Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Bệnh quan liêu ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.55 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan liêu là căn bệnh rất nguy hiểm và là nguy cơ lớn đối với đảng
cộng sản cầm quyền. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin cảnh báo đối
với các đảng cộng sản cầm quyền phải ln cảnh giác và tìm biện pháp ngăn
chặn nguy cơ đó. Tuy nhiên, cho đến nay bệnh quan liêu vẫn là căn bệnh trầm
kha, phổ biến ở những mức độ khác nhau trong các đảng cộng sản cầm quyền.
Nó đang là hiện tượng nhức nhối trong xã hội, làm suy giảm niềm tin, mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân, làm giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, gây thiệt hại về kinh tế - xã hội. Ở mức độ trầm trọng nó có thể làm
suy yếu tan rã Đảng, làm mất chính quyền, chế độ. Đề phịng và khắc phục
bệnh quan liêu luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng, là công việc thường
xuyên của các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Bệnh quan liêu là căn bệnh tồn tại trong mỗi chế độ xã hội và có thể
xuất hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, trong các tổ chức đảng,
trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức chính trị - xã hội và ở mỗi cán bộ
đảng viên. Trong lĩnh vực hoạt động nào, bệnh quan liêu cũng đều là hiện
tượng tiêu cực và nguy hiểm, gây tác hại cho xã hội, nhưng tác hại nhất là
bệnh quan liêu ở cán bộ chủ chốt nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Bởi
vì, theo Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [54, tr.506];
“Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [54, tr.510].
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy
mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, địi hỏi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành tiết
kiệm, chống tham ơ, lãng phí, chống bệnh quan liêu... Chính đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng,
trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành


2


hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở.
Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và
phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý tại cơ sở.
Sự thành bại của cách mạng, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
tùy thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ. Vì thế, cơng tác xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có đầy đủ phẩm chất và năng lực để hồn thành
nhiệm vụ cách mạng được giao, đội ngũ cán bộ thật sự là công bộc của nhân
dân mà theo Chủ tích Hồ Chí Minh đó là “cơng việc gốc” của Đảng. Điều đó
cũng nói lên rằng, nếu bệnh quan liêu xuất hiện trong đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở này thì cực kỳ nguy hiểm cho Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy đến nay, bệnh quan liêu khơng những
khơng được ngăn chặn có hiệu quả mà đang có nguy cơ phát triển, đang trở
thành căn bệnh nghiêm trọng. Tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), Đảng ta
khẳng định “chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ nạn quan liêu…” [27, tr.126].
Một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở do quan liêu nên không nắm chắc cán
bộ, không đánh giá đúng cán bộ, thậm chí có cả những người suy thối về
phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực kém giữ các cương vị lãnh đạo quản lý
chủ chốt cấp cơ sở, gây ra những hậu quả khôn lường. Cũng do quan liêu mà
có nhiều cán bộ tốt, có thành tích khơng được phát hiện kịp thời, không được
trọng dụng; cán bộ yếu kém vi phạm kỷ luật không bị xử lý nghiêm minh kịp
thời,v.v.. Tất cả những hiện tượng trên đang là điều nhức nhối, bức xúc trong
xã hội, làm nhân dân bất bình, gây tác hại khơng nhỏ cho cơng cuộc phát triển
đất nước, làm xói mịn lịng tin của nhân dân vào Đảng, làm tổn hại đến uy tín
của Đảng.
Để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết Đại
hội XI của Đảng, Đảng phải không ngừng coi trọng đấu tranh phòng chống


3

bệnh quan liêu trên tất cả các lĩnh vực; đặc biệt là đấu tranh phòng chống
bệnh quan liêu trong đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
cơ sở nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng này, Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đã lãnh
đạo, chỉ đạo nhân dân trong tỉnh thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội,
đạt được nhiều thành tích trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Những thành quả này đều có sự góp sức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ những hạn chế
nhất định. Đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập trước yêu cầu đổi mới; thiếu và
yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ văn hố, khoa học kỹ thuật, trình độ lý
luận, trình độ trí tuệ và cả năng lực chun mơn. Đội ngũ này được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau, trưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được
đào tạo một cách có hệ thống, hạn chế về lý luận. Những hạn chế này, đã trực
tiếp gây tác hại lớn trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới hiện nay, làm
cho chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn khơng cao, chưa đáp ứng được địi
hỏi yêu cầu thực tiễn đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nguyên nhân gây ra hạn chế này là do đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Đồng Tháp còn mắc bệnh quan liêu.
Trong suốt q trình lãnh đạo, nhất là trong cơng cuộc đổi mới hiện nay,
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp luôn coi trọng việc đề phịng và khắc phục bệnh quan
liêu, trong đó, chú ý đến việc việc đề phòng và ngăn ngừa bệnh quan liêu trong
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở. Cuộc đấu tranh đề phịng
và khắc phục bệnh quan liêu nói chung và bệnh quan liêu ở cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở nói riêng diễn ra liên tục và đã thu được một số kết
quả đáng khích lệ, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng.


4
Do vậy, việc nghiên cứu bản chất, những biểu hiện chủ yếu và những

nguyên nhân, để từ đó đề ra giải pháp phù hợp, ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan
liêu trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Đồng Tháp
thực sự mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do chúng tơi chọn đề tài: "Bệnh
quan liêu ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Đồng
Tháp hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Q trình đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa mà các văn kiện, các nghị quyết của Đảng đã đề cập,
đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu vấn đề bệnh quan liêu, trong đó phải
kể đến một số cơng trình có liên quan như:
- Trương Thị Thông: chủ nhiệm đề tài Bệnh quan liêu trong công tác
cán bộ trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền - Thực trạng và
giải pháp để đề phòng và khắc phục, 2006, ĐTNC 1415-1418. Trong chương
1, tác giả đã nêu rõ nguồn gốc, bản chất và những tác hại của bệnh quan liêu
trong công tác cán bộ; chương 2, tác giả nêu lên một số biểu hiện chủ yếu và
nguyên nhân của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ và trong chương 3, tác
giả đã đề ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đề phịng, khắc phục
bệnh quan liêu trong cơng tác cán bộ
- Trần Quang Minh, Bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị và
hướng khắc phục để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam:
LAPTSKH Triết học, mã số 5.01.03,1992. Số ĐKCB: LA92.0157.1
LA92.0157.2. Tác giả đã trình bày hai chương; trong chương 1, làm rõ
bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị - lực cản to lớn của q trình đổi
mới tồn diện đất nước, ngun nhân bệnh quan liêu trong hệ thống chính
trị ở nước ta. Chương 2, tác giả đưa ra một số phương hướng và biện pháp


5
chủ yếu khắc phục bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị nhằm thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân.
- Nguyễn Trần Thành, Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: nguyên nhân và phương hướng
khắc phục: LATS Triết học: 5.01.02; H.,2000. Số ĐKCB: LA00.0213.1
LA00.0213.2. Tác giả lý giải đầy đủ sâu sắc hơn về nguồn gốc sâu xa bệnh
quan liêu của bộ máy nhà nước, vạch rõ bản chất nhiều tầng, nhiều thứ bậc
cũng như các biểu hiện khác nhau của quan liêu. Tác giả phân tích có hệ
thống, toàn diện bản chất, nguồn gốc của bệnh quan liêu; bản chất của quyền
lực và mối quan hệ quyền lực - lợi ích - quan liêu và luận giải sự quan liêu
hóa bộ máy nhà nước trong thực tế xây dựng xã hội chủ nghĩa cơ chế từ sự
vận hành quyền lực chứ không phải của tàn dư cũ để lại. Tác giả đề xuất một
số giải pháp, hạn chế, khắc phục quan liêu trong bộ máy nhà nước Việt Nam
và hạn chế lạm dụng quyền lực cá nhân.
- Trần Thành, Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước và phương hướng
khắc phục trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:
LAPTSKH Triết học: 5.01.02; H.,1994. Số ĐKCB LA94.007.1 LA94.007.2.
Tác giả đã làm rõ thực trạng và nguyên nhân của bệnh quan liêu trong bộ máy
nhà nước ta; bản chất của chủ nghĩa quan liêu và những biểu hiện chủ yếu của
nó trong bộ máy nhà nước ta; phương hướng khắc phục và ngăn ngừa bệnh
quan liêu trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
- Ban chỉ đạo TW 6 (2), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Tệ quan
liêu, lãng phí một số giải pháp phịng, chống (lưu hành nội bộ), Nxb. CTQG,
Hà Nội. 2006. Trong tài liệu nêu lên một số bài viết và nói của chủ tịch Hồ
Chí Minh về tệ quan liêu, lãng phí; Văn kiện của Đảng qua các nhiệm kỳ đại
hội VI, VII, VIII, IX về phịng, chống quan liêu, lãnh phí; tệ quan liêu, lãng
phí ở nước ta hiện nay và một số giải pháp phòng, chống….


6
Từ những cách tiếp cận khác nhau, các cơng trình khoa học nói trên đã

đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm rõ những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bệnh quan liêu, về
tác hại của bệnh quan liêu…Đến nay, tuy đã có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu bệnh quan liêu, nhưng việc nghiên cứu bệnh quan liêu đặc thù
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Đồng bằng sông
Cửu Long nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng thì hầu như chưa có cơng
trình nào đề cập một cách cụ thể. Do vậy, vấn đề nghiên cứu bệnh quan liêu
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt ở Đồng Tháp vẫn là vấn đề cần được
tiếp tục nghiên cứu để góp phần cho các cấp lãnh đạo, quản lý nghiên cứu
ngăn chặn phòng ngừa bệnh quan liêu trong cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng bệnh quan liêu ở đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Đồng Tháp, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế có hiệu quả bệnh quan liêu ở đội ngũ cán bộ này.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ nguồn gốc và bản chất của bệnh quan liêu; tác hại và
một số biểu hiện chủ yếu của bệnh quan liêu;
- Phân tích đánh giá thực trạng bệnh quan liêu ở đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Đồng Tháp;
- Đề xuất một số giải pháp ngăn ngừa, hạn chế bệnh quan liêu ở đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở Đồng Tháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh quan liêu và thực trạng bệnh quan liêu ở đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Đồng Tháp.


7

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn việc nghiên cứu bệnh quan liêu trong cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở nhưng chỉ giới hạn nghiên cứu đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp phường và thị trấn gồm: Bí thư, Phó bí
thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân
dân, Trưởng, phó các ngành của phường, thị trấn qua khảo sát thực tế tại
tỉnh Đồng Tháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng lý luận và phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
nguyên lý nhận thức mác xít, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về tư tưởng
lý luận, nhận thức, các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (tỉnh, huyện, xã,
phường, thị trấn).
- Luận văn kế thừa và sử dụng một số kết quả cơng trình khoa học của
tác giả đã nghiên cứu và được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí có liên quan
đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch
sử - lơgíc, điều tra, khảo sát thực tế.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Lần đầu tiên, tác giả luận văn khái quát một số nét đặc thù của bệnh
quan liêu và sự ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Đồng Tháp; chỉ ra tác hại của bệnh quan liêu trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp.
- Tìm ra nguyên nhân và đề ra một số giải pháp chủ yếu mang tính khả
thi góp phần cùng Tỉnh, Đảng bộ Đồng Tháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở đúng tầm với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.



8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho lãnh đạo, quản
lý nghiên cứu, tổ chức thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan liêu;
đẩy mạnh cơng tác phịng, chống bệnh quan liêu và xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp trong Đảng bộ tỉnh đi vào chiều sâu, khơng ngừng vươn lên nâng cao
tầm trí tuệ, để xứng đáng là công bộc của dân.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng
dạy ở các Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, các
trường cao đẳng và đại học, về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỆNH QUAN LIÊU
1.1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ TÁC HẠI CỦA BỆNH QUAN LIÊU

1.1.1. Quan niệm về bệnh quan liêu
Trong nhận thức chung, các thuật ngữ chủ nghĩa quan liêu; tệ quan
liêu; tệ nạn quan liêu; bệnh quan liêu; thói quan liêu đều có ý nghĩa tiêu cực
và được sử dụng rộng rãi. Xét ở phương diện nội dung cơ bản, các thuật ngữ
trên là đồng nghĩa. Do vậy, để thuận tiện cho việc sử dụng chúng tôi dùng
thuật ngữ “bệnh quan liêu” để trình bày nội dung cần nghiên cứu.
Bệnh quan liêu là một hiện tượng xã hội. Hiện tượng này bao hàm tổng
thể các đặc điểm, các hình thức, các dạng biểu hiện của nó chứ khơng phải chỉ
là những hành vi quan liêu đơn nhất nào đó. Bệnh quan liêu là một hiện tượng
xã hội nằm ngay trong hệ thống các quan hệ xã hội hiện hữu. Nó có nguồn

gốc, nội dung và ngun nhân từ trong lịng xã hội; cả sự tồn tại và phát triển
của nó đều mang tính chất xã hội. Bệnh quan liêu có cơ sở, mơi trường và
điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng tâm lý, đạo đức, tập
quán và các điều kiện khác để tồn tại và phát triển trong xã hội. Đây là đặc
điểm thể hiện bản chất của bệnh quan liêu. Có nghĩa là bệnh quan liêu là một
hiện tượng xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
Bệnh quan liêu là một hiện tượng xã hội tiêu cực rất nguy hiểm đối với
Đảng, Nhà nước, xã hội và nhân dân, vì nó gây ra những tác hại to lớn về mọi
mặt cho các quan hệ đang tồn tại trong xã hội, xâm phạm đến các giá trị vật
chất và tinh thần của xã hội, tác động một cách tiêu cực đến tiến trình phát
triển, đổi mới đất nước nói chung và làm giảm hiệu quả của những biện pháp
tích cực được tiến hành trong xã hội. Bệnh quan liêu phá vỡ hoạt động bình


10
thường của các thiết chế, tổ chức, định chế khác nhau trong xã hội, tạo ra mơi
trường, khí hậu có lợi cho việc phát triển các tệ nạn xã hội khác, là nguyên
nhân của tệ tham nhũng, lãng phí.
Bệnh quan liêu là một hình thức, một phương thức, một phong cách
lãnh đạo quản lý bị biến dạng, biến chất. Mọi hình thức, phương thức, phong
cách lãnh đạo, quản lý đúng đắn, nếu khơng được giám sát kiểm tra đều có xu
hướng bị thối hóa, biến dạng méo mó như sự phản ánh của cái gương bị
cong vênh. Hình thức, phương thức, phong cách lãnh đạo, quản lý này nảy
sinh trong chính bộ máy lãnh đạo quản lý: bộ máy Đảng, nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, đi ngược lại với những mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc,
chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của lãnh đạo, của quản lý. Do vậy, cần
phải loại trừ bệnh quan liêu ra khỏi xã hội, ra khỏi bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Hình thức, phương thức, phong cách lãnh đạo, quản lý bị quan liêu hóa có
những dạng, những lĩnh vực, những mức độ, quy mô, phạm vi biểu hiện rất đa

dạng, phức tạp, có khi rất tinh vi, nhưng có lúc lại trắng trợn.
Về phương diện quyền lực, bệnh quan liêu được hiểu là sự tuyệt đối
hóa quyền lực văn phòng, là một thứ quyền lực của bàn giấy chứ không phải
là quyền lực của nhân dân, và cũng không phải là quyền lực của một người cụ
thể mà là quyền lực của một vị trí chức vụ. Nói cách khác, chức năng bổ trợ,
lẽ ra là để phục vụ con người, phục vụ nhân dân lại có quyền lực cao hơn con
người, đứng trên nhân dân.
Từ chỗ là hệ thống quản lý có chức năng giải quyết hợp lý các cơng
việc và từ chỗ là cơng cụ nó đã biến thành bộ máy độc lập, tự phục vụ cho
chính mình. Như vậy, bệnh quan liêu là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
mang tính lịch sử cụ thể gắn liền với bộ máy lãnh đạo, quản lý xã hội thể hiện
ở hình thức, phương thức, phong cách lãnh đạo, quản lý bị biến dạng, bị biến
chất gây ra hậu quả nguy hiểm trên nhiều phương diện: về kinh tế, chính trị,


11
xã hội, tư tưởng, tổ chức, tâm lý, đạo đức, lối sống…đối với sự lãnh đạo ,
quản lý và phát triển xã hội.
Những phân tích đánh giá về bệnh quan liêu được các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác-Lênin rút ra qua việc nghiên cứu của C. Mác về tệ quan liêu
của nhà nước Phổ những năm 1840 và của V.I Lênin về về tệ quan liêu của
nhà nước Nga Sa Hoàng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, được coi là kinh
điển và được dùng để soi rọi mọi nhà nước quan liêu.
Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen (viết
năm 1843), bàn về chủ nghĩa quan liêu, C.Mác cho rằng chủ nghĩa quan liêu
là chủ nghĩa địa vị, là tư tưởng danh lợi, là việc chạy theo chức quyền đã biến
mục đích của nhà nước trở thành mục đích của cá nhân để phục vụ lợi ích cá
nhân của những kẻ quan chức. Vì:
Cơ cấu quan chức biến những mục đích “hình thức” của mình thành
nội dung của mình, cho nên bất kỳ ở đâu nó cũng xung đột với những

mục đích “hiện thực”. Quan liêu ln ln biến những mục đích
“hình thức”… thành nội dung của mình; cịn nội dung thì được xem là
cái gì đó mang tính hình thức. Nhiệm vụ của nhà nước biến thành
niệm vụ bàn giấy. Quyền lực Nhà nước vốn thuộc về nhân dân đã trở
thành bộ máy công cụ của bộ máy quan liêu để cai trị nhân dân, đứng
trên nhân dân và xã hội [47, tr.376].
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin cũng vạch rõ nguồn gốc của
quan liêu. V.I. Lênin chỉ rõ tính chất nổi bật của nhà nước (đặc biệt là Nhà
nước độc tài) là “… cái bộ máy cai trị đã tự tách ra từ xã hội loài người.
Khi nào mà xuất hiện một nhóm người đặc biệt chỉ có nhiệm vụ cai trị”
[42, tr.80]. Trong những điều kiện đó, khi những bộ máy nhà nước trở nên
độc lập “tựa hồ như đứng trên xã hội” và cả giai cấp thống trị mà nó phục
vụ. Và đó là mơi trường màu mỡ để quan liêu phát triển. C.Mác viết: “Quan
liêu coi mình là mục đích cuối cùng của Nhà nước” và “ở ơng quan liêu,


12
mục đích của Nhà nước đã biến thành mục đích của cá nhân, thành cuộc
chạy đua chức tước và màng danh lợi” [47, tr.271-272]. Theo V.I. Lênin,
“Chủ nghĩa quan liêu, tức là đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích
của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm xỉa
đến công tác” [36, tr.424].
Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan liêu tư sản là sự chiếm
đoạt nhà nước bởi bộ máy quan lại; là sự tùy tiện, vụ lợi và tranh giành chức
tước; là ung nhọt, là bộ phận ăn bám cần phải loại bỏ. Tuy nhiên, các nhà kinh
điển cũng thấy rằng, bộ máy nhà nước cũng là cần thiết để thực hiện các
“công việc chung gắn liền ngay với bản chất của mọi xã hội” [49, tr.587],
nhưng bộ máy đó phải là những nhà chun mơn thuần phục - là bộ máy
“quan liêu tận tâm”. Song bên cạnh cái quan liêu tận tâm lại luôn luôn tồn tại
cái quan liêu vụ lợi. Trong những năm đầu của chính quyền Xơ Viết,

V.I.Lênin đã thấy rõ nguy cơ của bệnh quan liêu. Người nói thẳng rằng: “…
bộ máy ấy rất thường không phục vụ chúng ta mà lại chạy ngược lại chúng ta
(khơng nên sợ nói lên sự thật đó,..” [45, tr.292]. Để thốt khỏi tình trạng này
thì phải chữa cái “ung nhọt chủ nghĩa quan liêu” [44, tr.36], nhưng phải chữa
thế nào đó, sao cho bộ máy quản lý, khả năng làm việc của nó, những chức
năng khách quan của nó vẫn giữ được.
V.I. Lênin là người rất quan tâm đến bệnh quan liêu trong bộ máy nhà
nước, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trong điều kiện đảng cộng
sản cầm quyền. Ông cho rằng, người quan liêu là “nhân vật có đặc quyền,
thốt ly quần chúng và đứng trên quần chúng” [38, tr.141].
Có thể thấy nói, bệnh quan liêu ln hiện diện trong mọi nền hành
chính, mọi chế độ đều phải ra sức đấu tranh để loại bỏ nó. Trong những biện
pháp đấu tranh phòng và chống bệnh quan liêu của học thuyết Mác-Lênin, nổi
bật lên các phương pháp sau:


13
Xây dựng cơ chế tổ chức Nhà nước phi quan liêu.
Từ những quan niệm về bệnh quan liêu như trên, chủ nghĩa Mác -Lênin
chủ trương cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đập tan bộ máy quan liêu tư sản
và thay vào đó bằng bộ máy hồn tồn mới, bảo đảm gắn bó với nhân dân,
khơng bị quan liêu hóa theo đúng nghĩa của từ này. C.Mác qua kinh nghiệm
của Cơng xã Pari (năm 1871), đã đưa ra mơ hình tổ chức cơ cấu chính quyền
nhân dân mới là hệ thống các Công xã và được tổ chức theo kiểu một “cơ thể
hành động” [48, tr.449], khơng có sự phân chia các quyền. V.I.Lênin, từ sau
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), đã trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng một
nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống quản lý hành chính cơ bản theo mơ
hình Cơng xã Pari mà C. Mác đã nêu ra, có điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn
nước Nga được gọi là Cộng hịa Xơ Viết.
Trong quan niệm của C. Mác, để chống lại bộ máy quan liêu, cần thiết

phải xóa bỏ những cơ sở tạo ra những đặc thù của bộ máy cai trị chuyên
nghiệp, tách ra khỏi xã hội như là một lực lượng riêng biệt. Tiền đề có tính
ngun tắc mà C.Mác luôn hướng tới là phải giải quyết mối quan hệ giữa nhà
cầm quyền với nhân dân và theo hướng người dân phải được và có khả năng
lựa chọn người cầm quyền xứng đáng, được đánh giá về hoạt động của họ và
thay thế họ nếu không đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Đối với
những cơ quan quyền lực nhà nước và những người đại diện vốn một thời là
những nhà chuyên môn đặc quyền đặc lợi trong đó thì C.Mác u cầu các cơ
quan này phải gồm các đại biểu của nhân dân lao động, nắm trong tay các
chức năng lập pháp, quản lý và giám sát.
V.I.Lênin, tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước của nhân dân phải
thống nhất vào các cơ quan đại diện của nhân dân - các Xô viết [39, tr.307,
400-401]. Song, sự thống nhất này trong điều kiện trước mắt không loại trừ sự
cần thiết phải có các thiết chế nhà nước truyền thống (Chính phủ, Tịa án…)


14
và viên chức nhà nước để thực hiện các hoạt động nhà nước vì “chúng ta
khơng thể sống thiếu bộ máy (quản lý). Mọi ngành quản lý đòi hỏi phải có bộ
máy như vậy”. Để đảm bảo tính thực quyền của Xô viết - tức là đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân, V.I.Lênin đòi hỏi các thiết chế này phải được tổ
chức trên nguyên tắc phát sinh từ cơ quan đại diện quyền lực nhà nước, chịu
sự báo cáo, chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực đó [40, tr.31-32]. Đây
chính là nội dung cơ bản của nguyên tắc tập quyền trong tổ chức bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa mà sau này các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có
nước ta đều áp dụng.
Xây dựng phong cách làm việc mới trong bộ máy nhà nước và bộ
máy Đảng.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là V.I.Lênin cho rằng,
để loại trừ bệnh quan liêu cần thiết phải xây dựng một phong cách làm việc

mới trong các cơ quan công quyền và cả bộ máy đảng cộng sản cầm quyền.
Phong cách làm việc Lêninnít thể hiện qua các nội dung sau:
Tiếp cận khoa học đối với cơng việc: quản lý nhà nước là sự tác động
có ý thức, có định hướng cần phải dựa trên nền tảng kiến thức khoa học như
một nhà chuyên môn: khi ra quyết định giải quyết các công việc cụ thể phải
trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình, hiểu biết quá trình và khuynh hướng
phát triển của hiện tượng; tính tốn kỹ càng tồn bộ các yếu tố, hiện tượng
liên quan, quyết định đúng đắn thứ tự ưu tiên giải quyết công việc; sử dụng
rộng rãi các thành tựu khoa học quản lý, kinh nghiệm tiên tiến, sáng kiến
đóng góp của quần chúng, phân tích thơng tin; biết cách tổ chức công việc để
đảm bảo từng khâu, từng người hành động một cách thơng suốt, nhanh chóng
cùng đạt được mục tiêu chung.
Hiều biết cơng việc, nói đi đơi với làm: Ngay sau khi thắng lợi cách
mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã nêu:


15
Để thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của chúng ta, chính là đề
cho những nhiệm vụ đó khơng cịn là một điều không tưởng hay là
một ước nguyện ngây thơ, mà sẽ thật sự trở thành hiện thực, để cho
những nhiệm vụ đó được thực hiện ngay lập tức, chính vì mục đích
đó mà bây giờ chúng ta phải tự đặt ra cho chúng ta cái nhiệm vụ
hàng đầu trước mắt và chủ yếu nhất này: tức là tiến hành công tác tổ
chức với ý thức thực tiễn và đầu óc thiết thực [41, tr.195].
Khắc phục ngay tình trạng nói mà khơng làm theo kiểu đánh trống bỏ
dùi, hoặc là hứa rồi để đấy. Tình trạng này sẽ làm mất lịng tin khơng chỉ đối với
cơng chức đó mà cịn đối với chính cơ quan chính quyền Xơ viết. V.I.Lênin chỉ
rõ: “Khi một người dân chủ - xã hội nói một đằng làm một nẻo, thì điều đó đã
hồn tồn xấu rồi. Cái đó dẫn đến tính giả nhân giả nghĩa” [37, tr.37].
Cải tiến, hoàn thiện bộ máy, thủ tục quản lý: cải cách thủ tục hành

chính rườm rà, qua nhiều tầng nấc trung gian; cải tiến bộ máy và cơng cụ theo
ngun tắc “thà ít mà tốt”. Chấm dứt tình trạng bộ máy hành chính ngày càng
phình to mà cơng việc thì khơng chạy.
Tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát đối với bộ máy nhà nước; xử
lý nghiêm đối với những kẻ “quan kiêu hóa”.
V.I.Lênin, có thể nói, là người trực tiếp đối mặt với bệnh quan liêu
trong hệ thống quản lý mới xã hội chủ nghĩa. Người đã thẳng thừng chỉ ra
phải tiến hành cuộc đấu tranh với những “quan liêu chủ nghĩa đối với tổ chức
Xô viết” [41, tr.253].
Trong những biểu hiện của quan liêu, V.I.Lênin chỉ ra nguy cơ quan
liêu cả trong tổ chức đảng và các đảng viên. Người viết: “Chủ nghĩa quan liêu
trong bộ máy xô viết không thể không lan sang bộ máy của đảng, vì hai bộ
máy này có quan hệ mật thiết với nhau” [43, tr.59], “cuộc thanh đảng tới đây
sẽ nhằm vào những người cộng sản lên mặt là quan cai trị” [45, tr.1]ư, và


16
“Những người cộng sản trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm
tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó” [46, tr.235].
Kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta, chính là anh chàng quan
liêu, một người cộng sản giữ một cương vị trọng trách (và cả cương
vị không trọng trách nữa) trong cơ quan xô viết,… Anh ta đã không
học được cách đấu tranh chống bệnh giấy tờ, anh ta không biết đấu
tranh chống bệnh ấy, anh ta lại bao che cho nó. Chúng ta phải gạt
bỏ kẻ thù đó [45, tr.18].
Trong tác phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xơ viết,
Lênin khẳng định bên cạnh việc khắc phục sự chống phá của các thế lực đế
quốc và thù địch trong nước, cần tập trung khơi phục phát triển kinh tế, văn
hóa; thực hiện cơng nghiệp hóa đất nước, phải đi liền với nhiệm vụ chống
quan liêu, tham nhũng trong bộ máy chính quyền Xơ viết.

Trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội - nhà nước xã hội chủ nghĩa
vẫn cịn tiềm ẩn nguy cơ chủ nghĩa quan liêu. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở
các đảng cộng sản phải hết sức thận trọng và sáng tạo trong quá trình lãnh đạo
và thực hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu không sẽ dễ vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân dẫn
đến mất vai trị lãnh đạo của mình là rất khó tránh khỏi.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan liêu, Bản chất của Nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy các cơ quan nhà nước,
cán bộ nhà nước là công bộc của dân, phải lo nổi lo của dân, vui niềm vui của
dân, khổ đau nổi đau của dân. Mối liên hệ giữa nhà nước thông qua các cán
bộ của mình với nhân dân phải là mối liên hệ máu thịt, gắn bó chặt chẽ. Mọi
biểu hiện xa rời dân, hách dịch, cửa quyền, quan liêu,…đều không thể chấp
nhận được, nhất là trong điều kiện của một đảng cầm quyền. Ngay từ khi mới
thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách


17
mạng Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khơng ngừng chăm lo xây dựng
Đảng, Nhà nước, không ngừng giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ, dảng viên, khắc phục những căn bệnh đối với một Đảng cầm quyền,
đặc biệt là bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
Quan liêu theo tư tưởng của Hồ Chí Minh là sự xa rời thực tế, xa rời
quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng. Trong tác phẩm
Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết:
quan liêu là:
Không đi sâu sát phong trào khơng nắm được tình hình cụ thể của
ngành hoặc của địa phương mình, khơng gần gũi quần chúng và học
hỏi kinh nghiệm của quần chúng. Thích ngồi bàn giấy hơn là đi
xuống cơ sở để hiểu đúng thực tế, kiểm tra việc thi hành chính sách,
lắng nghe ý kiến của nhân dân. Thích dùng mệnh lệnh hành chính

hơn là kiên nhẫn giáo dục quần chúng một cách có lý, có tình. Do
đó mà đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ có
khi khơng thấu đến quần chúng hoặc bị thi hành lệch lạc, kết quả là
hỏng cơng việc lại mất lịng người [60, tr.24].
Như vậy, quan liêu về thực chất là sự xa rời quần chúng, là tách mình ra
khỏi nhân dân. Xa rời quần chúng nhân dân, trước hết là xa rời mục tiêu, lý
tưởng của Đảng. Mục tiêu, lý tưởng của mọi cuộc cách mạng do Đảng lãnh
đạo đều phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, đều mưu cầu lợi ích cho
toàn thề nhân dân, đem lại ấm no hạnh phúc cho dân. Xa rời mục tiêu, lý
tưởng của Đảng cũng là tách khỏi nguồn sức mạnh của cách mạng. Như Bác
đã chỉ tõ:
Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta 33 năm qua, chứng tỏ nhân dân ta rất giàu lòng yêu
nước và tinh thần cách mạng. Nhân dân ta hết sức tin tưởng và yêu


18
mến Đảng ta, vì Đảng ta là người lãnh đạo họ đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Được như vậy, chính là do Đảng ta ln ln trung thành với quyền
lợi của giai cấp và của dân tộc, biết vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hồn cảnh cụ thể của nước ta và ln luôn đi
đúng đường lối của quần chúng [60, tr.23].
Sức mạnh của Đảng ta, của Nhà nước ta bắt nguồn từ phẩm chất, năng
lực của mỗi cán bộ, đảng viên, ở sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Đây là hai nhân tố quan trọng luôn được Chủ Tịch Hồ Chí Minh
quan tâm trong cơng tác xây dựng Đảng cũng như giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực, phẩm chất cho cán bộ, đảng
viên, đi đôi với củng cố, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân
dân là những nhân tố quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với cách

mạng, khắc phục những căn bệnh đối với một đảng cầm quyền.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Người đã sớm
phát hiện thấy căn bệnh quan liêu đối với một đảng cầm quyền, đối với những
người nắm quyền lực trong bộ máy Nhà nước. Vì vậy, Người thường xuyên
nhắc nhở cán bộ, đảng viên về nguồn gốc và sức mạnh của Đảng là mối liên
hệ mật thiết với nhân dân, về vị trí của Nhà nước trong xã hội mới là cơng cụ
của nhân dân. Người ln nhắc nhở rằng: “Chính phủ là công bộc của dân”
[53, tr.22]. Cán bộ là “… đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan” nhân
dân” [61, tr.222]. Mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân được thể hiện ở
chỗ, nhà nước vừa là người dẫn đường, vừa là đầy tớ của dân, nhà nước phải
chăm lo đời sống của nhân dân. Thành công của cách mạng do đảng lãnh đạo,
theo cách nói của Người, là:
Nhờ dân ta đồn kết một lịng và Chính phù lãnh đạo khôn khéo, mà
chúng ta bẻ gẫy xiềng xích nơ lệ, tranh được độc lập tự do.


19
Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu
khơng có chính phủ, thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên
Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay,
chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập chẳng có nghĩa lý gì [53, tr.56].
“Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc đến
các làng, đều là cơng bộ của dân, nghĩa là để gành việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật” [53, tr.56]. Do vậy, “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước
hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy, phải có một tinh
thần chí cơng vơ tư” [53, tr.48]. “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc
gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải u dân, kính dân thì

dân mới yêu ta, kính ta” [53, tr.56].
Để giữ vững mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, Người không ngừng quan tâm giáo dục nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đàng viên, nghiêm khắc phê phán mọi biểu hiện
quan liêu, mệnh lệnh - căn bệnh thường gặp của một đảng cầm quyền.
Quyền lực nhà nước vốn là của nhân dân, nhưng tách rời, xa cách với
nhân dân thì nhà nước trở nên quan liêu. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do
dân, vì dân do vậy quyết khơng để nó trở thành bộ máy xa cách dân, vì như
vậy là xa rời bản chất đích thực của nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện một
đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên dễ mắc bệnh quan liêu, coi mình là người
lãnh đạo, người ra lệnh cho quần chúng nhân dân. Người nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải luôn nhận rõ và giữ đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân, trong đó Nhà nước vừa là người dẫn đường, vừa là đầy tớ của dân, phải
chăm lo đời sống của nhân dân.


20
Tính chất nguy hiểm của bệnh quan liêu, tư tưởng quan liêu không chỉ
dừng lại ở việc làm cho nhà nước xa rời nguồn sức mạnh của nó, xa rời bản
chất và đi lệch mục đích của nó, mà cịn là nguồn gốc, nguyên nhân, điều kiện
phát sinh ra các sai phạm, hạn chế khác. Trong bài nói tại Hội nghị bàn về
Cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1961 khi phê phán tệ tham lơ, lãng
phí, chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh
là nguồn gốc sinh ra tham ơ, lãng phí. Trong mọi cơng việc, phải tính tốn cân
nhắc cẩn thận, “thì giờ là vàng bạc”. Phải kiên quyết chống thói họp lu bù,
mất thì giờ, hại sức khỏe mà khơng kết quả thiết thực” [59, tr.314].
Thật vậy, “có nạn tham ơ, lãng phí là vì bệnh quan liêu. Vì những người
và cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế,
không theo dõi và giáo dục cán bộ, khôn gần gũi quần chúng. Đối với cơng
việc thì trọng hình thức mà khơng xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn

đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ khơng kiểm tra
đền nơi đến chốn. Tóm lại, vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc
bệnh quan liêu thành thử có mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng nghe
thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà khơng nằm vững. Kết quả
là người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí.
Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ơ, lãng
phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” [55, tr.489-490].
Cùng với tham ô, lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “Bệnh quan liêu
là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và chính phủ” [55, tr.490]. Khơng những
vậy, nó là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm, mang súng, mà nó
nằm trong các tổ chức của ta, đã làm hỏng công việc của ta” [55, tr.490]. Do
vậy, “Bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn của thực dân phong
kiến. Vì nó làm chậm trễ cơng cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm
hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta, nó phá hoại đạo


21
đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính” [55, tr.490]. Trong lúc các
chiến sĩ đồng bào phải hy sinh xương máu, mồ hôi, nước mắt để xây dựng đất
nước thì “những kẻ tham ơ, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí
phạm sức lực, tiêu hao của cải của chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám.
Vì những lẽ đó, chống tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan
trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận chính trị tư
tưởng” [55, tr.490].
Nếu bệnh quan liêu được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi như kẻ thù nguy
hiểm thì việc chống bệnh quan liêu được người coi là cách mạng, là dân chủ.
Cách mạng là tiêu diệt những cái xấu, xây dựng những cái gì tốt. Chúng ta
làm cách mạng để tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến để xây dựng dân chủ
mới” [55, tr.493]. Trong khi đó, bệnh quan liêu với tính cách là tật xấu cố hữu

của thực dân phong kiến vẫn còn, vốn “ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá
hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng” [55, tr.494]. “Tham ơ, lạng phí,
quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lịng tự tư, tư lợi, ích kỷ hại
nhân dân mà ra. Nó do chế độ “người bóc lột người” mà ra.
Chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng,
một xã hội cần, kiệm, liêm, chính - cho nên chúng ta phải tậy sạch hết những
thói xấu của xã hội cũ” [55, tr.494].
Để giúp cho cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng nhân dân nhận rõ
bệnh quan liêu, từ đó có hướng đấu tranh đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần chỉ rõ các nguồn gốc cũng như hình thức biểu hiện của bệnh quan
liêu. Nguồn gốc của bệnh quan liêu, theo Người, trước hết là bắt nguồn từ chủ
nghĩa cá nhân. Những người quan liêu “mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì
cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ khơng lo “mình vì mọi
người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.


22
Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn,…
Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính
kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, khơng chấp hành đúng đường
lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của
cách mạng, của nhân dân [61, tr.438].
Biểu hiện của sự xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Tuy nhiên, để dễ nhận thấy triệu chứng của bệnh quan liêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ ra những biểu hiện dễ nhận thấy nhất trong tư tưởng, trong phong cách làm
việc, trong sinh hoạt hàng ngày. Từ đó, có những định hướng đúng để đấu tranh
chống lại các biểu hiện đó. Những biểu hiện thường gặp của những cán bộ mắc
bệnh quan liêu là: “Họ tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, họ tự cao, tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế,..” [61, tr.438-439].

Hay trong “Bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương
triệu tập” (tháng 01/1965), Người cũng chỉ rõ biểu hiện của bệnh quan liêu là:
Họ ít gắn bó với tổ chức, khơng tin ở lực lượng và trí tuệ của tập
thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, khơng đồn kết và hợp
tác với người khác. Hễ có đơi chút hiểu biết, đơi chút thành cơng thì
tự cao, tự đại, vênh vang kêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người.
Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hơn hết thảy, định
đoạt mọi việc; ở ngành nào, địa phương nào thì coi đó như một
giang sơn riêng, khơng biết đến lợi ích toàn cục. Họ coi thường
những quyết định của tổ chức, họ là những “ơng quan liêu”, chỉ
thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và nhân dân [60, tr.373-374].
Đấu tranh chống bệnh quan liêu là vấn đề cấp thiết và phức tạp. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “… chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng
quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận tư tưởng và chính trị”


23
[55, tr.490]. Muốn chiến thắng được bệnh quan liêu cần phải có kế hoạch, giải
pháp hữu hiệu, mà nói theo cách của Người là: “…, Ắt phải có chuẩn bị, kế
hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên” [55, tr.490]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã vạch ra những phương hướng phòng, chống tệ quan liêu cho
từng giai đoạn cách mạng. Có thể khái quát những định hướng đó như sau:
Thứ nhất, phải xác định rõ đây là một mặt trận chống kẻ thù, chống
quan liêu chính là cách mạng, là dân chủ. Ngay cả khi:
Thực dân và phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó
(tham ơ, lãng phí, quan liêu) vẫn cịn, thì cách mạng chưa hồn tồn
thành cơng, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá
hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng.
… Chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới,… cho nên chung ta
phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ.

… Tham ơ, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng”.
Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên
chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm trịn nhiệm vụ của
mình [55, tr.494-495].
Thứ hai, chống quan liêu cần được thực hiện một cách rộng khắp, toàn
diện, triệt để. Đây vừa là nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên, của mọi
ngành, mọi cấp, vừa là nhiệm vụ của quần chúng nhân dân, phải dựa vào nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Dân chủ là dựa vào lực lượng quần
chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào chống … quan liêu
ắt phải dựa vào quần chúng thì mới thành cơng.
Quần chúng tức là toàn thể chiến sĩ trong quân đội, toàn thề cơng nhân
trong xưởng, tồn thề nhân viên trong cơ quan, v.v., rồi đến toàn thể nhân dân.
Cũng như mọi việc khác, việc “chống” này phải động viên quần chúng, phải
thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng


24
hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành cơng. Quần chúng tham gia càng
đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng” [55, tr.495].
Thứ ba, đấu tranh chống quan liêu phải kết hợp giữa “xây” và “chống”.
Một mặt, chúng ta phải kiên quyết chống mọi biểu hiện của bệnh quan liêu,
mặt khác chúng ta phải khoan dung đối với những người nhận ra khuyết điểm,
thành khẩn sửa chữa, “chúng ta phải cứu vãn họ, giúp họ khôi phục đạo đức
cách mạng” [55, tr.494]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm:
“khơng ai hồn tồn tránh khỏi sai lầm, quyết tâm sửa chữa sẽ thành người
tốt” [60, tr.25].
Về nội dung, phương pháp đấu tranh chống quan liêu, Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ trong các tác phẩm của mình bao gồm hai vấn đề lớn: chống
chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng.
Chủ nghĩa cá nhân được Người coi là nguồn gốc của bệnh quan liêu, vì

vậy chống quan liêu chính là phải: “qt sạch chủ nghĩa cá nhân” [61, tr.439].
Mỗi cán bộ, đảng viên phải “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân
dân lên trên hết, trước hết” [61, tr.439]. Mỗi cán bộ, đảng viên phải “…có ý
thức làm chủ nhà nước, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “minh
vì mọi người, mọi người vì mình”” [59, tr.310]. Phải có tinh thần “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ” [59, tr.311].
Đạo đức cách mạng là chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu, cơng
thần, kiêu ngạo, hủ hóa, là “…vơ luận trong hồn cảnh nào,…cũng phải đặt
lợi ích của Đảng lên trên hết” [58, tr.289]. Là, “…hịa mình với quần chúng
thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng” [58, tr.290].
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về bệnh quan liêu
chiếm vị trí quan trọng trong tồn bộ di sản tư tưởng của người. Từ rất sớm,
Hồ Chí Minh đã coi chủ nghĩa quan liêu là “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hiểm.


25
Người đã sớm nhận thấy, bệnh quan liêu không chỉ làm thối hóa, biến chất
đội ngũ quan chức nhà nước và nó có thể làm mục ruỗng một nhà nước và
làm tiêu vong một chế độ xã hội.
Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về bệnh quan liêu.
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về cơng tác
phịng, chống bệnh quan liêu tham nhũng, lãng phí, trong mỗi gia đoạn
phát triển, cùng với việc đánh giá một cách khách quan về những kết quả
quan trọng đã đạt được trong qua trình xây dựng đất nước, Đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã chỉ ra một cách khái qt tình hình bệnh quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực, đồng thời xác định những giải
pháp, phòng, chống các tệ nạn này.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
… từ sau cách mạng Tháng tám, Đảng ta trở thành Đảng lãnh đạo

Nhà nước, thì trong một bộ phận đảng viên và cán bộ đã nãy ra bệnh
quan liêu và bệnh mệnh lệnh. Tệ giấy tờ cũng phát triển, nhất là từ
sau hịa bình lập lại. Quan liêu, mệnh lệnh, giấy tờ là những bệnh
nguy hiểm [4, tr.159-160].
Trước thực trạng về bệnh quan liêu và các hiện tượng tiêu cực trong
giai đoạn này, Nghị quyết của Đại hội III của Đảng nhấn mạnh “Nhà nước
dân chủ nhân dân phải đặc biệt chú ý tăng cường sự liên hệ với quần chúng
nhân dân, và ra sức khắc phục tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng” [4,
tr.190]. Đại hội cũng yêu cầu “tăng cường sự liên hệ giữa Đảng và quần
chúng. Cán bộ và đảng viên phải bồi dưỡng tác phong đi đường lối quần
chúng, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh” [4, tr.198]. Tiếp đến, ngày
14/7/1963, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết về cuộc vận động “nâng cao ý thức
trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, cải tiến kỹ thuật, chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu” gọi tắt là “ba xây, ba chống”.


×