Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Vấn đề phát huy nguồn nhân lực dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế xã hội ở lai châu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.39 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới hiện nay, vấn đề con người, nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực luôn là mục tiêu quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Từ
những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, sự phát triển con người và nguồn
nhân lực được Liên Hợp Quốc thừa nhận là vấn đề trung tâm và là thước đo
để đánh giá, xếp loại mức độ phát triển của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam vai trò nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH đã
được Đảng ta hết sức coi trọng. Sự nghiệp đổi mới và CNH, HĐH đất nước
mà Việt Nam đang tiến hành trong điều kiện mới có thành cơng hay khơng
hồn tồn phụ thuộc vào sức sáng tạo của nguồn lực con người Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Nguồn lực con người Việt Nam là vốn
quý nhất trong điều kiện các nguồn lực khác của chúng ta cịn hạn chế, do đó
“lấy việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững” [17, tr.85].
Là một quốc gia đa dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức sâu sắc
rằng việc phát huy sức mạnh tổng lực của con người Việt Nam, của toàn thể
dân tộc là yếu tố quyết định đến thành bại của mọi cuộc cách mạng. Với 54
dân tộc anh em, trong đó miền núi - vùng DTTS Việt Nam chiếm hơn ¾ lãnh
thổ, với hơn 1/3 dân số cả nước, đây là vùng tăng trưởng thấp và thua kém về
cơ hội phát triển cần được ưu tiên trợ giúp và đầu tư về mọi mặt. Do đó, thực
hiện bình đẳng và phát triển đối với các DTTS là mục tiêu và chính sách
xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó khơng chỉ xuất phát
từ u cầu phải giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc, sự cần thiết phải ổn định
vững chắc những địa bàn xung yếu chiến lược của đất nước mà chính là xuất
phát từ bản chất, từ giá trị của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh và
Đảng, Nhà nước, nhân dân ta lựa chọn. Thực hiện phát triển vùng đồng bào
DTTS ở nước ta qua suốt chiều dài lịch sử cũng đã chỉ rõ rằng: Sự nghiệp
phát triển bền vững vùng DTTS phải do chính nguồn nhân lực DTTS trên



2
từng vùng, từng địa phương lao động, sáng tạo thì mới thành cơng, mới thực
sự có cơ sở bền vững.
Với 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là đồng bào các
DTTS, Lai Châu không chỉ có vị trí địa - chính trị, qn sự chiến lược trọng yếu
mà còn là địa phương nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta
dành cho đồng bào các DTTS. Kể từ khi chia tách tỉnh (năm 2004) đến nay, Lai
Châu đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng
thể, đời sống đồng bào DTTS ở vùng sâu, vùng xa vẫn cịn nhiều khó khăn, vấn
đề y tế giáo dục còn thấp kém, Lai Châu vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất
cả nước, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh mới chỉ bằng 36% so với bình
quân chung của cả nước. Do đó phát triển nguồn nhân lực - đặc biệt là nguồn
nhân lực DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là đòi hỏi
cấp thiết, là khâu then chốt, là nhiệm vụ cơ bản, đột phá cho công cuộc đổi mới
ở Lai Châu, đưa tỉnh cơ bản ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2015 và
trở thành tỉnh có trình độ phát triển trung bình trong khu vực miền núi phía Bắc
vào năm 2020 như mục tiêu của tỉnh đã đề ra và đồng thời cùng cả nước đẩy
mạnh q trình CNH, HĐH đất nước.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vạch ra những cơ sở khoa học cho việc
phát huy nguồn nhân lực DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn, lý luận quan trọng. Đó chính
là lý do tơi chọn đề tài "Vấn đề phát huy nguồn nhân lực dân tộc thiểu số để
phát triển kinh tế - xã hội ở Lai Châu hiện nay” cho luận văn Thạc sĩ Triết
học của mình. Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực DTTS ở Lai
Châu, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực
DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển mới của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, vai trị và ý nghĩa chiến lược quan trọng của vấn đề nguồn
nhân lực nói chung, phát huy nguồn nhân lực DTTS đáp ứng yêu cầu sự

nghiệp đổi mới hiện nay nói riêng, nên đề tài đã thu hút được nhiều nhà khoa


3
học quan tâm, nghiên cứu. Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã được
công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ và các bài viết đăng tải trên các tạp chí, sách báo… Tiêu biểu có thể
kể đến những cơng trình sau:
Hồ Sĩ Q (chủ biên), “Con người và phát triển con người trong quan
niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tác
giả trình bày và làm rõ những luận điểm về con người và phát triển con người
trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen.
PGS.TS Đặng Hữu Toàn "Học thuyết Mác về con người và phát triển con
người đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay" - Tạp chí Triết học số 1 1997, tác giả luận giải quan điểm của học thuyết Mác về con người và phát triển
con người, vai trò của con người đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
PGS.TS Hồng Đình Cúc: "Vấn đề con người trong học thuyết Mác và
phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố ở Việt Nam hiện nay" - Tạp chí Triết học, số 8 - 2008, tác
giả luận giải trên cơ sở làm rõ quan niệm của tác giả về "cơ sở hiện thực" cho
sự tồn tại của con người với tư cách thực thể sinh học - xã hội, về sự thống
nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối
liên hệ giữa cá nhân và xã hội… Trên cơ sở này, tác giả phân tích và làm rõ
phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định trong công cuộc đổi mới đất nước.
Đặng Xuân Kỳ "Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con
người" - Tạp chí Triết học số 10 - 2002, tác giả đề cập đến quan điểm của Hồ
Chí Minh về con người và bản chất con người, trên cơ sở đó khẳng định quan
điểm của Đảng về vấn đề con người.
Thành Duy "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển tồn diện", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tác giả

đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, vận dụng tư tưởng đó vào Việt Nam.


4
Cơng trình KHCN cấp nhà nước KX - 07, “Con người Việt Nam - Mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, năm 1995.
Nguyễn Minh Hồn, “Nâng cao trình độ người lao động - một điều
kiện để chuyển đổi phương thức tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí Triết học, số 9 2001. “Quan điểm triết học Mác về con người và việc xoá bỏ sự tha hố con
người" - Tạp chí Lý luận chính trị, số 7 - 2008.
“Phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”
của PTS Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Nguyễn Thế Nghĩa: “Nguồn nhân lực, động lực của cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, số 1 - 1996.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) "Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt "Xây dựng và phát triển con người, nâng
cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay" - Tạp chí Triết học số 6 - 2008, tác giả đề cập đến quan điểm của
Đảng ta về con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người, đồng thời
phân tích những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ Triết học "Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của
giáo dục - đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá" của Nguyễn Thanh (2001), tác giả khẳng định vai
trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp CNH, HĐH; vai trò của giáo dục - đào
tạo đối với phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ Triết học "Vấn đề phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam hiện nay" của Phùng Danh Cường (2009) tác giả khẳng định bản
chất cách mạng và khoa học trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, đề

xuất một số giải pháp có khả năng thực hiện nhằm phát triển con người Việt
Nam hiện đại đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước.


5
Bên cạnh đó, vấn đề DTTS và việc phát huy nguồn nhân lực DTTS cho
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng được các nhà khoa học
quan tâm với các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Trần Đình Huỳnh, “Một số suy nghĩ trong việc vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 3 - 1988.
Phạm Như Cương, “Đi đến một nhận thức về vấn đề dân tộc và quan
hệ dân tộc”, Tạp chí Dân tộc học, số 11 - 1989.
Nông Đức Mạnh, “Mấy vấn đề bức thiết đối với các vùng dân tộc thiểu
số hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 8 - 1992.
Nguyễn Quốc Phẩm, “Hệ thống chính phủ cấp cơ sở và dân chủ hóa
đời sống xã hội nơng thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hà Quế Lâm, “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện
nay - Thực trạng và giải pháp”, (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002.
“Xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”: Luận cứ và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính
trị, 2005.
Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc - Hội đồng khoa học, “60 năm công tác dân
tộc thực tiễn và bài học kinh nghiệm”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
Đặng Cảnh Khanh, “Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số”, Nxb
Thanh niên, 2006.
Nguyễn Xuân Thành, “Vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Điện Biên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2011, luận văn đã đi phân tích
thực trạng sử dụng và phát huy nguồn nhân lực DTTS ở Điện Biên, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người các DTTS ở Điện
Biên trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.


6
Lương Bá Quang, “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực người dân tộc
thiểu số ở các huyện miền núi Thanh Hóa hiện nay” Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2012, tác giả
cũng đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực DTTS tại các huyện miền núi của
tỉnh Thanh Hóa hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn
nhân lực DTTS nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các
huyện miền núi Thanh Hóa nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung.
Nguyễn Đăng Thành, “Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu
số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, (sách chun khảo), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2012, tác giả đã
cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực DTTS ở
nước ta, phân tích hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự phát
triển nguồn nhân lực DTTS, từ đó đề xuất hệ thống quan điểm, giải pháp toàn
diện cho hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực DTTS đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Rõ ràng, đề tài đã được nghiên cứu ở những mức độ khác nhau trên nhiều
bình diện, kể cả lý về lý luận cũng như về thực tiễn. Tuy nhiên, đây là đề tài còn
hàm chứa những vấn đề mới do sự vận động của công cuộc đổi mới đất nước hiện
nay. Đặc biệt, hiện nay cũng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
tồn diện, đầy đủ về vấn đề phát huy nguồn nhân lực DTTS ở tỉnh Lai Châu để từ
đó có thể đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn lực này đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì
vậy, tác giả mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề này trong luận văn của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát huy nguồn nhân lực DTTS ở tỉnh
Lai Châu, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy nguồn nhân
lực DTTS nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Lai Châu hiện nay.


7
3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực DTTS, những
nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực DTTS.
Khảo sát, đánh giá thực trạng phát huy nguồn nhân lực DTTS ở tỉnh
Lai Châu hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn nhân lực DTTS
để phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn đi sâu nghiên cứu đó là nguồn nhân lực DTTS và
việc phát huy nguồn nhân lực DTTS trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu nguồn nhân lực DTTS trên
địa bàn tỉnh Lai Châu
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu nguồn nhân lực DTTS từ khi
chia tách và thành lập tỉnh Lai Châu mới (năm 2004) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và kế thừa kết quả
của các công trình đã nghiên cứu về con người, nhân tố con người, nguồn
nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực DTTS...

Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp lịch sử và logíc,
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá...
Ngồi ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như:
Thống kê số liệu, khảo sát thực tế, …
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn đi tìm cơ sở lý luận và khái quát những vấn đề trong thực tiễn,
đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn nhân lực các DTTS ở Lai Châu.


8
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước phát huy nguồn
nhân lực DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa trên phương diện nghiên cứu cơ bản, cung cấp
luận cứ lý thuyết và thực tiễn cho nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn vấn đề
phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS, những kết luận được rút ra và những
giải pháp được trình bày trong luận văn nhằm phát huy nguồn lực con người
các DTTS ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn là tài liệu tham khảo, cơ sở lý luận cho việc xây dựng, hoạch
định chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp về phát huy nguồn
nhân lực các DTTS trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và trên địa
bàn tỉnh Lai Châu nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1

NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ TÍNH TẤT YẾU
CỦA VIỆC PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC, NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY NGUỒN
NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong xã hội hiện đại, con người được khẳng định là nguồn lực của mọi
nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên, con người là trung tâm của mọi
tiến trình lịch sử. Chính con người làm nên những điều kỳ diệu, tạo nên những
thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho yêu cầu đời
sống khơng ngừng tăng lên của chính mình. Điều đó khẳng định, con người là
nguồn lực quyết định của mọi q trình phát triển, đồng thời con người cũng
chính là mục tiêu của tiến bộ xã hội.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất
chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng
theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi
nước đang tuỳ thuộc vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy
nguồn lực con người.
Đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực, hiện nay trên thế giới và trong
nước có nhiều cơng trình nghiên cứu lý giải dưới các góc độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân
lực là sức của con người bao gồm: Sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức
được vận dụng vào q trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham
muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định
(tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố: Thể lực, trí



10
lực và tâm lực. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, trí lực giữ
vai trò quyết định, nhưng thể lực và tâm lực cũng đóng vai trị quan trọng như
điều kiện cần thiết khơng thể thiếu đối với sự phát triển của nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nguồn cung cấp sức của con
người trên đầy đủ các phương diện cho lao động sản xuất và quản lý.
Theo định nghĩa của Liên Hiệp quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm
năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [1, tr.8-11, 3]. Quan niệm
này chủ yếu xem xét đến chất lượng nguồn nhân lực, vai trò và sức mạnh của
nó đối với sự phát triển xã hội.
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là tồn bộ "vốn người" (thể
lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực con
người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác như tài
chính, cơng nghệ, tài ngun thiên nhiên...
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng các nhà khoa học tham
gia chương trình KX - 07: Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng
lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực
hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó... [29, tr.323].
Theo giáo sư Hồng Chí Bảo:
Ngồi thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh
nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của
con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và
kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tịi, cách tân các
hoạt động, sáng tạo ra các giải pháp mới đối với công việc như một
sự sáng tạo văn hóa [37, tr.14-15].
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn nhân lực không chỉ đơn
thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà cịn bao gồm sức mạnh của thể



11
chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được
đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm “nguồn nhân lực" được hiểu như khái niệm “nguồn lực con
người". Nó được sử dụng như một khái niệm công cụ để điều hành, thực thi
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngồi độ tuổi lao
động có tham gia lao động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của
nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng
và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng lao động.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau nên đã có nhiều quan
điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, những quan niệm này đều thống
nhất nội dung cơ bản: Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã
hội. Nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) với tư cách là yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, giữ vai trò quan trọng nhất, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực
vô tận của sự phát triển, là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ
là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những
tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Theo nghĩa hẹp,
nguồn nhân lực là nguồn lực tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm
các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, sản xuất xã hội,
tức là tồn bộ các cá thể tham gia vào q trình lao động, là tổng thể các yếu tố
về thể lực, trí lực, tâm lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Từ cách tiếp cận trên với những nội dung đã đưa ra, theo chúng tôi:
Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hịa
các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên
năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá
trình lao động, sáng tạo vì sự tiến bộ và phát triển xã hội. Hiểu theo nghĩa
như vậy thì nguồn nhân lực được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:

Là số lượng và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần,
sức khoẻ và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm sống được tích luỹ
qua sự trải nghiệm cuộc sống của con người;


12
Là tổng thể những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự
tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội;
Là sự kết hợp thể lực và trí lực tạo nên năng lực sáng tạo, chất lượng và
hiệu quả hoạt động lao động;
Là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp
của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh
nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tịi, cách tân các hoạt động,
sáng tạo ra các giải pháp mới đối với công việc như một sự sáng tạo văn hóa.
Khái niệm nguồn lực con người bao quát được những mặt, những khía
cạnh, phương diện cơ bản của nguồn lực này, khắc phục được những hạn chế
trong nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lượng và chất
lượng con người với tổng hịa các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực, khẳng
định nguồn lực con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi hoạt động
kinh tế và quan hệ xã hội. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến con người
đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ở đây, cần
lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, con người không tồn tại một cách biệt lập, mà liên kết chặt chẽ
với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của một chỉnh thể người trong hoạt động.
Năng lực sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ những phẩm chất vốn có bên
trong của mỗi con người và nó được nhân lên gấp bội trong tổng hợp những con
người cụ thể. Do đó, khi đề cập đến nguồn nhân lực về phương diện xã hội,
chúng ta không thể không bàn đến số lượng và chất lượng của nó. Trong đó:
Số lượng nguồn nhân lực chính là sức lao động được xác định dựa trên quy
mơ dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư theo khu vực và lãnh thổ.

Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn
nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của
mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là
khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái trí lực, thể lực,
phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực.


13
Như vậy, về phương diện xã hội, nói đến nguồn nhân lực là nói tới hàng
loạt các vấn đề về số lượng dân cư, sự phát triển dân số, lực lượng lao động,
vấn đề phân bố và sử dụng lao động, vấn đề tổ chức quản lý vĩ mô đối với
nguồn nhân lực…
Thứ hai, nói tới con người phải nói tới phương diện cá thể - chủ thể của
nó. Bởi vì, con người đóng vai trị chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối tồn
bộ q trình phát triển kinh tế - xã hội, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn.
Phương diện này được hiểu như là những yếu tố tạo thành cơ sở hoạt động của
cá nhân và cơ sở để phát triển một con người với tư cách là một cá nhân. Đó là
sự kết hợp giữa trí lực, thể lực và phẩm chất khác của nhân cách.
Trí lực là tồn bộ năng lực của trí tuệ, tinh thần, quyết định phần lớn khả
năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng
hàng đầu của nguồn nhân lực bởi “tất cả những gì thúc đẩy con người hành động
tất nhiên phải thơng qua đầu óc của họ” [55, tr.409]. Khai thác và phát huy tiềm
năng trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn nhân lực.
Thể lực là trạng thái sức khỏe của con người, là điều kiện cho con
người đảm bảo phát triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể
đáp ứng được những địi hỏi về sự hao phí sức lực, thần kinh cơ bắp trong lao
động. Trí lực ngày càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn
nhân lực, song sức mạnh trí tuệ của con người chỉ phát huy được lợi thế trên
nền thể lực khỏe mạnh. Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất
cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề phát huy có hiệu

quả tiềm năng con người.
Nói tới nguồn nhân lực, khơng thể bỏ qua phẩm chất đạo đức, nhân
cách con người. Ngày nay, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài thể
lực và trí lực, cịn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Bởi
vì, trí lực cũng như thể lực chỉ có thể tạo ra sức mạnh thúc đẩy tiến bộ xã hội
khi chủ nhân của nó là những con người có phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt.
Trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực


14
hiện tốt các chức năng của xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong
hoạt động thực tiễn xã hội. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc
nâng cao mặt bằng dân trí, bồi dưỡng và nâng cao sức khỏe cho mỗi con
người, cho cộng đồng xã hội, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng
đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho con người.
Cấu thành nguồn nhân lực xét từ phương diện cá thể, đó là một tổng
hợp các năng lực và giá trị về trí lực, thể lực và những phẩm chất tinh thần. Vì
vậy, muốn phát triển nguồn nhân lực trước hết phải phát triển cá nhân con
người, tức phải đầu tư chăm lo cho sự phát triển về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức,
tinh thần của từng con người.
Thứ ba, vai trò quyết định của nguồn nhân lực so với các nguồn lực khác
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện ở những điểm sau:
Các nguồn lực khác (vốn, tài nguyên thiên nhiên…) tự nó tồn tại dưới
dạng tiềm năng, chúng chỉ trở thành động lực của sự phát triển khi kết hợp
với nguồn nhân lực, trở thành khách thể chịu sự cải tạo, khai thác và sử dụng
của con người.
Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có
nguồn nhân lực với cốt lõi là trí tuệ mới là nguồn lực có tiềm năng vơ hạn,
biểu hiện ở chỗ trí tuệ con người không chỉ tự sản sinh về mặt sinh học, mà
cịn tự đổi mới khơng ngừng, phát triển về chất trong con người nếu biết chăm

lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý.
Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy thành tựu phát triển kinh tế xã hội phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người. Nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn nhân lực và đầu tư
cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động, coi
giáo dục - đào tạo là chìa khóa của sự tăng trưởng đã đem lại thành cơng cho
các nước công nghiệp Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản…
Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
đã khẳng định: Lịch sử phát triển chân chính của xã hội là lịch sử phát triển con


15
người, do con người và vì con người. Tiến trình phát triển lịch sử được quyết
định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong đó người lao động
ngày càng trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong chiến lược phát triển
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm,
thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là
vì con người, do con người. Vì vậy, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, xét về thực chất là chiến lược con người. “Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất nước” [17, tr.21].
Đại hội toàn quốc lần thứ IX và X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định rằng, nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững… Con người và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH. Đại hội toàn quốc
lần thứ XI Đảng ta nêu ra quan điểm: "Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân
tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của
sự phát triển” [26, tr.100]. Quan điểm này là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán
của Đảng coi con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất quyết định

sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát
triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
Qua đây chúng ta có thể khẳng định, nguồn nhân lực là nguồn lực lâu bền
nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc. Việc sử dụng và phát huy nguồn nhân lực phải được tiến hành đồng bộ từ
vấn đề giáo dục - đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động những
hành trang tốt nhất để bước vào cuộc sống lao động. Nói cách khác, chính sách
sử dụng và phát huy nguồn nhân lực phải được lồng ghép với các vấn đề giáo
dục - đào tạo, sử dụng lực lượng lao động, tạo môi trường làm việc và đãi ngộ


16
thoả đáng cho người lao động. Trong đó, giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, là cơ sở để sử dụng và phát huy nguồn nhân lực có hiệu
quả. Đặc biệt, trong khi nhấn mạnh vai trị quyết định của nguồn nhân lực chúng
ta khơng nên tuyệt đối hố nó, khơng được tách nó ra khỏi mối liên hệ hữu cơ
với các nguồn lực khác, có như vậy, nguồn nhân lực mới được phát huy cao độ
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
1.1.2.1. Khái niệm dân tộc thiểu số
DTTS là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên thế giới
hiện nay. Đây là thuật ngữ có nhiều định nghĩa khác nhau trên thế giới, tùy
theo từng bộ môn nghiên cứu hay quan điểm của mỗi quốc gia.
Đứng trên phương diện chính trị, đã có một cuộc tranh cãi kéo dài trên
diễn đàn Liên Hợp Quốc do mỗi quốc gia có khái niệm khác nhau về thuật ngữ
DTTS. Đến năm 1992, Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua “Tuyên ngôn về
quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc hay chủng tộc, tơn
giáo và ngôn ngữ” (the Declaration on the Rights of Persons Belonging to
National or Ethnic, Religious and Linguistic Minorities). Trong đó có thống nhất
thuật ngữ DTTS bằng cách dựa trên quan điểm mà Gs. Francesco Capotorti (đặc

phái viên của Liên Hợp Quốc) đã đưa ra vào năm 1977: DTTS là thuật ngữ ám
chỉ cho một nhóm người gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ là
cơng dân của quốc gia này;
Hai là, duy trì mối quan hệ lâu dài với quốc gia mà họ đang sinh sống;
Ba là, thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tơn giáo và ngơn
ngữ của họ;
Bốn là, đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số lượng
ít hơn trong quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia này;
Năm là, có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao
gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo và ngôn ngữ của họ.


17
Ở Việt Nam, khái niệm DTTS được hiểu khá thống nhất trong các văn
bản nhà nước. Cuốn từ điển bách khoa Việt Nam nêu rõ:
DTTS là dân tộc có số dân ít (có thể là hàng trăm, hàng ngàn và cho
đến hàng triệu) cư trú trong một quốc gia thống nhất có nhiều dân
tộc, trong đó có một dân tộc có số dân đơng, trong các quốc gia có
nhiều thành phần dân tộc, mỗi dân tộc thành viên có hai ý thức: Ý
thức về tổ quốc chung và ý thức về dân tộc mình. Những DTTS có thể
cư trú tập trung hoặc rải rác xen kẽ, thường ở những vùng ngoại vi,
vùng hẻo lánh, vùng điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cịn khó khăn.
Vì vậy, các nhà nước tiến bộ thường thực hiện chính sách bình đẳng
dân tộc, nhằm xóa bỏ dần những chênh lệch trong sự phát triển kinh tế
- xã hội giữa dân tộc đông người và các DTTS [88, tr.655].
Như vậy khái niệm DTTS chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan về dân số
trong một quốc gia đa dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì khái
niệm DTTS khơng mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các

dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc khơng phụ thuộc ở số dân
nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh tế - chính trị - xã
hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Vận dụng quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm nhất quán của mình:
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên. Theo tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009, cả nước có 85.846.997 người, trong đó
người Kinh là 73.574.427 người (chiếm 85,73%), nên được xem là dân tộc đa
số, 53 dân tộc người còn lại (và 2.134 người ngoại quốc) là 12.252.570 người
(chiếm 14,27%), nên được xem là các DTTS. Như vậy, khái niệm DTTS dùng
để chỉ những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so
sánh về lượng dân số trong một quốc gia đa dân tộc.
Một dân tộc chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số dân tộc đó với tổng
dân số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay địa phương. Bởi vì


18
một dân tộc thiểu số nào đó (của cả nước) nhưng đặt trong phạm vi một địa
phương nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường hợp người Thái ở Sơn
La, Lai Châu hay người Nùng ở Lạng Sơn…
Khái niệm DTTS cũng khơng có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về
dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một dân
tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, nhưng đồng thời có thể
là “thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi là “dân
tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là DTTS ở Trung Quốc (vì chỉ
chiếm tỉ lệ 1/55 DTTS của Trung Quốc); ngược lại người Hoa (Hán), được
coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc, nhưng lại là DTTS ở Việt Nam (người
Hoa chiếm tỉ lệ 1/53 DTTS của Việt Nam).
Trong xu thế phát triển chung của đất nước, các DTTS ở Việt Nam hiện
nay cũng đang có những chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt. Tuy nhiên, trong

q trình phát triển mạnh mẽ đó, các DTTS vẫn mang trong mình những dấu
ấn rất đặc trưng. Những dấu ấn này có tác động khơng nhỏ tới việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các DTTS cũng
như tới hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội khu vực này. Cụ thể:
Về phương thức sản xuất: Ở một số DTTS Việt Nam hiện nay vẫn cịn
duy trì kiểu kinh tế lạc hậu gắn với tự nhiên như săn bắn, hái lượm. Nó chiếm
vị trí khá quan trọng trong đời sống, vì con người vẫn chủ yếu dựa vào các
nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên như người La Hủ, (ở Lai Châu), người
Rục (ở Quảng Bình), hay người Khơ Mú, Cơ Tu… Đa số các DTTS khác hiện
nay vẫn gắn liền với phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống tương
đối lạc hậu như: Sản xuất nương rẫy với phương thức “phát”, “đốt”, “gậy
chọc lỗ”, hay sản xuất ruộng nước nơi các thung lung bằng phẳng hơn hay
trên các ruộng bậc thang độ dốc lớn. Đây là những nơi rất khó áp dụng máy
móc, khoa học - kỹ thuật nên năng suất thường rất thấp.
Về phân hóa xã hội: Do sự phát triển lực lượng sản xuất còn ở mức hạn
chế, đặc biệt là sự không đồng đều về trình độ phát triển nên quá trình phân


19
hóa xã hội ở các DTTS cũng diễn ra với nhiều mức độ khác nhau. Một số
DTTS đã phân hóa giai cấp sâu sắc, do đó đã xuất hiện những tổ chức xã hội
cao để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Đó là các dân tộc như: Tày,
Thái, Mường, Nùng, Khơ Me, Chăm... Một số DTTS mới chỉ đạt trình độ
phân chia giàu nghèo, sự đối lập về kinh tế và xã hội chưa sâu sắc. Số đông
các DTTS ở Việt Nam thuộc loại này. Một số DTTS có trình độ kinh tế - xã
hội thấp, họ vẫn sống chủ yếu bằng săn bắt, hái lượm; hoặc các dân tộc có dân
số q ít. Đó là các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Tạng - Miến, Mơn - Khơ
Me… Sống trên các vùng núi cao dọc biên giới phía Bắc, vùng Trường Sơn,
Tây Nguyên.
Về tổ chức đời sống xã hội: Tính tự quản đi kèm với việc điều chỉnh

hành vi xã hội bằng hương ước, dư luận xã hội hay các tập tục, tập quán… là
một trong những điểm đặc trưng khá phổ biển ở nhiều DTTS Việt Nam hiện
nay. Xã là cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên làng, bản lại
là một cộng đồng tự quản. Luật pháp của Nhà nước đã thâm nhập và phát huy
tác dụng trong cộng đồng làng bản, nhưng vai trò của luật tục vẫn rất mạnh
trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xã quản lý bằng pháp luật, chính sách,
chế độ, cơ chế, có bộ máy hồn chỉnh, có quyền và là một cấp ngân sách
(ngân sách xã). Trong khi đó, già làng, trưởng bản (thôn) cùng với dân tự
quản bằng hương ước như một thoả ước tập thể, không được trái luật, phải
tuân thủ luật nhưng vẫn có một “khơng gian quyền lực” của mình qua hương
ước, do dân làng cùng tự nguyện cho phép, tự nguyện thực hiện. Chính từ
cách tổ chức xã hội như vậy nên vai trò của các già làng, trưởng bản, của
những người có uy tín trong cộng đồng có tác động quan trọng đến nhiều mặt
trong đời sống đồng bào DTTS. Họ không chỉ là chỗ dựa tinh thần cho làng,
bản mà còn là cầu nối quan trọng giữa giữa Đảng, Nhà nước, các đồn thể
chính trị - xã hội với người dân, làm cho nhiều việc được giải quyết “thấu tình
đạt lý” mang lại sự ổn định chung cho cộng đồng.
Về đời sống tinh thần: Các DTTS ở nước ta đều có đời sống tinh thần khá
phong phú, trong đó tín ngưỡng nơng nghiệp đa thần là nét đặc thù phổ biến. Ở


20
hầu hết các DTTS Việt Nam đều có một quan niệm chung là trong đời sống của
họ có một lực lượng vơ hình chi phối. Các vị thần phổ biến nhất phải kể đến là
thần lúa, thần nước, thần núi, thần sấm sét … Tuy nhiên, trong nhiều năm trở lại
đây, sự xâm nhập của các tôn giáo độc thần (Công giáo và Tin lành) đã tạo nên
những biến đổi khá sâu sắc trong đời sống tinh thần đồng bào các DTTS Việt
Nam, đặc biệt các khu vực như Tây Bắc, Tây Nam bộ, Tây Nguyên.
Như vậy, có thể thấy trong cộng đồng các DTTS Việt Nam những dấu ấn
của truyền thống vẫn còn in đậm và tiếp tục được duy trì, phát triển. Sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS muốn đạt kết quả như mong
muốn, địi hỏi chúng ta phải có các chính sách phù hợp để phát huy tiểm năng
thế mạnh của khu vực này, trong đó đặc biệt quan trọng là phát huy tiềm năng
con người. Đây sẽ là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH ở vùng đồng bào DTTS cũng như trên cả nước hiện nay.
1.1.2.2. Quan niệm nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
Tùy theo phạm vi, góc độ nghiên cứu, có thể quan niệm nguồn nhân lực
DTTS trên hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nguồn nhân lực được xác định trên phạm vi quốc gia, các vùng,
các địa phương (tỉnh, thành phố…), bao gồm tồn bộ dân cư người DTTS có
khả năng lao động, khơng phân biệt người đó được phân bố vào ngành nghề,
lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội.
Thứ hai, từ góc độ phân cơng lao động chính của xã hội các vùng
DTTS hoặc những nơi có người DTTS sinh sống thì nguồn nhân lực DTTS
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư DTTS trong độ tuổi lao
động được pháp luật quy định.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, các
DTTS là một bộ phận của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam thống nhất,
đã từng gắn bó keo sơn trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Đối với nguồn nhân lực DTTS ở nước ta có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, hầu hết các DTTS sống xen kẽ với nhau và cư trú chủ yếu ở
vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao hiểm trở và những địa bàn trọng yếu có vị trí


21
chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phịng và cịn có ý nghĩa quan
trọng đối với vấn đề mơi trường sinh thái. Trong tiến trình lịch sử, các DTTS
đã khai phá những vùng đất hoang vu, khó khăn để tồn tại và phát triển đồng
thời góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Hai là, các DTTS đoàn kết thống nhất trong cộng đồng chung, có

truyền thống yêu nước nồng nàn và là lực lượng cách mạng to lớn. Điều đó,
được chứng minh qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, đồng bào các DTTS đã đồn kết thống nhất, một lịng một dạ dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đã đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng đất nước. Ngày nay, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, đồng bào các DTTS không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền
thống cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồn kết giúp nhau
cùng phát triển, tích cực sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần, đấu tranh chống các thế lực thù địch đang tìm cách chia rẽ
khối đại đồn kết các dân tộc, cùng nhau xây dựng đất nước, góp phần tăng
cường khối đại đoàn kết các dân tộc.
Ba là, các DTTS có nền văn hố rất đa dạng và phong phú mang đậm bản
sắc của dân tộc mình. Tuy nhiên, do nhiều dân tộc cư trú ở những địa bàn xa xôi,
hiểm trở, tách biệt, không thuận lợi cho phát triển nên việc bảo lưu, giữ gìn bản sắc
văn hố của các dân tộc, việc loại bỏ những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu và
việc tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ cũng gặp nhiều khó khăn.
Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực các DTTS nhìn chung cịn thấp,
chưa đáp ứng được u cầu của q trình CNH, HĐH. Mặc dù trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực này, nhưng hiện nay so với dân tộc đa
số, trình độ học vấn của nguồn nhân lực các DTTS nhìn chung còn thấp, tỷ lệ
mù chữ, tái mù chữ cao, trình độ chun mơn kỹ thuật, tay nghề thấp, lực
lượng lao động tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, ở nông thôn và
hầu hết chưa qua đào tạo. Bên cạnh đó, đồng bào các DTTS cịn chịu ảnh


22
hưởng nặng của những tư tưởng, tâm lý, thói quen của người sản xuất nhỏ và
các phong tục tập quán cũ, lạc hậu. Đó là những nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng đến quá trình phát triển của nguồn nhân lực này.

1.1.3. Phát huy nguồn nhân lực dân tộc thiểu số và những nhân tố
tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Phát huy nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
Thực tiễn lịch sử phát triển của đất nước nói chung, vùng đồng bào
DTTS nói riêng đã cho thấy, nguồn nhân lực đủ và có chất lượng là vấn đề
then chốt, có tính chất quyết định cho sự phát triển. Sự nghiệp phát triển bền
vững vùng đồng bào DTTS phải do chính nguồn nhân lực DTTS trên từng
vùng, từng địa phương lao động, sáng tạo thì mới thành cơng, mới thực sự có
cơ sở bền vững. Do đó, vấn đề tất yếu đặt ra là phải làm thế nào phát huy tốt
nguồn nhân lực DTTS.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Phát huy” là tạo điều kiện và làm cho cái tốt,
cái đẹp, cái hợp lý… tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở, phát triển thêm. Trên cơ
sở đó thì “phát huy nguồn nhân lực” là phát huy tất cả các khả năng, năng lực,
trí tuệ và phẩm chất tinh thần của con người, là nâng cao vai trị của nguồn
lực con người trong q trình phát triển kinh tế - xã hội, qua đó làm tăng
những giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nguồn lực này.
Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII) đã đề ra chủ trương phát triển
nguồn nhân lực đồng bộ với CNH, HĐH đất nước. Đây là một chủ trương lớn
rất quan trọng, đánh dấu bước chuyển giai đoạn của nền kinh tế - xã hội đất
nước ta thời kỳ CNH, HĐH. Phát huy nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp đổi
mới đất nước bao gồm các lĩnh vực như nâng cao chất lượng dân số, giáo dục
- đào tạo, đảm bảo sức khoẻ, dạy nghề, tạo việc làm, quản lý và sử dụng có
hiệu quả nhân lực.
Phát huy nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực, được biểu hiện qua các mặt cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức và
tinh thần cần thiết cho công việc; nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ,
ổn định được công việc làm ăn, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội và cuối cùng là
đóng góp cho phát triển.



23
Phát huy nguồn nhân lực thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng
tựu chung lại là phát huy trên ba mặt cơ bản: phát triển nguồn nhân lực, sử
dụng khai thác nguồn nhân lực và tạo môi trường nuôi dưỡng cho nguồn nhân
lực. Điều đó liên quan đến hàng loạt vấn đề từ việc nuôi dưỡng, giáo dục - đào
tạo đến việc tổ chức khai thác, sử dụng nguồn nhân lực; từ việc phát huy tính
chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân đến việc tạo môi trường xã hội
thuận lợi cho sự cống hiến và hưởng thụ của con người; từ việc nâng cao năng
lực và phẩm chất của người lao động với tư cách là chủ thể nhận thức và hoạt
động thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đến khâu khai thác hợp
lý, có hiệu quả trí lực, thể lực, tâm lực của họ với tư cách là khách thể của sự
khai thác; từ việc sử dụng con người với tư cách là một nguồn lực, động lực
cho sự phát triển đến việc chăm lo cho con người với tư cách là mục tiêu của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Phát huy nguồn nhân lực DTTS là việc tạo điều kiện cho các yếu tố về
khả năng, năng lực, trí tuệ và phẩm chất tinh thần của con người DTTS
được huy động và phát triển, là sử dụng khai thác và tạo môi trường thuận
lợi để nguồn nhân lực này có điều kiện phát huy hết khả năng, năng lực của
mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thực chất, phát huy nguồn
nhân lực DTTS là quá trình tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng
nguồn nhân lực DTTS nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu ngày càng phù hợp
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng và chất lượng ln gắn bó
với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Về mặt số lượng là tăng nguồn lao động
DTTS. Chất lượng bao gồm sức khoẻ, trình độ chun mơn kỹ thuật và các
phẩm chất cá nhân. Phát huy nguồn nhân lực DTTS đáp ứng sự nghiệp đổi
mới đất nước bao gồm các lĩnh vực như nâng cao chất lượng dân số, giáo
dục - đào tạo, đảm bảo sức khoẻ, dạy nghề, tạo việc làm, quản lý và sử
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực DTTS, khơi dậy những khả năng về năng
lực vật chất và năng lực tinh thần của người DTTS, hoàn thiện cả về đạo
đức, tay nghề và tâm hồn của họ.



24
Như vậy, phát huy nguồn nhân DTTS là quá trình nâng cao vai trị của
nguồn lực này, qua đó làm tăng giá trị con người DTTS trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Q trình đó khơng chỉ chịu tác động trực tiếp bởi chính năng lực
chủ quan mà cả yếu tố khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của họ.
1.1.3.2. Những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số
Phát huy nguồn nhân lực DTTS thực chất là quá trình, một mặt dựa vào
năng lực chủ quan của con người, mặt khác dựa vào những nhân tố khách
quan tác động tới sự tồn tại và phát triển của họ. Vấn đề đặt ra trước hết với
việc phát huy nguồn nhân lực DTTS là phải xác định được những nhân tố cơ
bản tác động đến nguồn nhân lực dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển.
Những nhân tố cơ bản sau đây thường xuyên tác động đến việc phát huy
nguồn nhân lực DTTS.
Một là, yếu tố tự nhiên.
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên nước ta là có ¾ đồi núi và cao nguyên,
đa số các DTTS đều sinh sống ở các vùng trung du và miền núi. Đây là những
vùng kinh tế, sinh thái lớn, có vị trí chiến lược về địa - chính trị và an ninh
quốc phòng, là vùng giàu tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội.
Những tiềm năng về tài nguyên tự nhiên như: Khí hậu, đất đai, rừng,
khống sản, sơng ngịi đã tác động tích cực đến việc phát huy tiềm năng của
nguồn nhân lực DTTS, thể hiện ở việc họ có thể sử dụng các lợi thế về điều
kiện tự nhiên để phát triển kinh tế. Đất đai màu mỡ, đa dạng, tầng canh tác dày,
địa hình phân cách đã tạo nên nhiều vùng sinh thái có tiềm năng trong phát
triển nông nghiệp đa dạng với các loại cây trồng, vật nuôi khá phong phú như
chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng chè, các loại cây ăn quả... Đặc điểm khí hậu,
hệ thống sơng ngịi, đồi núi tạo nên những danh thắng sơn thủy hữu tình, với
bản sắc văn hóa đa dạng phong phú của các dân tộc anh em cùng sinh sống là

những tiềm năng lớn để phát triển kinh tế du lịch. Hơn nữa, các cơng trình thủy
điện lớn như thủy điện Sơn La, Hịa Bình, Lai Châu... Đã tạo điều kiện mở


25
rộng và phát triển các hệ thống dịch vụ, với các chương trình dịch vụ vui chơi,
giải trí có thể khai thác để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên thì chính các yếu
tố tự nhiên như vị trí địa lý, khí hậu, địa hình… lại gây ra những tác động bất
lợi, cản trở việc phát huy nguồn nhân lực. Các DTTS do sống chủ yếu ở trung
du và miền núi do đó thường có sự cách biệt về vị trí địa lý giữa các khu vực
sinh sống. Các dân tộc thường sống tập trung tại một vùng do vậy việc trao đổi
về kiến thức, kinh nghiệm sản xuất với các dân tộc khác, với vùng khác gặp
nhiều khó khăn. Sự cách biệt về địa lý hạn chế sự thông thương giữa các khu
vực, vấn đề y tế, giáo dục gặp nhiều bất lợi. Đây là những yếu tố có tác động
lớn tới việc phát huy nguồn nhân lực.
Cũng do tác động của vị trí địa lý và các yếu tố thuộc về nguồn lực tự nhiên
như: Tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, đa dạng sinh vật… dẫn đến trình độ
phát triển kinh tế - xã hội các vùng DTTS không đều nhau. Các DTTS ở vùng
đơng bằng Nam Bộ có địa hình đất đai khá màu mỡ, khí hậu, thời tiết ổn định,
canh tác thuận lợi nên đời sống kinh tế - xã hội phát triển ổn định hơn các vùng
khác. Vùng Tây Bắc, Đơng Bắc, miền Trung với địa hình chia cắt, phức tạp, đất
đai khơ cằn, nhiều đồi, dốc, núi đá, khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra
thiên tai… Do đó đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là
vùng có chất lượng nguồn nhân lực DTTS rất thấp.
Những yếu tố bất lợi khác về tự nhiên như: Lũ lụt, hạn hán, xói mịn, lở đất,
tình trạng khan hiếm và cạn kiệt các nguồn tài nguyên… đã và đang tác động
không nhỏ tới vấn đề phát huy nguồn nhân lực DTTS nói riêng, đời sống kinh tế xã hội vùng đồng bào DTTS nói chung. Hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực của
yếu tố tự nhiên là một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của vùng, góp phần quan trọng phát huy nguồn nhân lực

DTTS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, yếu tố kinh tế.
Kinh tế là một nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho sự tồn tại của mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia. Kinh tế cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc tác


×