Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Vấn đề phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở quảng bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.26 KB, 87 trang )

Đề tài khố luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khố luận tốt nghiệp này, ngồi sự nỗ lực của
chính bản thân, em xin chân thành cảm ơn Quý thầy cơ giáo khoa Lý
luận Chính trị - Trường Đại học Khoa học Huế, những người đã truyền
đạt, vun đắp kiến thức cho em trong suốt bốn năm học vừa qua.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo
Tiến sĩ Hồ Minh Đồng, người đã trực tiếp hướng dẫn và dìu dắt em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, những
người đã nhiệt tình ủng hộ và vun đắp cho khố luận này được hồn
thành như ngày hơm nay.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên khố luận cũng khơng
thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, có nhiều vấn đề đã và đang nảy
sinh mà bản thân chưa cập nhật được. Vậy rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của Q thầy cơ và tồn thể các bạn để khố luận đạt kết quả
tốt hơn.
Huế, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Hoàng Nữ Lê Mai

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

1


Đề tài khố luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................2


MỞ ĐẦU...................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài khố luận.............................................3
2. Tình hình nghiên cứu của khố luận.............................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................7
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khố luận................................8
6. Đóng góp của khố luận...................................................................8
7. Kết cấu của khố luận......................................................................8
Chương 1.................................................................................................9
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC.......9
1.1 Quan niệm về con người trong triết học trước Mác.................9
1.2 Quan niệm về con người trong triết học Mác - Lênin.............16
1.2.1 Bản chất con người....................................................................16
1.2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.......................................22
1.2.3 Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử..28
1.3 Một số vấn đề về con người trong q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.................................................................................34
Chương 2...............................................................................................39
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẢNG
BÌNH HIỆN NAY VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
.................................................................................................................39
2.1 Khái quát về tình hình Quảng Bình trong thời kỳ hiện nay. 39
2.1.1 Kinh tế..........................................................................................41
2.1.2 Văn hoá - xã hội..........................................................................50
2.1.3 Quốc phòng - an ninh..................................................................52
2.2 Đặc điểm và vai trị của nhân tố con người Quảng Bình
trong q trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay......................53
2.2.1 Đặc điểm của nhân tố con người Quảng Bình trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay........................................53
2.2.2 Vai trị của nhân tố con người Quảng Bình trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội hiện nay..................................................56
2.3 Thực trạng và giải pháp phát huy nhân tố con người trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay ....63
2.3.1 Thực trạng nhân tố con người hiện nay ở Quảng Bình......63
2.3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người
ở Quảng Bình hiện nay......................................................................69
KẾT LUẬN.............................................................................................80

Sinh viên thực hiện: Hồng Nữ Lê Mai - Triết K31

2


Đề tài khố luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khoá luận
Triết học đã nghiên cứu nhiều vấn đề, song vấn đề trung tâm của nó,
vấn đề con người vẫn ln được đề cao. Điều đó thể hiện ngay trong định
nghĩa: “Triết học là hệ thống những lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vai trò của con người trong thế giới ấy”. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về
thế giới chung quy lại đều phục vụ việc tìm hiểu con người, phát triển con
người. Xã hội lồi người càng phát triển thì vấn đề con người càng được đánh
giá cao và tìm hiểu sâu sắc. Ví dụ như thời cổ đại người ta tơn thờ những thế
lực siêu nhiên, con người chỉ là kẻ tôi tớ phụng sự ý trời. Nhưng đến thời hiện
đại, con người đã trở thành những kẻ chinh phục thế giới bằng trí tuệ và năng
lực của mình. Ở mỗi nấc thang phát triển của loài người, vấn đề con người lại
được nhìn nhận ở những khía cạnh, mức độ khác nhau. Ở thời đại hiện nay,
vấn đề con người là vấn đề trung tâm, quyết định đối với sự phát triển của
một đất nước. Và với Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết do Việt

Nam đang trong quá trình đổi mới, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở lý luận của sự nghiệp
đổi mới đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nan cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong thực tiễn của những năm qua, với việc áp dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng về vấn đề con
người trong quá trình đổi mới, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa; Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn rất đáng hoan nghênh. Vì vậy việc khai thác, nghiên cứu triết
học Mác-Lênin về vấn đề con người là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và
cấp bách. Trong khi đó, trước yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, sự tác động của cơ chế thị trường đang bộc lộ nhiều bất cập về con
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

3


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

người cho sự phát triển đất nước. Làm thế nào để phát huy có hiệu quả vai trị
nhân tố con người trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam hiện nay
nói chung và với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình nói
riêng? Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đang được nghiên cứu
một cách có hệ thống, cơ bản, kịp thời nhằm tìm kiếm giải pháp phù hợp. Do
đó để đánh giá đúng con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay phải dựa trên những
quan điểm, góc nhìn của triết học Mác - Lênin. Bởi nội dung triết học Mác Lênin về con người đề cập đến nhiều vấn đề đó là: Bản chất của con người là
tổng hồ của các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, vai
trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử... Việc nắm vững và vận
dụng tốt quan điểm triết học Mác - Lênin về con người ở nước ta hiện nay là

một công việc cực kỳ quan trọng và cấp bách nhằm thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đó là sự hiểu biết sâu sắc và vận dụng
linh hoạt quan điểm, tư tưởng của triết học Mác - Lênin nhằm xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chuẩn bị những con người có đầy
đủ năng lực và đạo đức cách mạng để phục vụ mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt với Quảng Bình là một tỉnh ở
khu vực Bắc Trung Bộ có nền kinh tế - xã hội còn nghèo, điều kiện xây dựng
và phát triển gặp nhiều khó khăn, trở ngại nên yêu cầu của việc nghiên cứu
đề ra những mục tiêu, chính sách đúng đắn để phát triển đưa nền kinh tế - xã
hội ở Quảng Bình đi lên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn: “Vấn đề phát huy nhân tố con người trong
quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay”
làm đề tài khố luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của khoá luận
Vấn đề nghiên cứu con người Việt Nam từ lâu đã được đề cập đến và là
mối quan tâm chung của nhiều ngành khoa học, kể cả một số ngành khoa học
tự nhiên, công nghệ và các ngành khoa học xã hội nhân văn. Từ mỗi góc độ
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

4


Đề tài khố luận tốt nghiệp

của mình, các nhà khoa học chuyên ngành đã tiếp cận được ở mức độ tương
đối sâu sắc về các vấn đề liên quan đến con người Việt Nam, tính cách dân
tộc Việt Nam, đến việc giáo dục và phát triển con người Việt Nam trong thời
đại mới. Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như Xã thôn Việt Nam (Nxb
Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959) và Tìm hiểu tính cách dân tộc (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1963) của GS. Nguyễn Hồng Phong, Giá trị tinh thần truyền

thống của dân tộc Việt Nam của GS. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1980);…đã tập trung vào nghiên cứu những đặc điểm và giá trị của
con người Việt Nam truyền thống, từ giác độ của khoa học lịch sử, dân tộc
học. Các cơng trình đó đã hệ thống hố và khái qt hố hệ tư tưởng, hệ thống
đạo đức và tính cách của con người Việt Nam trong truyền thống (bao gồm
các mặt tích cực, tiêu cực). Từ đó các nhà nghiên cứu đã đặt ra yêu cầu cấp
thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị, loại bỏ những phản giá trị trong
truyền thống để xây dựng, phát triển con người Việt Nam trong điều kiện xã
hội mới.
Trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay,
chúng ta đã thu được nhiều thành tựu mới trong việc nghiên cứu con người
Việt Nam. Chúng ta đã tìm hiểu, khám phá sâu sắc hơn con người Việt Nam
nhằm động viên, khai thác mạnh mẽ, hiệu quả các tiềm năng của mỗi con
người, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vào tiến
trình đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước
cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh” tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội,
cũng như mở ra khả năng mới để con người Việt Nam được phát triển phong
phú, tự do, toàn diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa xã hội và tự nhiên. Thời gian qua đã có nhiều kết quả nghiên cứu trực
tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đề tài “Vấn đề phát huy nhân tố con người
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

5


Đề tài khoá luận tốt nghiệp


nay”, là cơ sở cung cấp các nguồn tư liệu, số liệu giúp cho việc thực hiện đề
tài được thuận lợi và thành công nhất.
Trước hết là các kết quả nghiên cứu về con người Việt Nam được thể
hiện qua các đề tài nghiên cứu thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp
Nhà nước giai đoạn từ những năm 1990 đến nay: Chương trình nghiên cứu
mang mã số KX.07 “Con người là mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế
- xã hội” (giai đoạn 1991 - 1995); chương trình khoa học xã hội mã số KHXH
- 04 “Phát triển văn hoá, xây dựng con người trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước” (giai đoạn 1996 - 2000); chương trình nghiên cứu mang mã số KX05
“Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH, HĐH”
(2001 - 2005); chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước mang mã
số KX.03/06 - 10 “Xây dựng con người và phát triển văn hoá Việt Nam trong
tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế” (2006 - 2010).
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách phản ánh kết
quả nghiên cứu của các đề tài thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước nói
trên. Tiêu biểu là các cơng trình: Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay do GS. Phạm Huy Lê và GS. TSKH Vũ Minh Giang (chủ
biên), Chương trình KX07, Đề tài KX07 - 02, Hà Nội, tập I - 1994, tập II 1996; Cơng trình Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH,
HĐH của GS, VS. Phạm Minh Hạc (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);
Cơng trình Về phát triển tồn diện con người thời kỳ CNH, HĐH do GS, VS.
Phạm Minh Hạc chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Tập Kỷ
yếu hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân
lực đầu thế kỷ XXI của Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước
KX05 (Hà Nội, 2003)…Các cơng trình này đã đề cập đến các phương hướng
nghiên cứu con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn lực con người Việt
Nam cả trên bình diện lý luận và thực tiễn; xác nhận tầm quan trọng của nhân
tố con người trong sự nghiệp đổi mới; phân tích thực trạng phát triển con
người, phát triển nguồn nhân lực và định hướng phát triển con người, phát
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31


6


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

triển nguồn nhân lực trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh việc nghiên cứu
về con người Việt Nam nói chung, cũng đã có nhiều đề tài, sách báo, tạp
chí… bàn đến vấn đề con người Quảng Bình, các bài viết này chủ yếu bàn về
con người với tư cách là nguồn lực quan trọng, là mục tiêu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay.
Với việc thực hiện nghiên cứu đề tài “Vấn đề phát huy nhân tố con
người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình
hiện nay” một mặt kế thừa kết quả nghiên cứu về con người Việt Nam của
các nhà nghiên cứu đi trước, mặt khác tập trung nghiên cứu nội dung phát huy
nhân tố con người trong mối tương quan với phát triển văn hoá, kinh tế - xã
hội ở Quảng Bình trong điều kiện đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tiến hành nghiên cứu cơ bản, có hệ thống và sâu
hơn quan điểm triết học Mác - Lênin về con người. Từ đó vận dụng những giá
trị của triết học Mác - Lênin để làm sáng tỏ một số vấn đề có tính quy luật
nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay
Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Trình bày và làm rõ quan điểm của triết học, nhất là triết học MácLênin về vấn đề con người.
- Phân tích đặc điểm và vai trò của con người trong việc phát triển kinh
tế-xã hội hiện nay ở Quảng Bình. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy nhân tố con người một cách có hiệu quả nhất, thúc đẩy nền kinh tế xã hội tỉnh nhà ngày một phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước, thành tựu khoa học hiện đại về vai trị con người
Sinh viên thực hiện: Hồng Nữ Lê Mai - Triết K31

7


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, các phương pháp cơ
bản: Lôgic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, phân tích - tổng hợp...các phương
pháp cụ thể như: thống kê, so sánh...
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khoá luận
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người.
- Con người Quảng Bình hiện nay trong quá trình xây dựng và phát triển
nền kinh tế - xã hội.
6. Đóng góp của khố luận
Hệ thống hố, xác định rõ khái niệm: con người, phát huy nhân tố con
người và một số khái niệm khác, từ đó khái quát giá trị lý luận và thực tiễn
của quan điểm triết học Mác - Lênin về con người.
Làm nổi bật đặc điểm, vai trị của con người ở Quảng Bình hiện nay
trong q trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của khố luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khố luận có 2
chương, 6 tiết.
Chương 1: Khái luận chung về con người trong triết học
1.1 Quan niệm về con người trong triết học trước Mác.
1.2 Quan niệm về con người trong triết học Mác - Lênin.
1.3 Một số vấn đề về con người trong q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố.

Chương 2: Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình
hiện nay với việc phát huy nhân tố con người
2.1 Khái quát về tình hình ở Quảng Bình hiện nay.
2.2 Đặc điểm và vai trò của nhân tố con người Quảng Bình trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
2.3 Thực trạng và giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay.

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

8


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
1.1 Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
Từ xưa cho đến nay khái niệm “con người” luôn là câu hỏi lớn xuất hiện
ở nhiều hệ thống triết học. Tuỳ thuộc vào thế giới quan và phương pháp luận
khác nhau mà hình thành nên những quan điểm duy vật hay duy tâm và cuộc
đấu tranh giữa các quan điểm ấy cũng là một vấn đề trung tâm của lịch sử tư
tưởng triết học.
 Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Trong quá trình phát triển, các quốc gia ở phương Đơng đã hình thành hệ
thống các quan điểm về thế giới tương đối hồn chỉnh, góp phần khơng nhỏ
vào kho tàng tri thức của nhân loại. Song, với đặc trưng là “hướng nội” nên
những quan điểm về con người, về xã hội loài người là những vấn đề được đề
cập đến nhiều hơn cả.
Quan điểm về con người ở phương Đông được hình thành rất sớm và

được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ VI tr.CN trong các học thuyết
triết học. Nội dung các quan điểm này rất đa dạng, song những vấn đề mà
người phương Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc về nguồn
gốc, bản tính của con người, đạo làm người và mẫu hình con người lý tưởng.
Trong tính đa dạng, phong phú của các hệ tư tưởng, trước hết phải nói đến các
quan điểm của Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm của triết
học Phật giáo và triết học Nho gia.
- Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo: Triết học Phật giáo
ra đời khi nội dung của kinh Vêđa và Upanisad đang chi phối mạnh mẽ đời
sống tinh thần của người Ấn Độ. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của
các kinh này song Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng Sáng tạo (Brahman),
phủ nhận cái Tôi (Atman) của con người.
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

9


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Triết học Phật giáo quan niệm: thế giới tự tại, tự nhiều yếu tố trong đó có
sắc và có danh. Sắc, danh hội tụ tạo nên con người song bản chất của thế giới
là vô thường nên sự hội tụ của sắc và danh cũng chỉ diễn ra trong một thời
gian nhất định. Điều này chứng tỏ khơng có cái tơi vĩnh hằng.
Trong q trình tồn tại, người nào cũng có trần tục tính và Phật tính.
Trần tục tính là tính tham, sân, si; là vơ minh, ái dục. Phật tính là tính giác
ngộ về cõi niết bàn, về cõi chân như. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa con
người và vạn vật. Với quan điểm trên, Phật giáo thừa nhận bản tính của con
người vốn tự có cái ác và cái thiện.
Vẫn theo quan điểm của triết học Phật giáo, cũng trong quá trình tồn tại,
cuộc đời con người do chính bản thân con người quyết định qua quá trình tạo

nghiệp. Tạo nghiệp thiện là từng bước xoá bỏ tham, sân, si; từng bước xố bỏ
vơ minh, loại trừ ái dục để trở thành người trong suốt về tâm linh, không bị
tác động bởi các cám dỗ của cuộc đời và sau khi chết thốt khỏi vịng ln
hồi, nghiệp báo. Tuỳ vào từng mức độ thấp, cao khác nhau mà con người đã
đạt được trong quá trình tạo nghiệp thiện mà họ được suy tôn là La Hán, Bồ
Tát hay là Phật.
Con đường tu luyện để trở thành La Hán, Bồ Tát hay Phật cũng được coi
là đạo làm người. Đấy là quá trình thực hiện hệ thống những yêu cầu mà giới,
định, tuệ đã quy định.
- Quan điểm về con người trong triết học Nho gia: Triết học Nho gia
chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của Kinh Dịch. Theo tư tưởng này, lúc âm dương phân định, thanh khí làm trời, trời là chúa tể của vũ trụ; trọng khí làm
đất; con người và vạn vật được tạo thành từ sự hỗn hợp giữa khí thanh và khí
trọng trong khoảng giữa âm - dương nhưng con người bẩm thụ tính trời nên
bản tính con người là thiện.
Con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời, nhưng con
người có thể cải thiện nó qua hoạt động tu dưỡng mình trong cuộc sống. Hiểu
mệnh trời, sống theo mệnh trời và tự tu dưỡng mình là đạo làm người.
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

10


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Quan điểm về đạo làm người được Nho giáo thể hiện qua thuyết Chính
danh. Theo thuyết này, tương ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệ
thống những yêu cầu mà con người phải thực hiện. Những yêu cầu chung
nhất và cũng là những yêu cầu cơ bản nhất của danh “người” (nhân) là ngũ
thường, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; trong đó nhân là gốc và lễ là phương
tiện để thực hiện và thể hiện nhân.

Sống chính danh và giúp đỡ người khác chính danh được coi là quân tử mẫu người lý tưởng mà tất cả các nhà Nho đều quan niệm rằng, cuộc sống của
họ là cuộc sống tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ để giúp đời.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết triết học
phương Đông thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Về
cơ bản, các học thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn
đề trong cuộc sống; song nội dung các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức,
quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình mẫu con người lại
rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau và thậm chí đối
lập nhau. Tất cả những tư tưởng này đều tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ
vai trị nền tảng mà trên đó các thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan
điểm của mình.


Quan niệm về con người trong triết học phương Tây

Suốt chặng đường dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải
qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết
học về con người vẫn là một đề tài trung tâm, tranh luận chưa chấm dứt.
Lược khảo các quan điểm về con người trong triết học phương Tây được
thực hiện theo các giai đoạn trên và theo hai khuynh hướng duy vật, duy tâm.
- Thời cổ đại: Tiêu biểu cho quan điểm về con người ở phương Tây cổ
đại là những tư tưởng của người Hy Lạp. Ở Hy Lạp, các nhà duy vật đầu tiên
là các nhà triết học tự nhiên đã coi con người như một bộ phận cấu thành thế
giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một hay một số chất tạo nên, các nhà
duy vật thời kỳ này cũng quan niệm con người được bắt nguồn từ một hay
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

11



Đề tài khố luận tốt nghiệp

một số chất đó. Theo Talét, chất đó là nước; Anaximen: khơng khí; Hêraclít:
lửa; Xênơphan: đất và nước…
Tiêu biểu cho quan điểm duy vật thời kỳ này là quan điểm của
Empêđơclơ và của Lơxíp, Đêmơcrít. Empêđôclơ cho rằng nguồn gốc của thế
giới là lửa, không khí, đất và nước. Những yếu tố này hồ hợp với nhau, trải
qua bốn thời kỳ tiến hoá đã sinh ra sự sống. Mọi sự sống đều có lý tính nhưng
con người là sự sống có lý tính cao nhất, thơng minh nhất và đặc biệt con
người có đơi tay để thực hiện lý tính của mình. Lơxíp và Đêmơcrít quan niệm
bản nguyên của thế giới là nguyên tử nên các ông cũng khẳng định con người
là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tử. Con người có linh hồn, song linh
hồn cũng do các nguyên tử tạo nên và đã dạy bảo bàn tay con người hoạt
động để đưa con người từ mông muội đến văn minh.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo
chủ nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những
lực lượng siêu tự nhiên. Tiêu biểu là Xôcrát và Platôn. Theo Xôcrát, thế giới
do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Con người khơng nên tìm hiểu
thế giới vì như thế là xúc phạm thần. Con người hãy tìm hiểu về chính bản
thân mình. Platơn cho ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tất cả. Ý niệm
tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể
xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, khơng khí nên có
thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với thế giới ý
niệm của mình để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào một thể xác mới
tạo ra một người mới. Nhận thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì
mà ý niệm đã có.
Theo Platơn, linh hồn bất tử gồm lý tính, lý trí và tình cảm. Tương ứng
với ba bộ phận này là ba đẳng cấp người: các nhà triết học và các nhà cầm
quyền -binh sĩ - dân tự do. Nô lệ không phải là người mà chỉ là những công
cụ biết nói nên khơng có linh hồn.


Sinh viên thực hiện: Hồng Nữ Lê Mai - Triết K31

12


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

- Thời trung cổ: Thời trung cổ là thời hệ tư tưởng Cơ đốc giáo giữ vai trò
thống trị nên quan điểm về vai trò tồn năng của Chúa Trời cũng giữ vai trị
thống trị. Tiêu biểu cho tư tưởng ở thời kỳ này là quan điểm của Tômát
Đacanh.
Tômát Đacanh quan niệm thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và
con người là hình ảnh của Chúa, được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ. Con
người có thể xác và linh hồn bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự
tạo ra thể xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các sự vật
khơng có linh hồn đến con người, thần thánh và cao nhất là Chúa. Đây là trật
tự chặt chẽ, bất biến. Trong trật tự đó, con người được Chúa chia thành những
đẳng cấp nhất định mà bất cứ một biểu hiện nào muốn vượt lên đẳng cấp cao
hơn đều mang tội với Chúa.
Quan điểm về con người nói riêng và triết học của Tơmát Đacanh nói
chung được Giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ thống tư tưởng duy nhất đúng
và được Giáo hội sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống của mình.
Có thể nói, con người trong triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết
tính tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu
đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vơ biên của Đấng
Sáng tạo.
Hệ tư tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý chí muốn vươn lên tự khẳng
định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại đã đề cập
đến.

- Thời Phục hưng và cận đại: Từ thời Phục hưng trở đi các nhà triết học
duy tâm và thần học vẫn bắt nguồn từ ý niệm, tinh thần tuyệt đối, cái tơi…để
xây dựng quan điểm của mình đối lập với quan điểm duy tâm và thần học,
những giá trị văn hố bị vùi dập hàng nghìn năm bắt đầu được khôi phục và
phát triển trong các học thuyết triết học duy vật.
Ở Italia, tư tưởng “con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, hãy
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chính mình” đã dấy lên thành khẩu hiệu; thuật ngữ
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

13


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

“nhân đạo” ra đời từ thời cổ đại trở thành phạm trù trung tâm của triết học;
khuynh hướng đề cao vai trị của trí tuệ, tự do, bình đẳng thể hiện rõ nét trong
quan điểm của Brunô, Galilê, Tômát Morơ, Tômađô Campanenla…
Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con người là sản phẩm của tự nhiên, là thực
thể vật chất, còn tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc người vận động
theo thần kinh và mạch máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem lại cho con
người sức mạnh tiềm tàng là tri thức. Hốpxơ gọi con người là “vật thể tự
nhiên” - lực lượng đã làm ra “vật thể nhân tạo” là xã hội.
Ở Pháp, Rútxơ quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân
loại không tuân theo ý muốn của bất kỳ thế lực nào mà là kết quả hoạt động
của con người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao nhất
trong q trình tiến hố lâu dài của giới tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là sản
phẩm của hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri thức
khoa học.
Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng, giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại
theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có nhiệm

vụ chính là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên, làm theo
giới tự nhiên và làm theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp…
Nét nổi bật trong triết học thời Phục hưng và cận đại là sự phủ nhận
quyền lực của Đấng Sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trị
của lý trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người.
Triết học thời Phục hưng và cận đại không chỉ ảnh hưởng tích cực đến
sự phát triển của triết học sau này mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc
cách mạng nổ ra ở Tây Âu và trên toàn thế giới.
- Thời hiện đại: Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại
thể hiện rõ nét qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ
nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán, hiện tượng học, chú giải học, chủ nghĩa
hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc…Tư tưởng của những học thuyết này tạo nên

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

14


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

trào lưu triết học nhân bản phi lý tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trị
trọng yếu.
Theo trào lưu này thì hoặc bản năng tính dục là cơ sở quan trọng nhất
cho mọi hành động của con người (quan điểm của phân tâm học); hoặc chỉ có
“nhân vị” mới là bản thể chân thực nhất vì nhờ có quan hệ với “nhân vị” mà
phần thế giới cịn lại mới có ý nghĩa (quan điểm của chủ nghĩa nhân vị); hoặc
chỉ có cá nhân con người mới hiểu được sự tồn tại của mình nên chỉ có cá
nhân mới “hiện sinh”, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội, của
những cá nhân khác để thể hiện giá trị hiện sinh của mình (quan điểm của chủ
nghĩa hiện sinh)…

Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính
cũng như những học thuyết khác ở phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố
về tinh thần như nhu cầu bản năng, vơ thức, tri thức, tình cảm…là bản chất
của con người. Con người thường được tuyệt đối hoá về mặt cá nhân. Mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội
thường được đề cập ở góc độ hồi nghi, bi quan, bế tắc…Tất cả những điều
ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con người trong xã hội phương
Tây hiện đại.
Mặc dù đã có nhiều tư tưởng tiến bộ hơn, nhưng nhìn chung các quan
điểm triết học trước Mác và ngồi mácxít cịn có một hạn chế cơ bản là phiến
diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người,
cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về
bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh,
xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện
chứng của triết học Mác-Lênin về con người.

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

15


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

1.2 Quan niệm về con người trong triết học Mác - Lênin
1.2.1 Bản chất con người


Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt


xã hội
Trong lịch sử có rất nhiều những quan niệm về con người, từ thời cổ đại,
Đêmôcrit đã đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người là
gồm thể xác và tinh thần đều được cấu tạo từ nguyên tử. Hay với triết học
Trung hoa, Nho gia coi bản tính con người là tự nhiên, những cách tiếp cận ấy
thiên về tính xã hội của con người. Nói chung, triết học trước Mác nhận thức
về con người còn phiến diện, hạn chế. Khi triết học Mác ra đời, những hạn
chế đó đã được giải quyết, triết học Mác đã khẳng định con người hiện thực là
sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính
sinh học, tính lồi của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu
tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là
“thân thể vô cơ của con người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết
quả của q trình phát triển và tiến hố lâu dài của môi trường tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm
của q trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, cần
khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản
chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm
khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử
dụng công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người
động vật có tư duy...Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh
một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên
được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

16



Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề
con người một cách tồn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của
nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con người: “Có thể
phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất của mình”[16,29].
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái
sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên” [19, 137].
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển
ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân
cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật
về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di
truyền, biến dị, tiến hoá...quy định phương diện sinh học của con người. Hệ
thống các quy luật tâm lý hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các

quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

17


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu
cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các
giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với
loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh
con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thoát ly khỏi tiền đề của
nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để
tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.


Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các

quan hệ xã hội
Một con người bao hàm trong nó ba quan hệ: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xã hội và quan hệ với bản thân con người đó. Quan hệ với tự nhiên

trong đời sống hàng ngày được biểu hiện qua các hoạt động có tính xã hội
như lao động chế biến, đánh bắt, ni trồng… Chính vì vậy có thể nói quan
hệ con người với con người là mối quan hệ bản chất, quy định bản chất con
người.
Mỗi con người đều được sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh kinh
tế - xã hội cụ thể, trong những thời điểm nhất định. Và trong điều kiện đó,
bằng hoạt động thực tiễn như ăn uống, lao động, nghỉ ngơi… con người tham
gia vào các quan hệ xã hội (quan hệ giai cấp, tầng lớp, quan hệ gia đình, bạn
bè, quan hệ kinh tế, chính trị…) và qua đó con người mới bộc lộ bản chất xã
hội của mình.

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

18


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề
nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội” [16,
11]. Luận đề này khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly
mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người ln ln cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó con người
mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất con người là tổng hồ

những mối quan hệ xã hội khơng có nghĩa là bác bỏ mặt sinh học của con
người mà muốn nhấn mạnh tính cụ thể, xác định của bản chất con người trong
những điều kiện xã hội cụ thể. Hơn nữa, càng ngày mặt sinh học và mặt xã
hội càng trở nên thống nhất, nên mặt sinh vật không bị phủ định mà ẩn chứa
trong mặt xã hội, trong những quan hệ xã hội. Mặt tự nhiên tồn tại trong sự
thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở
con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh
khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.


Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng là ở chỗ con người không chỉ là sản
phẩm mà còn là chủ thể của lịch sử, tạo nên lịch sử cho mình một cách có ý
thức. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục...cái học thuyết ấy
quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

19


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

giáo dục cũng cần phải được giáo dục”[16, 10]. Qua đó Mác khẳng định, tự
bản thân con người làm thay đổi điều kiện sống của mình, Con người lao
động, tác động vào giới tự nhiên làm thay đổi môi trường sinh thái, tạo ra của

cải vật chất phục vụ đời sống, làm thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội. Ví dụ
như trong thế kỷ XVII, XVIII, nền đại công nghiệp phát triển thải chất độc
công nghiệp vào môi trường , làm ô nhiễm mơi trường, gây ảnh hưởng tới bầu
khí quyển, nguồn nước trên thế giới và hậu quả của nó cịn đến giờ. Nhưng
đồng thời, nền đại công nghiệp sản xuất ra khối lượng hàng hoá khổng lồ, với
nhiều phát minh vĩ đại phục vụ tích cực cho đời sống con người, làm cho chất
lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt, tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát
triển. Vậy hoạt động lao động sản xuất là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở
đó, con người cần có ý thức trong hoạt động vật chất và tinh thần nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng:
“Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng khơng hề biết và
khơng phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng xa cách xa con
vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” [17, 476].
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn
của tự nhiên.Con người thì ngược lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo
mục đích của mình.

Sinh viên thực hiện: Hồng Nữ Lê Mai - Triết K31

20



Đề tài khố luận tốt nghiệp

Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều
kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ
thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có
hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người khơng phải là một hệ thống đóng
kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc
dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó
chính là tồn bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có
ý nghĩa định hướng giáo dục. Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh
một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển
của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con
người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.


Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

21


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

1.2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt
trong các học thuyết về xã hội. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác Lênin đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên
cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử. C.Mác đã đúc kết lịch sử và tìm ra lời
giải đáp đúng đắn cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.


Khái niệm cá nhân

Triết học Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: con người là sự thống nhất biện
chứng giữa mặt sinh học với mặt xã hội. C.Mác viết: “Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [16, 11]. Bản
chất xã hội của con người đó không thể hiện một cách chung chung mà biểu
hiện cụ thể trong từng cá nhân. Nói một cách khác, con người tồn tại thông
qua mỗi cá nhân.
Với tư cách là một thực thể sinh học, mỗi cá nhân là cá thể người mang
đặc điểm chung của giống loài “người”, nhưng lại khác nhau về cấu tạo cơ thể
riêng của mỗi người. Sự khác nhau về phương diện sinh học ấy chủ yếu bị chi
phối bởi “bộ gen” riêng ở mỗi người. Mỗi cá nhân có một thể chất riêng, hình
dáng riêng, đặc điểm riêng về kiểu thần kinh, có sự nhạy cảm riêng đối với
những yếu tố tác động của môi trường sống…
Xét về mặt xã hội, cá nhân là một thực thể xã hội, cá nhân là cá thể

người được hình thành và phát triển trong lịch sử, là chủ thể của lao động của
mọi quan hệ xã hội và là chủ thể của nhận thức. Cá nhân là một con người
hoàn chỉnh trong sự thống nhất của những khả năng riêng có của người đó với
chức năng xã hội mà người đó thực hiện. Trong mối quan hệ với xã hội, cá
nhân thể hiện là một chỉnh thể đơn nhất, độc đáo có vai trị chủ thể trong lịch
sử.
Với tư cách là một thực thể có tâm lý, ý thức, mỗi cá nhân có một bản
sắc độc đáo riêng. Bản sắc độc đáo ấy thể hiện qua “nhân cách” của cá nhân.
Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của cá nhân tạo thành một
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

22


Đề tài khố luận tốt nghiệp

chỉnh thể đóng vai trị chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều
chỉnh mọi hoạt động của mình. Nhân cách không phải là cái trời phú cho,
cũng không phải là cái bẩm sinh của cơ thể sinh học. Nhân cách được hình
thành và phát triển phụ thuộc vào các yếu tố như:
Một là, yếu tố sinh học, ở đây tư chất di truyền có ảnh hưởng đến sự
hình thành nhân cách.
Hai là, yếu tố môi trường: đây là yếu tố bên ngồi có vai trị rất quan
trọng tác động vào cá nhân như: yếu tố kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, gia
đình…C.Mác viết: “Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một
phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất
định” [21, 275].
Ba là, hoạt động của cá nhân: đây là yếu tố quyết định sự hình thành
nhân cách vì cá nhân quan hệ với mơi trường, với hồn cảnh khơng phải chỉ
chịu tác động thụ động của hồn cảnh mà thông qua hoạt động tác động trở lại

đối với hồn cảnh. Thơng qua hoạt động của mình ở nhiều lĩnh vực như: kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội, khoa học, mọi hoạt động ứng xử đạo đức…mỗi
người hình thành cho mình một nhân cách riêng. Mỗi cá nhân có một thế giới
quan riêng bao gồm những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị
chung của cá nhân. Thế giới quan riêng của cá nhân khi được hình thành nó
trở lại chi phối hoạt động của cá nhân.
Nói tóm lại, sự hình thành và phát triển nhân cách là sự thống nhất của
ba chiều sinh học, tâm lý và xã hội trong quá trình xác lập “cái tơi”.
Như vậy, ngồi những đặc điểm chung của “con người”, cá nhân rất
khác nhau. Xét cho cùng, sự khác nhau đó từ đâu? C.Mác chỉ ra rằng sự khác
nhau ấy là do phương thức sinh sống của họ quy định: “…Những cá nhân
đúng y như trong hiện thực, nghĩa là đúng y như họ đang hành động trong
những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào
ý chí của họ”. Đồng thời C.Mác chỉ rõ: “Những cá nhân biểu hiện đời sống
của họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

23


Đề tài khoá luận tốt nghiệp

xuất ra cũng như với tư cách mà họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là thế
nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”
[21, 269]


Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một luận điểm

xuất phát để luận giải những vấn đề khác của lịch sử ngay từ khi triết học Mác
ra đời.
Khái niệm xã hội được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là
xã hội loài người (toàn thể nhân loại), thấp hơn là những hệ thống xã hội như
quốc gia, dân tộc, giai cấp.
Vậy, xã hội là gì?
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động
này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với
người làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu
hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với
nhau” [20, 355]. Theo C.Mác, “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là
cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” [18, 657].
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, trong bất cứ giai đoạn nào, cá
nhân cũng không thể tách rời khỏi xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội luôn vận
động, biến đổi và phát triển, trong đó sự thay đổi càng rõ khi có sự thay thế
hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội” [16, 11]. Điều đó cũng có nghĩa, trong sự tác động
qua lại giữa người với người sẽ tạo ra một hệ thống các mối giao lưu và quan
hệ xã hội. Hệ thống quan hệ xã hội đó quy định cuộc sống đối với từng cá
nhân. Trong toàn bộ quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người trong sản
xuất là quan hệ quyết định xét đến cùng. Do đó, phương thức sinh sống và
hoạt động của cá thể sẽ hình thành lối sống của họ, mà lối sống đó phụ thuộc
vào phương thức sản xuất của xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác vạch
Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

24


Đề tài khố luận tốt nghiệp


ra rằng phân cơng lao động xã hội chi phối các hình thức giao tiếp của con
người, vì vậy mỗi thời kỳ lịch sử có một kiểu cá nhân với tính đặc thù của nó.
Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy; do
đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản
xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào,
điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ.
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của lịch sử.
Điều đó khơng chỉ liên quan đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
trình độ văn hoá, văn minh mà liên quan tới sự thay đổi của phương thức sản
xuất, của hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi cách mạng làm thay đổi hình thái
kinh tế - xã hội thì quan hệ cá nhân và xã hội mới có sự thay đổi căn bản.
Trong chủ nghĩa tư bản, người công nhân gánh chịu mọi hậu quả nặng
nề của sự tha hoá. Kết quả hoạt động của con người, của công nhân ngày càng
biến thành một lực lượng thoát ra khỏi con người, xa lạ với con người, thống
trị lại con người, thù địch với con người, lực lượng đó là tư bản. Các điều kiện
lao động của người công nhân đối lập lại người cơng nhân.Trong những điều
kiện đó, tự do của người lao động chỉ mang tính hình thức, cá nhân con người
khơng thể có sự phát triển hài hồ và tồn diện. Điều kiện sống và làm việc
của cơng nhân tồi tệ hơn khi họ mất việc làm; khi đó người lao động càng
khơng thể khẳng định mình với tư cách cá nhân. Chỉ khi nào các đối kháng
giai cấp trước toàn xã hội đã bị loại bỏ, khi người lao động thực sự làm chủ
các điều kiện vật chất của người lao động, với tư cách con người mới được
khẳng định.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với
quan hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện
mối quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể, giữa khách quan và chủ quan.
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển của xã hội về nhiều mặt.
Mặt chủ quan biểu hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù
hợp với mục đích của con người. Do vậy, việc tổ chức các hoạt động xã hội

Sinh viên thực hiện: Hoàng Nữ Lê Mai - Triết K31

25


×