm địa vị thiên tử nhà
Chu để cai trị thiên hạ. Vì thế, những quy định lễ, pháp, cương thường của xã
hội trước đây do thiên tử nhà Chu quy định vốn được các vương hầu tự giác
chấp hành thì nay bị vi phạm liên tục, làm đảo lộn trật tự xã hội. Do vậy, từ
đầu thế kỷ VII đến thế kỷ V tr.CN trong đời sống chính trị Trung Quốc đã
diễn ra cuộc chiến tranh giữa các nước để tranh quyền bá chủ thiên hạ.
Theo Khổng Tử, nguyên nhân dẫn đến sự rối loạn xã hội là do sự hỗn
loạn của quan niệm danh phận, đẳng cấp, sự sa sút uy tín của lãnh chúa tối
cao là thiên tử nhà Chu, sự suy nhược của các chư hầu địa phương, sự ngông
nghênh của các quan đại phu và các chư hầu vượt quyền thiên tử, đại phu
vượt quyền chư hầu, “thứ dân” mặc sức bàn việc chính trị. Tình trạng đó làm
phá hoại trật tự phong kiến và là mối nguy về chính trị rất lớn. Sống trong
thời kỳ lịch sử đó, Khổng Tử luyến tiếc và muốn khơi phục lại thời kỳ hồng
kim của chế độ tơng pháp nhà Chu vì theo ơng, đó là thời kỳ lễ, văn rực rỡ,
thịnh trị, ổn định. Vì vậy, trong học thuyết của mình, Khổng Tử đã đưa ra
những nguyên tắc, phương pháp trị nước, như Nhân, Lễ, Chính danh, Tu thân,
Đức trị, Hiếu đễ,..v.v. nhằm đảm bảo cho một trật tự xã hội ổn định, khắc
phục tình trạng hỗn loạn.

Sang thời Chiến Quốc, những mâu thuẫn trên tiếp tục phát triển, chiến
tranh giữa các nước vẫn không ngừng xảy ra và ngày càng khốc liệt, việc


16
tranh cướp đất đai, cư dân của các vua chúa giữa các nước nhằm tăng cường
địa vị hoặc quyền lực của mình trong thiên hạ đã làm cho “thây chất đầy
thành, người chất đầy đồng” như Mạnh Tử đã lên án. Cũng vì chiến tranh
đánh giết lẫn nhau giữa các nước và vì sự tồn vong của từng nước mà giai cấp
quý tộc ở nước nào cũng có một đường lối trị nước, một học thuyết chính trị
lý tưởng do những trí thức, mưu sĩ đề ra.
Dưới thời Mạnh Tử, thế lực tầng lớp địa chủ mới kiêm thương nhân đã
mạnh hơn trước, nên xung đột giữa họ với giai cấp địa chủ quý tộc cũng tăng
hơn trước. Ông đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ quý tộc và muốn
điều hoà mâu thuẫn này. Trong tư tưởng của ông, ông chủ trương giảm nhẹ
thuế khoá, giảm nhẹ binh dịch các nơi cửa quan và chợ búa, chỉ kiểm sốt mà
khơng đánh thuế nhằm làm giảm tinh thần đấu tranh của giai cấp nông dân
đang lớn dần. Một mặt ông muốn giảm bớt quyền lực tối thượng của giai cấp
địa chủ quý tộc, ông cho dân là quý, xã tắc là thứ yếu, nhà vua ở vị trí ít được
coi trọng hơn. Mặt khác, ông chống lại những tư tưởng của địa chủ mới và
nông dân như Dương Chu, Mặc Tử. Để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp
thống trị và bị trị, theo Mạnh Tử cần thực hiện Vương đạo và Nhân chính.
Ơng kêu gọi nhà cầm quyền phải thương dân, trọng dân, phải chăm lo đến đời
sống của nhân dân và chú trọng việc giáo hoá dân.
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh, phát
triển của tư tưởng triết học, chính trị Trung Quốc khơng thể khơng mang tính
kế thừa. Khơng nằm ngồi tính chất đó, quan niệm về dân của Nho giáo cũng
phải xuất phát từ những tiền đề tư tưởng ở thời kỳ trước đó.
Con người là chủ thể của đời sống xã hội, con người tạo ra của cải vật

chất để duy trì sự tồn tại của chính họ cũng như duy trì sự tồn tại của xã hội,
hay nói cách khác, con người làm ra lịch sử của mình. Khám phá và chinh
phục thế giới chính là bản năng sinh tồn của con người. Tuy nhiên, do trình độ


17
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn thấp kém và do sự hạn chế của
năng lực nhận thức, đứng trước các lực lượng siêu nhiên vô cùng mạnh mẽ,
đầy bí ẩn, ln ln đe dọa đời sống con người như sấm sét, mưa bão, lụt lội,
hạn hán, bệnh dịch, thú dữ,… con người thời sơ sử lại khơng tin vào sức
mạnh của chính mình mà quy cho một lực lượng siêu nhiên như trời, thượng
đế. Người Trung Quốc đã giải thích chúng bằng những quan niệm có tính chất
hoang đường và thần bí. Đó cũng là tình hình của con người sống dưới thời
Ân Thương và Tây Chu ở Trung Quốc cổ đại.
Trong xã hội Ân Thương và Tây Chu, giai cấp thống trị lúc này cho trật
tự xã hội và vị trí của họ trong trật tự đó là do một lực lượng siêu nhiên, gọi là
trời (hay một số khái niệm khác có cùng nghĩa như: Thiên, đế, thiên đế, hoàng
thiên thượng đế…) quy định. Để được trời phù hộ, họ phải nhờ đến tế tự, cầu
xin; để biết được ý của trời họ nhờ đến bói tốn (bốc, phệ).
Dưới thời đại Ân Thương và Tây Chu, thế giới quan thần thoại tôn giáo
và chủ nghĩa duy tâm trở thành hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị trong
đời sống tinh thần thời bấy giờ. Tầng lớp quý tộc và tăng lữ dưới thời Ân
Thương và Tây Chu cho rằng, sự biến hoá của mọi vật, hiện tượng trong tự
nhiên, đời sống xã hội cũng như vận mệnh của con người đều do ý chí của
Thượng đế - “thiên mệnh” và ý chí của quỷ thần chi phối; chính quyền và tài
sản của giai cấp thống trị, sự thơng minh, trí tuệ của họ cùng cuộc sống tôi tớ
cực khổ của nhân dân lao động đều do thượng đế ban cho. Tầng lớp cai trị
tuyên bố họ chính là những người chịu mệnh của Thượng đế để cai trị nhân
dân trên mặt đất và tự xưng là con của trời, gọi là “Thiên tử”. Theo họ, việc
đời phức tạp không giống nhau, muốn đạt tới xã hội hạnh phúc lý tưởng,

khiến mọi người có thể sinh sống hợp với ý trời thì khơng thể khơng dựa vào
những người nghiêm trang, có tài cai trị, giỏi giang mưu lược, thông thái, thay
trời hành đạo, tổ chức chính quyền để quản lý mọi người, dạy dỗ mọi người.
Vì thế mới sinh ra “tám điều về chính sự”: lương thực, vật dụng, thờ cúng,


18
ruộng đất, giáo dục, xử kiện, ngoại giao, quân sự. Trời là đấng cai quản tất cả,
trời “lặng lẽ xếp đặt cho dân chúng” thì phải phái con của trời làm đại biểu để
cai trị. Cho nên “Con giời [thiên tử] làm cha mẹ dân để cai trị thiên hạ” [82,
tr.37]. Mọi người dân phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của vua vì đó chính
là phục tùng ý chí của thượng đế và quỷ thần. Họ viện tới cái gọi là “Ngũ kỷ”,
tức là năm, tháng, ngày, các vì sao, lịch số cùng phối hợp với đẳng cấp trong
xã hội hiện thực để xuyên tạc những điều may rủi trong xã hội lồi người:
Xét hay, dở của vua thì tính theo năm; của khanh sĩ thì tính theo
tháng; của các sư dỗn thì tính theo ngày. Năm, tháng, ngày được
thuận thời, thì mùa màng được tốt: việc cai trị được sáng suốt, dân
gian được thái bình, mọi nhà được bình n. Ngày, tháng, năm
khơng được thuận thời, thì mùa màng không tốt, việc cai trị không
sáng suốt, dân gian bị sa sút, mọi nhà không được yên. Thứ dân
cũng như các vì sao, có sao ưa gió, cũng có sao ưa mưa… mặt
giăng thì theo sao, cho nên có mưa gió [82, tr.37],
và “Phàm là thứ dân, khơng được adua q độ, mọi người khơng có đức, chỉ
nhà vua mới được làm khuôn mẫu. Phàm là thứ dân, vua đã nói ra, phải noi
theo, phải thi hành để coi trọng ánh sáng của thiên tử” [82, tr.38].
Thậm chí họ cịn tin rằng, con người có thể thơng đạt được với thượng
đế và quỷ thần bằng sự thờ cúng và bói tốn có tính chất mê tín. Người ta
quan niệm, yếu tố quyết định đến đời sống con người và xã hội là trời. Hiện
tượng sùng bái vị chúa tể này rất phổ biến. Chẳng hạn, nắng mưa là tại trời,
đói khát cũng do trời, chiến tranh là do khơng hợp ý trời, phong quan, bãi

chức cũng do ý trời. Tất thảy những sự việc gì từ trong gia đình, xã hội đến
chính sự đều do trời. Chẳng hạn, Vua Khải nhà Hạ lên nối ngôi cha là vua Vũ,
họ Hữu Hồ không chịu thần phục, vua Khải đã đem quân chinh phạt dưới
danh nghĩa mệnh trời: “Hỡi các ngươi coi sáu đạo quân ta thề bảo các ngươi.
Họ Hữu Hồ khinh nhờn ngũ hành, trễ nải bỏ cả ba tháng đầu năm. Ý trời định


19
tiêu diệt mạng vận của họ ấy. Nay, ta kính theo mệnh trời, phạt kẻ có tội”
(Thượng thư, Hạ thư, Cam thệ,1). Khi Thành Thang, người đứng đầu bộ tộc
Thương, diệt vua Kiệt (Hữu Hạ) nhà Hạ để lập lên nhà Thương đã đề cao
mệnh trời, rằng: “Vua Thang nói: lại gần đây! Hết thảy mọi người, lắng nghe
lời ta nói. Ta là tiên tử, khơng dám quấy rối đâu. Nhà Hạ tội lỗi nhiều, theo
mệnh trời phải giết” (Thượng Thư, Thương thư, Thang thệ, 1). Hoặc khi Văn
Vương nhà Chu, diệt vua Trụ nhà Thương để lập nên nhà Tây Chu, tự nhận
mình là Thiên tử, mượn uy danh của trời mà nói rằng: “Tội ác vua nhà
Thương đầy rẫy, mệnh trời bắt đánh. Ta không thuận theo ý trời, thì tội cũng
ngang nhau” (Thượng thư, Chu thư, Thái thệ thương, 9).
Với đời sống xã hội còn lạc hậu và do trình độ nhận thức cịn thấp kém
của con người trong thời kỳ này, họ đã nhân cách hóa và thiêng liêng hóa hiện
tượng của tự nhiên, coi đó là những lực lượng thần bí tối cao có thể chi phối
và quyết định vận mệnh đời sống con người và đó cũng chính là đối tượng để
mọi người sùng bái, cầu khẩn, gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình vào đó.
Vì thế, hàng năm bọn q tộc thường giết dê hoặc bắt nô lệ làm vật hy sinh
cho các cuộc tế thần, như thần núi, thần sông, tế trời đất. Nhìn chung, tất thảy
mọi việc trong đời sống, từ việc mưa có thuận gió có hịa hay khơng, mùa
màng tốt hay xấu, bệnh tật tăng hay giảm, săn bắn được nhiều hay ít,.. cho
đến việc thịnh suy, hưng vong của xã tắc đều do trời, thượng đế quyết định.
Có thể nói, ngự trị trong thế giới quan của giai cấp thống trị lúc bấy giờ là trời
- một vị thần có nhân cách, trời xuất hiện để biện hộ cho mọi hành vi của kẻ

thống trị và để bảo vệ lợi ích của họ.
Từ thế kỷ III tr.CN, đặc biệt là cuối thời Tây Chu, xã hội nô lệ Trung
Quốc đã bắt đầu có sự khủng hoảng, chế độ phong kiến xác lập, các mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa đều phát triển, đặc biệt là sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa của các nước chư hầu như nước Tề, nước Trịnh… Trong xã hội, tình
trạng thiên tai, nạn bóc lột, cướp đoạt của các ngoại tộc làm cho tình cảnh


20
nông dân càng thêm thê thảm. Hiện tượng “Dân đều lưu vong hết, đồng
trong ruộng ngoài đều bỏ hoang” đã nói lên tình cảnh ấy. Dưới sự tác động
của đời sống chính trị - xã hội thời kỳ này, thế giới quan thần bí và tín
ngưỡng tơn giáo cũ giữ vai trò thống trị trong đời sống tinh thần xã hội đã
bắt đầu lung lay. Nội bộ giai cấp quý tộc nổ ra cuộc đấu tranh tư tưởng giữa
cũ và mới có xu hướng tiến bộ, đã bắt đầu hình thành phong trào mở đường
cho việc chống lại chủ nghĩa duy tâm và những quan niệm tín ngưỡng tơn
giáo thần bí trước kia.
Sự phát triển của lịch sử, sự thay đổi của các sự kiện, sự đảo lộn của
các trật tự xã hội, đã khiến con người có cái nhìn thực tế hơn, và người ta bắt
đầu diễn ra quá trình nhận thức về vai trị của các yếu tố quyết định đời sống
con người và xã hội. Từ chỗ lên án sự xấu xa tàn bạo, vạch trần thủ đoạn lừa
mị của bọn quý tộc tăng lữ hai đời Thương, Chu đối với nhân dân - những kẻ
được coi là “Thiên tử” thay mặt cho trời thi hành mệnh lệnh của trời, cai trị
dân trên mặt đất, họ đã chuyển qua nghi ngờ và phê phán chính Thượng đế thế lực trước đây người ta hết lòng tin tưởng, sùng kính. Đây là tư tưởng tiến
bộ vượt bậc mang tính chất mở đường cho tư tưởng duy vật vơ thần ra đời.
Thực tế lịch sử khiến con người không thể khơng hồi nghi. Nhà Ân, với tư
cách là thực hiện mệnh trời, cai quản thiên hạ nhưng lại bị nhà Chu, một quý
tộc nhỏ lúc bấy giờ đánh bại. Nhà Chu xuất hiện cũng với tư cách thực hiện
mệnh trời nhưng lại bị người Tây Nhung đánh phá liên tục và bị các nước chư
hầu của mình dồn ép vào thế bí. Thực tế lịch sử đó đã vơ hiệu hóa tính cố

chấp và tính thiên vị của mệnh trời đối với một dịng họ. Thư tịch cổ ít nhiều
đã ghi lại sự nghi ngờ thực tế đó, như “Trời khó thành thực”, “Trời khó tin”,
“Mệnh trời khơng bình thường”, “Dân đang gặp nguy, trông trời mờ mờ”. Họ
cho rằng Thượng đế đã mất hết ý chí thơng minh, sáng láng. Nếu thượng đế là
anh minh sao chẳng nghiêm trị bọn bất nhân, độc ác và không hề đồng cảm
với nỗi đau khổ của muôn dân? Như thế, cái gọi là “thiên mệnh” và phẩm


21
chất tốt lành, thưởng hiền phạt ác của thượng đế chẳng qua chỉ là luận điệu
lừa mị của bọn quý tộc thống trị trên mặt đất đối với nhân dân mà thơi. Trong
Kinh Thi đã ghi lại những lời ốn trách của dân đối với Thượng đế: “Hỡi
Thượng đế tối cao vĩ đại! Sao ông chẳng hề thông cảm với sự đau khổ, đói rét
và sự chết dần chết mịn của dân? Khắp nơi trong nước tràn lan sự cướp bóc!”
(Kinh Thi, XII, 2); “Chúng tơi ln vì nghĩa vụ đã bị quy định bởi Thiên tử
nhà Chu, suốt ngày cày cấy trên cánh đồng, không một ai giúp cho chúng
tôi… Hỡi trời cao thăm thẳm, khi nào chúng tôi mới được sống an nhàn?”
(Kinh thi, VI, 2). Chính sự hồi nghi tín ngưỡng tơn giáo và phê phán Thượng
đế, một mặt nói lên sự kết tội, lên án sự xấu xa, bạo ngược của bọn quý tộc
thống trị trên trần gian, mặt khác, con người đã khẳng định vai trò, ý nghĩa
quyết định của hoạt động thực tiễn con người trong đời sống xã hội. Tất cả
các nhà vô thần luận đương thời đều rút ra một bài học lịch sử sâu sắc rằng,
quần chúng lao động còn quan trọng hơn cả quỷ thần.
Lúc ấy, trong hàng ngũ giai cấp quý tộc cũng đã xuất hiện một số nhà
tư tưởng q tộc và các học giả chính thống có những quan điểm tiến bộ.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, họ đã kịch liệt phê
phán các thứ mê tín tơn giáo duy tâm chủ nghĩa chuyên sùng bái quỷ thần. Họ
cũng bác bỏ thuật chiêm tinh, bói tốn thịnh hành đương thời. Họ tin rằng,
trong cuộc sống con người có thể tự làm chủ vận mệnh của mình, “làm chủ
linh hồn”, khơng cần viện đến sự phù hộ của bất cứ vị thần nào. Tang Văn

Trọng cho rằng, trong đời sống chỉ cần con người ra sức sản xuất nông nghiệp
và biết tiêu dùng tiết kiệm thì có thể đề phịng được những việc bất trắc, rủi ro
và bệnh tật. Cúng tế và đồng bóng khơng hề mang lại lợi ích gì cho con
người. Sỹ Bá lại thẳng thắn vạch trần những luận điệu lừa mị, lợi dụng thần
thánh của bọn quý tộc, tăng lữ đương thời dựa vào quỷ thần để giải thích, biện
hộ cho hành vi của mình là tội ác lớn nhất. Tử Sản, người nước Trịnh đã đưa
ra câu danh ngơn bất hủ, phủ nhận sự mê tín, bói tốn, bác bỏ việc đề cao


22
thiên mệnh, quỷ thần rằng: “Đạo trời thì xa, đạo người thì gần, chúng khơng
liên quan gì với nhau. Vì thế làm thế nào có thể biết được Thiên mệnh? Cho
nên nói về Thiên mệnh đó chỉ là những điều ba hoa, sáo rỗng” (Tả truyện,
Chiêu Công năm thứ 18).
Phê phán tư tưởng cho rằng, sự may rủi, cát hung, giàu nghèo, thọ yểu
và số phận của con người cũng như quyền thế của quý tộc vua chúa là do
Thượng đế, quỷ thần định đoạt, các nhà tư tưởng đương thời khơng chỉ phủ
nhận vai trị của Thượng đế, đề cao hoạt động thực tiễn của con người, vạch
ra tính chất hoang đường của tôn giáo mà quan trọng hơn, họ còn chỉ ra
nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và nỗi khổ của nhân dân là do đời
sống kinh tế và quan hệ vật chất xã hội quyết định. Điều đó cũng cho con
người câu trả lời về vận mệnh của mỗi quốc gia, số phận cuộc sống của mỗi
con người, tất cả đều phụ thuộc vào chính hành vi của con người quyết định
chứ khơng phải do trời hay quỷ thần nào chi phối. Như vậy, từ tại trời, tại
Thượng đế người ta chuyển sang là tại người. Đây là sự chuyển biến lớn trong
nhận thức. Theo Phùng Hữu Lan:
Đặc điểm của sự phát triển tư tưởng triết học của thời kỳ Xuân Thu,
về một ý nghĩa nào đấy, cũng có thể nói là “thời kỳ phát hiện ra con
người”, tức nói so với “mệnh trời”, “quỷ thần”, “con người” đã
được đưa lên địa vị hàng đầu, cho rằng con người phải là vị chúa tể

vận mệnh của mình [Dẫn theo 74, tr.79].
Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh chống tư tưởng duy tâm thần bí đang
thống trị lúc bấy giờ, những quan điểm duy vật chất phác nguyên thủy, giải
thích tự nhiên từ chính hiện tượng vốn có của tự nhiên, nhờ sự hiểu biết của
thiên văn, địa lý, y học đã xuất hiện. Có nhiều hiện tượng trong đời sống,
trong tự nhiên cũng đã được giải thích, chẳng hạn họ cho rằng, những hiện
tượng lạ lùng do giới tự nhiên gây ra “là việc của âm dương”, trời đất là cái
vốn có của bản thân tự nhiên, hồn tồn khơng thể quyết định vận mệnh, họa


23
phúc con người được. Nổi bật trong tất cả những tư tưởng duy vật sơ khai thời
đó là quan niệm về sự tác động phối hợp của ngũ hành, tức 5 yếu tố vật chất
cơ bản đầu tiên tạo thành vạn vật trong vũ trụ, đó là các yếu tố kim, mộc,
thuỷ, hoả, thổ, được thấy trong Kinh thư, Quyển IV, thiên Hồng phạm và quan
niệm về sự liên hệ tương tác, bồi bổ lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, hai thế lực
cơ bản của thế giới: âm và dương, và tám nguyên tố cấu thành vạn vật: kiền,
khôn; chấn, tốn; khảm, ly; cấn, đồi để giải thích nguồn gốc biến hố của mọi
sự vật hiện tượng, q trình trong thế giới bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm
sản xuất lâu dài, gian khổ của nhân dân Trung Quốc cổ xưa được biểu hiện rõ
trong Kinh Dịch, một tác phẩm cổ điển vĩ đại nhất của nền văn hoá phương
Đông. Họ cho rằng:
Muôn vật trong vũ trụ đều là do sự biến động của những mâu
thuẫn bài xích lẫn nhau trong tám hiện tượng đó mà phát sinh ra.
Cho nên tự bản thân là “một” đã biến hóa mà phát triển thành tám;
từ sự “thống nhất các mặt đối lập” của từng đôi một trong Bát quái
mà phát triển thành sáu mươi tư quẻ; lại từ “hai biến” mà thành
“ba biến”, “ba biến” lại phát triển thành ba trăm tám mươi tư hào.
Và đã tạo ra một vũ trụ quan biện chứng là một sinh ra hai, hai
sinh ra ba, ba sinh ra giời đất, giời đất sinh ra âm dương, âm

dương sinh ra vạn vật [82, tr.27].
Sự xuất hiện quan niệm âm dương ngũ hành đánh dấu bước chuyển đầu
tiên trong tư duy khoa học của người Trung Quốc cổ nhằm thoát khỏi sự chi
phối của thế giới quan thần thoại tôn giáo truyền thống ở Trung Quốc. Tư
tưởng, triết lý sâu sắc về vũ trụ, nhân sinh của Kinh Dịch không chỉ tác động
sâu rộng đến đời sống của nhân dân Trung Hoa thời thượng cổ mà còn ảnh
hưởng đến quan điểm tư tưởng của hầu hết các môn phái sau này.
Đến thời Xuân Thu, trong tư tưởng và đời sống của lãnh chúa phong
kiến nói chung đã có nhiều thay đổi quan trọng. Khi quan niệm “kính giời” bị


24
lung lay thì khả năng chi phối đời sống lồi người của “giời” và Thượng đế
mà bọn thống trị đã viện dẫn trước kia cũng dần giảm bớt theo. Vì muốn giữ
lấy trật tự địa vị giai cấp thống trị, họ hệ thống hóa cái gọi là “lễ”; vì muốn
duy trì ách thống trị đối với nơng dân, họ mới đặt ra một cách cụ thể cái gọi là
“hình”. “Lễ” và “hình” là hai khn sáo những biện pháp chủ yếu để duy trật
tự phong kiến. Đặc biệt, đứng trước sự thay đổi quan trọng về đời sống chính
trị, xã hội thời Xuân Thu, trong tư tưởng và đời sống của lãnh chúa phong
kiến nói chung đã có nhiều thay đổi về phương pháp thống trị, từ “kính trời”
chuyển sang tư tưởng “trọng dân”.
Từ đời sống hiện thực, ngay từ thời kì này giai cấp thống trị quý tộc
cũng đã nhận thức được vai trò của quần chúng lao động trong xã hội. Trong
Kinh Thư, Kinh Thi có ghi lại những bài học chính trị đầu tiên nhưng khơng
kém phần quan trọng mà người Trung Hoa cổ đại đã rút ra rằng, giai cấp cầm
quyền dù có thế lực đến đâu đi nữa nhưng nếu không sống nhân đức và khơng
được dân ủng hộ thì sớm muộn nhất định sẽ bị lật đổ. Vì thế, Kinh Thư mới có
câu: “Trời trông ở dân ta trông, trời nghe ở dân ta nghe”; “Cái mà dân muốn
trời tất phải theo” (Thượng thư, Chu thư, Thái thệ trung, 7).
Ngay trong Kinh Thư đã cho thấy nhiều tư tưởng thể hiện sự quan tâm

của tầng lớp thống trị đến đời sống nhân dân, đến vai trị của dân, tuy thừa
nhận “mệnh trời” có vai trò tối cao tuyệt đối, nhưng lại thể hiện ra, thậm chí
đồng nhất với “ý dân”, “lịng dân”. Chẳng hạn, trong Kinh Thư có ghi:“Dân
vi bang bản” (dân là gốc nước). Trời thương xót dân: “Thiên căng vụ dân,
dân chi sở dục, thiên tất cùng chi” (Trời thương xót dân, điều gì dân muốn thì
trời nghe theo) (Kinh Thi); “Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân
thính” (Trời nhìn tự dân ta nhìn, trời nghe tự dân ta nghe) ; “Sự sáng suốt của
trời thể hiện sự sáng suốt của dân”; “Dân muốn gì trời cũng phải theo”. Điều
này nói lên rằng, ngay tử thời thượng cổ ở Trung Hoa dù nền triết học sơ khai
bị phủ lên ít nhiều màu sắc duy tâm thần bí nhưng bên cạnh đó vẫn khẳng


25
định vai trị của một lực lượng đơng đảo, cái gốc của quốc gia là dân. Đây là
tiền đề tư tưởng quan trọng cho sự hình thành, phát triển quan niệm về dân
của Nho giáo
Trong đời sống chính trị ở Trung Quốc từ trước đến thời Khổng Tử, các
thế lực thống trị xã hội phải quan tâm, dù ở một mức độ nào đó đến đời sống
của nhân dân, đến vai trị của người dân. Điều đó phản ánh một thực tế rằng,
địa vị thống trị xã hội không phải bao gời cũng bị quyết định trực tiếp bởi địa
vị kinh tế. Có thể nói, tư tưởng chủ yếu của giai cấp quý tộc nhà Chu là “nhận
dân”; “hưởng dân” và “trị dân”. Đó là tư tưởng của giai cấp quý tộc độc
chiếm tư liệu sản xuất và sức lao động. Tư tưởng chính trị nhà Chu đã được
tơn giáo hóa, đó là sự “vâng mệnh trời”, “thuận theo mệnh trời”. Kẻ chịu
mệnh trời để thống trị thiên hạ là Thiên tử, tức Thiên tử được sánh với trời.
Nhân dân, bờ cõi, đất đai là sở hữu của Thiên tử, nhận từ trời mà cũng nhận từ
Tiên vương, Người Chu đã theo “mệnh trời” mà “nhận dân” từ tay nhà Ân:
“Đem dân nhà Ân cho hưởng suốt đời” (Kinh thư, thiên Khang cáo). Nhưng
dân ở đây không phải là một thứ dân nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại có thể đem ra
mua bán, mà việc trao nhận dân ở đây chỉ là quan hệ “bí mật” giữa Thượng

đế và Tiên vương của nhà Chu.
“Trị dân” là tư tưởng quan trọng, được thể hiện trong nhiều thiên cáo
của Kinh Thư. Nếu dân mà loạn thì kẻ được “Hưởng dân” (chủ của dân) sẽ
phải dùng các phép (không phải đạo thường) mà chém giết, trị dân. Trong
thiên Khang cáo của Kinh Thư viết: “Chỉ có dân ta làm cho đạo thường rối
loạn nên trời nói: phải theo ngay vua Văn Vương xử phạt, trừng trị kẻ có
tội ấy khơng tha”. Hoặc “Trời không phải bạo ngược, chỉ tự dân sớm gây
nên tội… hãy bắt hết cả bọn đem về cho nhà Chu, ta sẽ chọn giết kẻ tội
nặng” (Kinh thư, thiên Tửu cáo). Có thể nói, đây chính là tư tưởng chính trị
tàn khốc của giai cấp quý tộc, thị tộc Chu được phủ lên bởi màu sắc tôn giáo
về “ý trời”, “mệnh trời”.


×