Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

LUẬN VĂN: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.51 KB, 82 trang )













LUẬN VĂN:

Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở Long An










1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang mang lại
những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, đất nước ta
đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề và điều
kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,


hiện đại hóa, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng tạo nên
thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ này giữ vị
trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở là người chỉ đạo cuối cùng và trực
tiếp đối mặt và giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở.
Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Một trong những hạn chế
đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại
rất lớn trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Long An cũng không tránh khỏi căn bệnh này. Cùng những căn
bệnh khác, bệnh kinh nghiệm đang là trở lực đối với cán bộ, đảng viên Long An. Đặc biệt
là ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Nó đã làm cho hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ
này bị hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu " bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở Long An " là một vấn đề cần thiết. Làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện đặc trưng,
nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, để từ đó tìm
ra phương hướng và giải pháp từng bước khắc phục nó, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng và cấp bách đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung, Long An nói riêng.




2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu về bệnh kinh
nghiệm, thể hiện là có nhiều bài viết trên tạp chí, in trong sách. Nhiều tác giả đã đề cập ít
nhiều tới những biểu hiện, nguyên nhân, tác hại của bệnh kinh nghiệm ở nước ta cũng
như những phương hướng khắc phục. Có thể kể một số công trình có liên quan đến vấn
đề này như:
- Dương Phú Hiệp: Góp phần phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận

thức lý luận và sự yếu kém vận dụng các quy luật, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6/1987.
- Nguyễn Ngọc Long: Kinh nghiệm và lý luận, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
01/1984; và Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về
đổi mới tư duy lý luận", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1988.
- Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp
chí Triết học, số 2/1988.
- Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận, Tạp chí Thông tin lý
luận, số 6/1988 v.v
Tuy nhiên, đề cập tới bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở Long An nói riêng thì hầu như chưa có công
trình nào.
3. Giới hạn của luận văn
Luận văn chỉ nghiên cứu những biểu hiện đặc trưng, bản chất, nguyên nhân của
bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), gồm: Bí thư
Đảng ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân qua khảo sát thực tế ở Long An.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích

Trên cơ sở làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện, tác hại và nguyên nhân của bệnh kinh
nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An, đề xuất một số giải pháp chủ yếu
để từng bước khắc phục và ngăn ngừa căn bệnh này.
4.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu bản chất, những biểu hiện chủ yếu, tác hại cũng như nguyên nhân của
bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở trong quá trình đổi mới ở tỉnh Long
An.
- Trình bày một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh
kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý lý luận nhận thức mác
xít. Đồng thời, luận văn cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và
Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng và lý luận nhận thức, các văn kiện của tỉnh Đảng bộ Long
An, ủy ban nhân dân tỉnh Long An cũng như các báo cáo của một số Đảng bộ huyện
Long An.
- Luận văn kế thừa các tư tưởng khoa học của tác giả khác có liên quan đến đề
tài.
5.2. Về phương pháp
Trong luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp; phân tích - tổng hợp, lịch sử
- lôgíc, phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
6. Cái mới của luận văn
- Bước đầu khái quát một số nét đặc thù của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ
chốt cơ sở Long An. Qua đó vạch ra tác hại của căn bệnh này.

- Góp phần chỉ ra nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở Long An.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh
kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, giảng dạy những
vấn đề về lý luận nhận thức, về công tác xây dựng Đảng và công tác tư tưởng hiện nay ở
các Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng lý luận chính trị huyện v.v
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 6 tiết.


Chương 1

Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở long an - bản chất,
biểu hiện và nguyên nhân

1.1. Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm
1.1.1. Bản chất của bệnh kinh nghiệm
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức về hiện thực
khách quan trong bộ óc con người. Nhờ có nhận thức, con người mới có tri thức về thế
giới. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức thế giới bởi con người. Nhận thức không
phải là một hành động nhất thời, giản đơn, máy móc, thụ động mà là một quá trình biện
chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức
đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Kết quả
của quá trình đó đem lại cho con người những tri thức ở những trình độ khác nhau - kinh
nghiệm và lý luận. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai trình độ khác nhau của
nhận thức nhưng thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau.
Để nhận thức và cải tạo thế giới có hiệu quả, con người cần phải có cả kinh
nghiệm và lý luận. Kinh nghiệm có vai trò to lớn, không thể thiếu được trong cuộc sống
hàng ngày của con người và nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - một sự
nghiệp rất mới mẻ và vô cùng khó khăn, phức tạp. ở đây không thể tìm câu giải đáp cho
mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra, từ trong sách vở hay bằng suy diễn thuần túy,
hoặc từ lý luận có sẵn. Chính kinh nghiệm đông đảo của quần chúng nhân dân trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ đem lại cho chúng ta những bài học quý báu. Kinh nghiệm là cơ
sở để chúng ta khái quát, bổ sung phát triển lý luận đã có. Không có kinh nghiệm thì
không có lý luận, không có khoa học. Mọi tri thức của chúng ta hoặc trực tiếp, hoặc gián
tiếp đều nảy sinh từ kinh nghiệm thực tiễn. Song nếu tuyệt đối hóa vai trò của kinh

nghiệm, coi kinh nghiệm là tuyệt đối, "là chìa khóa vạn năng" cho phương pháp tư duy
cũng như trong cải tạo thực tiễn thì sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm. Trong Đại từ điển Tiếng

việt, khái niệm "kinh nghiệm" được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho
cuộc sống có được nhờ sự tiếp xúc; từng trải thực tế [7, tr. 948]. Điều này cũng có nghĩa,
kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan, cho nên xét về mặt
nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, thế giới khách quan là tính thứ nhất. Tức là
nội dung mà kinh nghiệm phản ánh thuộc thế giới khách quan. Kinh nghiệm chỉ có ở con
người, nhưng nội dung của kinh nghiệm lại không phụ thuộc vào con người mà chỉ phụ
thuộc vào sự vật khách quan được kinh nghiệm đó phản ánh. Tuy nhiên, kinh nghiệm
không phải là sự thể hiện nội dung thụ động của nhận thức bởi con người mà là kết quả
của sự tác động tích cực của con người đối với thế giới khách quan.
Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử cụ thể. Kinh
nghiệm là cái riêng nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử
nhất định. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đã có. Thế hệ sau,
khi kế thừa những kinh nghiệm đó, thông qua hoạt động thực tiễn sẽ làm đầy đủ, chính
xác thêm những kinh nghiệm cũ bằng hàng loạt những tư liệu mới và làm giàu thêm kho
tàng kinh nghiệm quý báu ấy bằng những kinh nghiệm mới. Tất nhiên, kho tàng tri thức
của nhân loại không chỉ có những tri thức kinh nghiệm mà còn có tri thức lý luận. Kinh
nghiệm xét về bản chất có những đặc trưng sau:
- Kinh nghiệm là một dạng tri thức được thu nhận và tích lũy qua hoạt động thực
tiễn của con người còn mang tính trực quan cảm tính. Trong quá trình tác động giữa con
người với thế giới hiện thực, con người trực tiếp thu nhận, tích lũy và hình thành những
tri thức nhất định về thế giới. Những tri thức này bước đầu phản ánh một số thuộc tính
bên ngoài của đối tượng. Những tri thức này được củng cố cùng với những kỹ năng hoạt
động của con người . Đó là kinh nghiệm. Như vậy, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản
ánh hiện thực khách quan. Kinh nghiệm là một dạng tri thức có tính chất trực quan cảm
tính, nhưng không được đồng nhất kinh nghiệm với nhận thức cảm tính. Hơn nữa, việc
tách nhận thức thành hai hình thức cảm tính và lý tính chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt

nhận thức luận. Thực tế cho thấy, không có một kết quả của một quá trình nhận thức nào
lại không là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận

thức lý tính. Tính chất cảm tính của kinh nghiệm nói lên tính chất, trình độ phản ánh của
kinh nghiệm. Kinh nghiệm phản ánh chủ yếu dựa vào quan sát trực quan, vào những hoạt
động có tính chất thực nghiệm và vào những quá trình trao đổi thông tin mang tính trực
tiếp giữa con người với thế giới và giữa con người với con người. Vả lại, kinh nghiệm
cũng đạt tới trình độ khái quát, trừu tượng hóa nhất định (tức là đã có sự tham gia của lý
tính) chứ không phải chỉ dừng lại ở những tập hợp tri giác, biểu tượng của quá trình nhận
thức cảm tính. Lênin đã chỉ ra rằng: Dòng kinh nghiệm nằm ở cơ sở nhận thức của chúng
ta, là không có lý tính, không có trật tự, không có tất cả cái gì phù hợp với quy luật là
quan điểm duy tâm chủ nghĩa [39, tr. 199]. Do đó, chỉ có thể xét tính chất cảm tính của
kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ, mới phản
ánh được những thuộc tính bên ngoài nhất định của sự vật, hiện tượng. Ph. Ăngghen đã
cho rằng, kinh nghiệm ban đầu cũng còn nông cạn, chưa sâu sắc, chưa chính xác, chưa
phản ánh được tính tất nhiên. Là kết quả của quá trình phản ánh thế giới hiện thực của
con người, kinh nghiệm có ưu thế ở chỗ là nó phản ánh sinh động, trực tiếp sự vật, hiện
tượng. Nguồn gốc và nội dung phản ánh của kinh nghiệm thuộc về hiện thực, về đời sống
thực tiễn hàng ngày của con người. Đây cũng chính là chỗ khác nhau căn bản giữa kinh
nghiệm với sự tư biện suy luận thuần túy mang tính chủ quan. Bởi vậy, trong quá trình
phản ánh thế giới khách quan của con người, kinh nghiệm luôn là yếu tố không thể thiếu
được. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, với tính chất phản ánh đó, tác dụng của kinh
nghiệm là rất có hạn, giá trị của sự khái quát chưa sâu sắc. Nói cách khác, kinh nghiệm
chỉ phản ánh thích hợp cho những không gian, thời gian nhất định cụ thể mà thôi, và
trong những điều kiện, những tình huống mới xuất hiện thì kinh nghiệm đó dễ trở nên bất
cập. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Kinh nghiệm là tốt, là quý báu song kinh nghiệm có
hạn chế của nó, chẳng qua chỉ là từng bộ phận chỉ thiên lệch về một phía mà thôi. Nếu đã
có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều " [48, tr. 324]. Là
một trạng thái phản ánh của ý thức, trong quá trình tác động tới đối tượng, kinh nghiệm
không thể tiếp cận tới cái phổ biến, cái bản chất sâu sắc bên trong của đối tượng. Dựa vào

kinh nghiệm, con người có thể nhận thức được cái riêng từ những đối tượng cảm tính
trực tiếp. Trong cái riêng, kinh nghiệm phản ánh một cách sinh động, phong phú hơn.

Mặc dù vậy, kinh nghiệm không thể phản ánh được toàn bộ cái riêng trong sự tồn tại tất
yếu của nó. Kinh nghiệm bao giờ cũng mang tính riêng của một cá thể, nhóm, một giai
cấp, một dân tộc, một khu vực, trong một hoàn cảnh, một thời gian nhất định. Hơn nữa,
kinh nghiệm luôn là kinh nghiệm về cái đã qua, vì thế, kinh nghiệm không thể trở thành
khuôn mẫu để áp dụng một cách máy móc cho các đối tượng khác nhau trong những
không gian và thời gian khác nhau. Trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi việc tiếp thu kinh
nghiệm, vận dụng kinh nghiệm phải biết chọn lọc, sáng tạo trên nguyên tắc kế thừa và có
quan điểm lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm không thể nhận thức được cái chung trong bản
thân một sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào đó. Cái chung chỉ được biểu hiện trong và qua
những kinh nghiệm với tính cách là sự phản ánh lặp đi lặp lại trên những lớp đối tượng
sự vật, hiện tượng không đồng nhất. Bởi vậy, trong quá trình phản ánh cái chung, kinh
nghiệm tỏ rõ sự kém sâu sắc. Đúng như Mác-Ăngghen đã viết, Đến một trình độ phát
triển nhất định, khi các nhu cầu của con người và các dạng vận động nhiều, thỏa mãn nhu
cầu đã tăng lên và phát triển hơn, con người đặt những tên gọi riêng biệt cho hàng loạt
các đối tượng mà con người đã nhờ kinh nghiệm mà phân biệt nó với thế giới bên ngoài
còn lại Những tên gọi bằng lời như vậy, chỉ biểu hiện dưới dạng biểu tượng, cái mà hoạt
động lặp đi lặp lại đã biến thành kinh nghiệm [57, tr. 239].
- Kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người.
Như ta đã biết, nhận thức là quá trình hình thành, phát triển của những trình độ phản ánh
khác nhau và liên hệ hữu cơ với nhau. Đó là nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính,
nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ phản
ánh có vị trí và vai trò khác nhau nhưng chúng nương tựa, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau
trong quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm cung cấp những thông
tin, tri thức ban đầu về sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm thường không tách rời những
hoạt động có tính vật chất, cụ thể, những quan sát trực quan và những trao đổi thông tin
trực tiếp giữa các chủ thể về đối tượng. Cho nên, trong nhận thức vai trò của kinh nghiệm
là hết sức to lớn. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm thể hiện không những là một

trình độ phản ánh mà còn là phương pháp cho quá trình phản ánh. Khi đề cập tới kinh
nghiệm ta không nên dừng lại ở dạng kinh nghiệm thông thường, những kinh nghiệm thu

nhận được do quan sát trực tiếp trong cuộc sống, lao động, sản xuất, mà còn phải thấy
những kinh nghiệm khoa học - những kinh nghiệm thu nhận được qua thực nghiệm khoa
học. Những kinh nghiệm này là công cụ sắc bén thúc đẩy nhận thức lên một trình độ cao
hơn trong quá trình tiếp cận chân lý như Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong kinh nghiệm, cái
quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại
thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng trong sự vận
động muôn vẻ của các hiện tượng" [46, tr. 687].
- Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu vô cùng quan trọng của quá
trình nhận thức. Kinh nghiệm càng phong phú thì càng tạo ra nhiều dữ kiện, tài liệu cho
khái quát lý luận. Không có kinh nghiệm, khoa học không thể phát triển được, khoa học
đã và sẽ luôn luôn gắn liền với kinh nghiệm. Thực tế lịch sử đã chứng minh, khoa học đã
trở thành khoa học là bởi lẽ nó được phát triển từ kinh nghiệm và khắc phục những mặt
hạn chế của kinh nghiệm. Tiến bộ khoa học ngày nay cũng không thể có được nếu thiếu
các ngành khoa học có tính chất thực nghiệm. Khoa học hiện đại biết tới hàng tỷ dạng vật
chất trong tự nhiên, hầu hết chúng đều được phát hiện ra bằng con đường thực nghiệm
khoa học. Trong quá trình nhận thức và phát triển tư duy của nhân loại, kinh nghiệm có
vai trò cực kỳ to lớn. Nếu thiếu kinh nghiệm thì không có lý luận, lý luận xét ở góc độ
nhất định chính là kết quả của sự tổng kết khái quát kinh nghiệm. Nếu lý luận tách khỏi
kinh nghiệm, không xuất phát từ kinh nghiệm nói chung thì lý luận đó sẽ rất có thể sẽ là
một sự tưởng tượng hoang đường, hoặc là một sản phẩm thuần túy của ý thích chủ quan
mà thôi. Tất nhiên, không phải mọi lý luận đều được ra đời trực tiếp từ kinh nghiệm. Do
tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy
nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận và kinh nghiệm. Kinh
nghiệm xét đến cùng vẫn là cơ sở để chúng ta kiểm tra, sửa đổi, bổ sung phát triển lý luận
đã có và tổng kết khái quát thành lý luận mới. Lênin đã chỉ rõ: "Muốn hiểu biết thì phải
bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung" [41,
tr. 220]. Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết những kinh

nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử" [49, tr. 497]. Kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả của

hoạt động nhận thức của con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt động
thực tiễn. Chúng đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng khác nhau về trình độ, tính
chất phản ánh hiện thực. Con đường phát triển từ kinh nghiệm lên lý luận cũng chính là
con đường đi từ cái đơn nhất đến cái phổ biến, từ cái phổ biến ít đến cái phổ biến hơn, từ
bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Đó cũng chính là quá trình tổng kết, khái
quát kinh nghiệm nhằm gạt bỏ cái ngẫu nhiên, cái bề ngoài, cái chưa phải là bản chất để
tiến đến cái bản chất, cái quy luật vận động của sự vật. Quá trình đó chính là quá trình
con người hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Lý luận chỉ có ý
nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn và bản thân nó có
đạt được sự phản ánh đúng đắn chân lý khách quan, phải được kiểm nghiệm qua thực
tiễn. Chỉ có thực tiễn mới là cơ sở, là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tri thức. Hiểu biết của con
người cũng vì vậy, nếu không có kiểm nghiệm hoặc kiểm nghiệm chưa đạt tới trình độ
nhất định về phạm vi cũng như mức độ phản ánh thì cũng không có đủ cơ sở cho ra đời
một lý luận khoa học thật sự. Kinh nghiệm và lý luận tuy là hai trình độ khác nhau của
nhận thức nhưng chúng lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm là cơ sở là tiền đề cho lý luận,
lý luận luôn định hướng cho hoạt động thực tiễn và thực tiễn đến lượt mình lại cung cấp
cho lý luận hàng loạt những kinh nghiệm mới. Chỉ có thể lấy mặt mạnh của lý luận để
khắc phục tính hạn chế vốn có của kinh nghiệm và lấy mặt mạnh của kinh nghiệm để
khắc phục khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng của lý luận. Có như vậy mới
làm cho lý luận ngày càng hoàn hảo, chính xác, kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa
dạng.
Tuy nhiên, kinh nghiệm dù có vai trò quan trọng đến đâu thì nó cũng chỉ mới
đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn
rời rạc, chưa thể nắm được cái tất yếu, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng.
Do đó "sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được
đầy đủ tính tất yếu" [46, tr. 718]. Kinh nghiệm có chứa đựng nội dung khách quan trong

quá trình phản ánh đối tượng, song trong sự phản ánh, chủ thể kinh nghiệm giữ vai trò
đặc biệt quan trọng cho việc xác định ý nghĩa của nó đối với toàn bộ quá trình phản ánh.

Do đó có thể nói, ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của kinh nghiệm còn tùy thuộc vào quan
niệm và cách xử lý của chủ thể đối với kinh nghiệm. Vả lại, kinh nghiệm có tính chất trực
quan dễ nhận biết và có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con
người nên chúng dễ bị con người tuyệt đối hóa. Những người cường điệu hoặc tuyệt đối
hóa kinh nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra là những người
mắc bệnh kinh nghiệm.
Trong triết học, bệnh kinh nghiệm được hiểu là khuynh hướng tư tưởng và hành
động tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là duy nhất. Biểu hiện của người mắc
bệnh kinh nghiệm là đề cao thái quá kinh nghiệm, coi thường lý luận, tri thức khoa học.
Vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc dẫn đến
áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sai lầm của người
mắc bệnh kinh nghiệm còn thể hiện ở chỗ họ nhân danh đề cao thực tiễn để hạ thấp lý
luận, nhưng thực tiễn mà họ đề cao là thực tiễn được hiểu bằng vô số các sự kiện riêng lẻ
trong đời thường. Hơn nữa, họ nắm thực tiễn chỉ ở những biểu hiện vụn vặt, bề ngoài.
Trong khi đó, họ nắm lý luận một cách chấp vá và thiếu hệ thống nên họ càng hạ thấp lý
luận. Một sai lầm nữa của người mắc bệnh kinh nghiệm về phương diện nhận thức luận
và phương pháp luận là ở chỗ, họ không nắm được thực chất mối quan hệ biện chứng
giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, giữa lý luận và thực tiễn. Họ chỉ biết xem
xét sự thật một cách giản đơn máy móc. Lênin đã chỉ rõ: "Nếu xét các sự thật trong chỉnh
thể của chúng trong mối liên hệ của chúng thì sự thật không những bao giờ cũng "bướng
bỉnh", mà còn là những chứng cứ chắc chắn chứng minh được. Nếu xét sự việc nhỏ đó
không trong chỉnh thể của chúng không trong mối liên hệ của chúng, nếu chúng bị tách
rời nhau và bị lựa chọn tùy tiện thì chúng thật đúng chỉ là những trò chơi hay là một thứ
tệ hơn nữa [38, tr. 436]. Những người mắc bệnh kinh nghiệm thường lấy sự từng trải của
bản thân, kinh nghiệm của bản thân làm tiêu chí duy nhất cho nhận thức và hành động.
Họ không hiểu được rằng, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ có ý nghĩa hẹp, cục
bộ, chứ không mang tính phổ biến tất yếu. Những kinh nghiệm đó chỉ là sự khái quát từ

một thực tiễn, một hoàn cảnh cụ thể riêng biệt, và trong nhiều trường hợp chúng chỉ mới
phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên.

Trong thực tế cụ thể, sự việc diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không thể (và
bất cứ ai cũng không thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo hơn và phức tạp
hơn nhiều. Vì vậy, người mắc bệnh kinh nghiệm sẽ bế tắc, mất phương hướng khi số
lượng tri thức kinh nghiệm tăng lên. Khi đó, họ sẽ bị chìm ngập trong đống hỗn độn các
kinh nghiệm. Từ đây, họ rất dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí bắt hiện thực khuôn
theo kinh nghiệm của bản thân và rơi vào trạng thái cực đoan đối lập, từ chỗ tin vào
những kinh nghiệm cảm tính tới chỗ chẳng tin vào cái gì cả vì những cái cực đoan
thường hay gặp nhau. Ăngghen cũng đã từng chỉ ra rằng: "ở đây người ta thấy hai năm rõ
mười rằng con đường chắc chắn nhất từ khoa học tự nhiên tới chủ nghĩa thần bí là con
đường nào. Đó không phải là sự phát triển dồn dập về lý luận của các nhà triết học tự
nhiên, mà là chủ nghĩa kinh nghiệm nông cạn nhất, khinh thường mọi lý luận, không tin
vào mọi tư duy" [46, tr. 507]. Lênin cũng đã chỉ ra rằng, trước những phát minh mới của
khoa học đặc biệt là vật lý học và do không vượt được giới hạn của tri thức kinh nghiệm
đã có các nhà khoa học trượt dài sang chủ nghĩa duy tâm. Chẳng hạn như Poanh - Carê
do không hiểu phép biện chứng của quá trình nhận thức từ hiện tượng đến bản chất và từ
bản chất cấp một đến bản chất sâu hơn đã cho rằng, phát minh ra Radium đã lật đổ
nguyên lý bảo toàn năng lượng cũng như hầu hết tất cả những nguyên lý cũ khác của vật
lý học. Từ đó, ông đưa ra kết luận duy tâm về mặt nhận thức luận như sau: Không phải
giới tự nhiên đem lại cho chúng ta (hay ép buộc chúng ta phải nhận) những khái niệm về
không gian và thời gian, mà chính chúng ta đem những khái niệm ấy lại cho giới tự
nhiên, phàm cái gì không phải là tư tưởng đều là hư vô thuần túy [39, tr. 312].
Như vậy, bệnh kinh nghiệm có tác hại vô cùng to lớn đối với quá trình nhận thức
chân lý. Nó gây ra tâm lý ngại học tập và bảo thủ trong tổ chức hoạt động thực tiễn của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nó góp phần củng cố tâm lý đề cao già làng, trưởng bản
thái quá, cũng như tâm lý coi thường lớp trẻ. Nó cũng làm cho người ta không hiểu đúng
vai trò của đội ngũ trí thức, của lý luận.

Để hiểu rõ bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung ở
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng, chúng ta cần xác định và phân biệt
rõ hơn khái niệm "bệnh kinh nghiệm và khái niệm" chủ nghĩa kinh nghiệm". Theo chúng

tôi, xét về bản chất hai khái niệm này vẫn được sử dụng như nhau, song giữa chúng có sự
khác biệt. Khi ta dùng khái niệm "chủ nghĩa kinh nghiệm là muốn đề cặp đến một
khuynh hướng trong lý luận nhận thức cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc của tri thức,
coi nội dung của tri thức chỉ là sự mô tả kinh nghiệm đó. Khi chúng ta dùng khái niệm
"bệnh kinh nghiệm" là muốn đề cặp đến những sai lầm trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn do con người đã tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, hạ thấp vai trò
lý luận. Khái niệm "bệnh" ở đây cần được hiểu như một "trạng thái" tư tưởng không lành
mạnh, biểu hiện bằng những chủ trương, thái độ không đúng đắn [69, tr. 71].
Với bệnh kinh nghiệm, trong hoạt động thực tiễn, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở rơi
vào tình trạng mò mẫm, sự vụ tùy tiện trong việc thực thi các, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, trì trệ bởi phương pháp hành động cũ mang tính kinh
nghiệm. Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An ngoài những biểu hiện
chung còn có những nét đặc thù riêng.
1.1.2. Những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở Long An
1.1.2.1. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở và tăng cường xây dựng, củng cố bồi dưỡng đội ngũ này. Về lý luận cũng như
thực tiễn đều khẳng định, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương
mới mạnh, quốc gia mới mạnh. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc lãnh đạo, quản lý các mặt kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng của địa phương. Cấp cơ sở là nơi thực thi mọi nhiệm vụ chính trị trong từng thời
kỳ, nơi biến đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước và cấp trên thành hiện thực.
Đồng thời, đây cũng là nơi kiểm nghiệm, phản ánh, cung cấp một cách khách quan những

căn cứ cho việc bổ xung hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiệu
quả của đường lối, chính sách được thể hiện một cách sinh động cũng tại đây. Trong quá
trình đổi mới những năm qua và trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn hiện nay, đội ngũ cán bộ đảng viên dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cán

bộ chủ chốt cấp xã, thật sự là nhân vật trung tâm đóng vai trò quan trọng tác động lớn đến
xu hướng và nhịp độ phát triển của phong trào ở cơ sở. Quần chúng nhân dân ở cơ sở chỉ
phát huy được sức mạnh của mình khi có sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là thông qua đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những
người lĩnh hội các chủ trương, đường lối, chỉ thị, Nghị quyết từ cấp trên để triển khai, vận
dụng trong thực tế trên địa bàn ấp, xã do mình phụ trách. Họ đã cùng Đảng bộ cơ sở xây
dựng những chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp với địa phương mình. Chính đội ngũ
này trực tiếp chỉ đạo và tham gia tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách đó, đồng thời
kiểm tra, uốn nắn khuynh hướng lệch lạc trong tổ chức thực hiện.
Những công việc của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là hết sức cụ thể. Họ là người
trực tiếp nhận và xử lý những yêu cầu của dân. Họ phải giải quyết những công việc như
xác nhận hồ sơ, lý lịch, ký tên, đóng dấu, chăm lo mọi mặt về đời sống kinh tế văn hóa, y
tế, giáo dục, quan tâm tới các gia đình chính sách, chống các tệ nạn xã hội v.v Có một
điểm đặc thù là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khi giải quyết những công việc lớn nhỏ, họ vừa
phải thực hiện với trách nhiệm của một cán bộ lãnh đạo lại vừa là một công dân bình
thường đang sống trong cùng làng, xóm với nhiều mối quan hệ cụ thể. Vì thế, trong cách
làm của họ luôn phải thấu lý, đạt tình. Tất cả những chủ trương, chính sách từ Trung
ương đến Tỉnh, huyện và cuối cùng là xã có đến được dân hay không, có trở thành hiện
thực sống động hay không đều nhờ vào tài trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Để
hoàn thành nhiệm vụ, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng phấn đấu học
tập, rèn luyện, tiếp thu những tri thức mới đồng thời gạt bỏ những tư tưởng, tâm lý lạc
hậu, những lối suy nghĩ giản đơn, kinh nghiệm, giáo điều v.v Cũng như những cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trong cả nước nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An
nói riêng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình đang phải vượt qua nhiều trở lực
khó khăn. Một trong những trở lực đó là bệnh kinh nghiệm.

1.1.2.2. Những biểu hiện đặc thù chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An
- Biểu hiện đầu tiên của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Long An là do họ đã tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thông thường của cá nhân họ.

Vùng đất Long An mới được khai phá khoảng trên 300 năm lại được thiên nhiên ưu đãi,
cộng với tình trạng ấp, xã mới, không nằm giữa lũy tre xanh bao bọc như ở đồng bằng
sông Hồng; do điều kiện tự nhiên như vậy, người dân Long An cấu kết với nhau không
bền vững như người dân ở Bắc Bộ và Trung Bộ vì họ sống theo bờ kênh, rạch đằng trước
là thuyền qua lại, xung quanh là vườn cây ăn trái, đằng sau là ruộng vườn. Do đó, những
tri thức kinh nghiệm này chủ yếu dựa vào sự quan sát của bản thân cá nhân là chủ yếu, và
phạm vi áp dụng là rất hạn chế. Trong khi đó, bệnh kinh nghiệm ở Bắc Bộ và Trung Bộ
thường dựa trên cơ sở tuyệt đối hóa kinh nghiệm của cộng đồng làng, xã và được tích lũy từ
nhiều thế hệ nối tiếp nhau, từ đời nọ sang đời kia. Như vậy, nếu bệnh kinh nghiệm ở cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã mang tính "cộng đồng", "xã hội" nhất định
thì bệnh kinh nghiệm ở cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An mang tính cá nhân nhiều hơn,
phạm vi áp dụng hẹp hơn.
- Biểu hiện thứ hai là bệnh kinh nghiệm ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung
ở cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng chịu sự tác động nhiều của bệnh chủ quan
duy ý chí của bản thân người cán bộ chủ chốt. Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm,
trong đó chủ thể vừa mắc phải bệnh chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Bệnh
chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong nhận thức và
hành động. Phủ nhận hoàn toàn hay một phần nào bản chất và tính quy luật của hiện thực
khách quan. Bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống
cho nhiều căn bệnh trong nhận thức, trong đó có bệnh kinh nghiệm. Thực tế cho thấy,
trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thường có sự
can thiệp và áp đặt theo ý muốn chủ quan cũng như kinh nghiệm của bản thân cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở. Hơn nữa, bệnh kinh nghiệm và bệnh chủ quan duy ý chí có chung nguồn
gốc là tình trạng yếu kém về trình độ văn hóa và không hiểu vai trò của lý luận. Có thể
nói rằng, bệnh chủ quan duy ý chí ở Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung và ở Long An

nói riêng không phải là chủ quan duy ý chí dựa trên thế giới quan duy tâm chủ nghĩa mà
là dựa trên cơ sở tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm thông thường của cá nhân là chủ
yếu. Nếu bệnh chủ quan duy ý chí ở Bắc Bộ và Trung Bộ trước đây thường gắn liền với
nhiệt tình cách mạng thái quá thì bệnh chủ quan duy ý chí ở Nam Bộ lại gắn liền với tâm

lý "liều lĩnh" "tùy tiện" "tự do cá nhân" của các cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Một người cứ
bám chặt lấy kinh nghiệm của bản thân áp đặt cho thực tiễn thì cũng không khác gì người
đem ý muốn chủ quan của mình, áp đặt cho thực tiễn không tính đến hoàn cảnh điều kiện
lịch sử cụ thể. Thực tế ở Long An vừa qua cũng chỉ rõ điều này. Khi nền kinh tế của đất
nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hoạt động sản xuất, dịch vụ chịu sự điều
tiết của các quy luật thị trường như việc sản xuất lúa, đay, mía, khoai, sắn v.v ở Long
An vẫn cứ được làm theo kinh nghiệm, theo ý thích riêng của một số cán bộ chủ chốt ở
cơ sở. Do đó, việc hàng hóa không đáp ứng được yêu cầu của thị trường dẫn đến hiện
tượng thừa lúa, thừa khoai, thừa mía. Nhưng lại thiếu lúa, khoai, mía với chất lượng cao
đáp ứng đòi hỏi của thị trường, dẫn đến sự thua thiệt của người sản xuất. Cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở không dựa vào kiến thức kinh tế, kiến thức khoa học để lãnh đạo, chỉ đạo
hướng dẫn người dân tiến hành sản xuất mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân và sự
cảm nhận của bản thân để đề ra các kế hoạch sản xuất trên địa bàn mình phụ trách. Khi thị
trường không cần những hàng hóa đó thì tỏ ra lúng túng và thiếu sự quan tâm đến người
sản xuất.
- Biểu hiện thứ ba là bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long
An gắn chặt với bệnh giáo điều chủ nghĩa. Hai căn bệnh này có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau vì chúng có chung nhiều nguồn gốc. Chẳng hạn như, sự yếu kém về trình độ văn
hóa, khoa học, ý thức sai lầm về vai trò lý luận, sự lười biếng học tập của cán bộ v.v Có
thể nói đặc trưng chủ yếu của bệnh giáo điều ở Long An là giáo điều kinh nghiệm, là áp
dụng kinh nghiệm của địa phương khác vào địa phương mình bất chấp điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể chứ ít có giáo điều lý luận kiểu sách vở, "tầm chương trích cú" như
ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Lênin đã chỉ rõ: " Nếu chỉ vì bắt chước, không có tinh thần phê
phán mà đem dập khuôn kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác
vào một hoàn cảnh khác, như thế là phạm sai lầm nghiêm trọng nhất" [36, tr. 22]. Khi

sinh thời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Muốn bớt mò mẫm, muốn bớt phạm sai lầm thì
chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và vận dụng kinh nghiệm ấy một
cách sáng tạo" [49, tr. 494]. "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi
học tập kinh nghiệm các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo

điều" [49, tr. 499].
Trong hoạt động thực tiễn, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An thường dựa vào
kinh nghiệm là chủ yếu, trong việc tiếp thu áp dụng kinh nghiệm nhiều khi thiếu phân
tích, chọn lọc để vận dụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của địa
phương. Giáo điều kinh nghiệm là một trong những yếu kém của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở Long An. Thực tiễn đã chứng minh, vùng đất Long An chủ yếu là vùng ngập
lũ, 2/3 diện tích bị ngập lũ với điều kiện sinh thái nước ngọt và bị phèn thì rất thích hợp
cho việc trồng cây tràm để phục vụ cho môi trường sinh thái, ngăn được lũ và phục vụ
cho các công trình xây dựng có giá trị cao. Một hecta trồng tràm sau 5 năm có thể thu lãi
từ 30 - 50 triệu. Nhưng do chưa nhận thức đầy đủ, do dựa vào kinh nghiệm bản thân là
chủ yếu và áp dụng kinh nghiệm của một số tỉnh khác một cách máy móc, lãnh đạo chủ
chốt một số xã ở Long An đã chủ trương chuyển từ đất trồng tràm sang đất trồng lúa
nước. Hàng chục ngàn hecta trồng tràm bị tàn phá, dẫn đến ảnh hưởng môi trường sinh
thái. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế của trồng lúa không cao bằng trồng tràm. Điều này đã làm
cho sản xuất gặp rất nhiều khó khăn, đời sống của bà con lao động bị ảnh hưởng nghiêm
trọng.
- Biểu hiện thứ tư là bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long
An chịu ảnh hưởng của tâm lý nông dân gia trưởng tự do, tâm lý "liều lĩnh" "phiêu lưu"
dám làm miễn là có lợi. Do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long
An phổ biến xuất thân từ trung nông có điền sản lớn. Do đó, họ có vị thế trong sản xuất
và trong xã hội. Họ có điều kiện kinh tế và điều kiện phát triển kinh tế gia đình. ở họ
đã hình thành tính tự do tự phát, thói quen tin vào kinh nghiệm của bản thân. Khi sản
xuất có thất bại họ không lo chết đói. Vì vậy họ hay "liều lĩnh" phiêu lưu, muốn là làm.
Tâm lý này gắn kết rất chặt với bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Long An. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Long An cũng chưa thật tốt đã làm cho

bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An ít nhiều mang sắc thái
gia trưởng. Nhưng so với miền Bắc và miền Trung thì nó không nặng nề bằng. Đối với
Long An thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở những huyện vùng Đồng Tháp Mười
mắc bệnh kinh nghiệm nặng hơn so với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở thị xã, các huyện gần

thị xã Tân An.
Trên đây là những biểu hiện đặc thù chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Vậy bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở Long An hiện nay có biểu hiện cụ thể gì?
Về nhận thức, bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là
đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học. Trước đây
Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Sự khinh thường lý luận là con đường chắc chắn nhất đưa
chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy nghĩ sai" [46, tr. 508].
Nhưng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Long An chưa thấy hết hậu quả đó.
Nhiều cán bộ chủ chốt cấp xã, nhất là những người đã có tuổi, đã trải qua nhiều năm công
tác, có kinh nghiệm xử lý các công việc cụ thể thường mắc rất nặng căn bệnh này và
không thấy hết hậu quả của nó. Trong tác phẩm "sửa đổi lề lối làm việc" khi đề cập tới
tình trạng này, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Có những cán bộ đảng viên cũ làm được việc, có kinh
nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ mắc phải cái bệnh
khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công
việc tốt hơn nhiều" [48, tr. 234]. Thực tế ở Long An cho thấy mặc dù, được trang bị lý
luận Mác-Lênin đặc biệt là phép biện chứng duy vật nhưng hầu hết cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở đều xử lý công việc theo thói quen kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu. Cho
nên, họ đề cao sự từng trải trong cuộc đời, trong công tác. Trong chính sách đất đai, xây
dựng kết cấu hạ tầng v.v ở Long An là một điểm nóng của khiếu nại, khiếu tố. Có điều
này, một phần là do cách giải quyết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở còn mang
nặng thói quen tùy tiện theo kinh nghiệm.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An thường có lối suy nghĩ sơ lược, áng
chừng đại khái, thiếu tính hệ thống. Điều này để lại dấu ấn rất rõ trong các Nghị quyết, kế

hoạch, chương trình hành động của Đảng ủy và ủy ban nhân dân cấp xã. Chẳng hạn về vấn
đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở đều hiểu chỉ là sự trang bị máy móc cơ giới với quy mô to lớn. Do đó, các nghị quyết
đưa ra chưa đi vào cuộc sống được.
Do tuyệt đối hóa kinh nghiệm, tầm nhìn của cán bộ cơ sở Long An bị hạn chế bởi

chính những kinh nghiệm đó. Do đó, trong chỉ đạo và hoạt động thực tiễn, họ thiếu dự
kiến, chỉ thấy việc trước mắt, không thấy việc lâu dài, thấy cục bộ, bộ phận mà không
thấy tổng thể, thấy cái riêng mà không thấy cái chung, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của
cấp trên một cách máy móc. Khi đã tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm thì cũng có
nghĩa là bảo thủ, thích "ổn định" ngại thay đổi, có tâm lý ăn non, ăn chắc. Mác đã từng
nói, người tiểu nông thù nghịch với sự thay đổi, nhất là những thay đổi đột ngột. Những
yếu tố này lại được bồi đắp, củng cố trong một thời gian dài bởi cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp - cơ chế tạo cho con người thói quen ỷ lại, mọi cái đều trông chờ vào
cấp trên. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, vẫn là một địa
bàn của xã ấy, vẫn những con người ấy vẫn nghề thủ công ấy, nhưng yêu cầu sản xuất
của năm sau khác năm trước, vấn đề cụ thể xảy ra ngày hôm nay khác ngày hôm qua.
Nhưng một số cán bộ cơ sở trong việc xử lý những vấn đề mới nảy sinh vẫn dùng phương
pháp cũ. Cách nghĩ và cách làm cũ không còn thích hợp. Thậm chí một số cán bộ chủ
chốt cấp xã, khi chuẩn bị nội dung hội nghị còn sao chép lại nghị quyết của cấp trên hoặc
của nhiệm kỳ trước. Qua khảo sát thực tế ở Long An cho thấy, nhìn chung đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở còn mang nặng bệnh kinh nghiệm, thiếu khả năng khái quát, phân
tích. Đặc biệt là ở vùng sâu như Đồng Tháp Mười, các xã vùng hạ ở các huyện phía Nam
(Cần Đước, Cần Giuộc). Nhiều Bí thư, Chủ tịch đã mạnh dạn đề xuất việc tổ chức những
đợt đi tham quan thực tế ở các địa phương khác để học hỏi. Nhưng bên cạnh đó cũng còn
nhiều cán bộ ở một số xã vẫn yên phận không dám mạnh dạn tìm phương thức mới cho
sản xuất ở địa phương mình. Trong tổ chức hoạt động thực tiễn thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thường là nặng về kinh nghiệm theo thói
quen, thụ động và mang tính tình huống cụ thể nghĩ thế nào làm thế đấy chứ chưa chủ
động tìm kiếm những hình thức tổ chức thực tiễn linh hoạt. Vì thế, chưa phát huy được

sức mạnh tổng hợp để nhằm giải quyết có hiệu quả những mục tiêu trọng tâm tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó hiện nay, Long An vẫn còn lúng túng chưa
giải quyết được chuyện cây con, chuyện đê bao chống lũ và định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Vì vậy đời sống nhân dân rất thấp. Theo thống kê khu vực Đồng bằng Sông
Cửu Long, thì Long An là một tỉnh có thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 11/12 tỉnh.

Đến năm 2000 thu nhập bình quân ở Long An mới đạt (330 USD/người/năm).
Trên đây là những biểu hiện cụ thể chủ yếu của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An cũng như những tác hại của nó.
1.2. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Long An
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có những
nguyên nhân chung của cả nước và cũng có những nguyên nhân mang tính đặc thù riêng
của Long An. Dưới đây chúng tôi sẽ đề cập tới một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này.
1.2.1. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cũng như
trình độ văn hóa và khoa học còn thấp ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Có thể nói, chính điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội cũng như trình
độ văn hóa, khoa học còn thấp ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An là một trong
những nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh và tồn tại dai dẳng bệnh kinh nghiệm trong đội
ngũ cán bộ này. Long An là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, diện tích tự
nhiên là 4.448,6 km
2
. Phần lớn đất đai Long An được tạo thành ở dạng phù sa nên thuận
lợi trong sản xuất nông nghiệp. Nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa,
cận xích đạo, có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài. Biên
độ, nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa. Như vậy những khác biệt nổi
bật về thời tiết, khí hậu, này có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là sản
xuất nông nghiệp. Nền nông nghiệp Long An chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, người

dân Long An làm ruộng chủ yếu dựa vào sự ưu đãi của thiên nhiên. Sau khi xuống giống,
người dân chỉ ngồi trông trời, trông đất, trông mây cho đến khi thu hoạch. Cách thức sản
xuất như vậy, dẫn đến tâm lý "làm chơi ăn thật". Do đó, không ít người có tâm lý không
cần học vẫn có thể kiếm sống được. Tâm lý này hình thành rất sâu và mang tính đặc thù.
Hơn nữa, với nền sản xuất nông nghiệp còn ở trình độ thấp, khoa học kỹ thuật kém phát

triển, người nông dân chỉ quen làm ăn với những công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu theo
phương thức canh tác cổ truyền, bằng sự nỗ lực của cơ bắp là chủ yếu thì tất nhiên kiến
thức khoa học kém phát triển. Trong điều kiện như vậy, dần dần hình thành thói quen của
người dân Long An nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói riêng tổ chức sản xuất và
làm việc theo kinh nghiệm là chủ yếu. Trong suy nghĩ, họ muốn dừng lại ở cái cụ thể,
cảm tính, trực quan, tư duy khái quát kém phát triển. Trong những điều kiện như vậy, họ
ngày càng ỷ lại vào thiên nhiên, thiếu sáng kiến, ngại đổi mới, họ thường lấy kinh
nghiệm cá nhân để thực hiện công việc. Hơn nữa, sự kém phát triển của giao thông đã
ảnh hưởng rất lớn đến việc nảy sinh bệnh kinh nghiệm. Long An là một tỉnh gồm 13
huyện và 1 thị xã trong đó khu vực Đồng Tháp Mười là một vùng quan trọng của tỉnh,
cung cấp trên 50% sản lượng lương thực, trên 50% sản lượng gạo xuất khẩu của tỉnh.
Nhưng hiện nay vùng Đồng Tháp Mười, mặc dù được Trung ương và tỉnh đầu tư nhưng
giao thông đường bộ còn rất kém phát triển. Nhân dân ở những vùng sâu, vùng xa gặp
nhiều khó khăn, kinh tế kém phát triển. Toàn tỉnh có tới 115/183 xã, phường chưa có chợ,
có tới 28/183 xã, phường chưa có đường giao thông đến trung tâm xã. Tất cả những điều
này đã tạo "cơ hội", điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh, tồn tại và phát
triển. Đã thế, môi trường xã hội còn lạc hậu, chậm phát triển, Long An còn 24.575 hộ
nghèo chiếm 8,5% số hộ trong tỉnh, 27/183 xã có tỷ lệ nghèo chiếm 15% trở lên. Phương
tiện nghe nhìn còn rất hạn chế, đặc biệt là những xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
như huyện Tân Hưng, Vĩnh Hưng , Mộc Hóa, Tân Thạnh Trình độ học vấn của nhân
dân thấp còn tới 46,8% người dân mới học đến cấp I (xem phụ lục 2). Đối với những xã
trong 9 huyện bị ngập lụt, những xã vùng ngập mặn (Huyện Cần Giuộc, Cần Đước, Châu
Thành) thì thiếu thốn nguồn nước sạch chỉ có 317 giếng nước sạch/183 xã phường, thị

trấn. Đời sống của nhân dân và cán bộ khó khăn, thiếu thốn nên người ta ngại học; người
dân còn phải lo cái ăn, ít có điều kiện lo cái chữ.
Tất cả những điều đó đã làm cho nhân dân và cán bộ gặp nhiều khó khăn trong
cuộc sống, không có điều kiện học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Như vậy đã gián
tiếp hoặc trực tiếp góp phần làm cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh và tồn tại trong cán bộ
và nhân dân Long An. Cũng như nhiều tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Long

An là một nơi mới vừa thoát khỏi chiến tranh ác liệt kéo dài, trong chống Mỹ là vùng
bình định trọng điểm của giặc. Sau năm 1975, Long An lại phải đương đầu với chiến
tranh biên giới Tây Nam. (Long an có 137,7 km đường biên giới tiếp giáp Campuchia).
Do đó, nhân dân Long An nói chung và cán bộ ở Long An nói riêng chưa có điều kiện và
thời gian cần thiết để nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ. Qua khảo sát
729 cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như: Bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND và Phó Chủ
tịch HĐND ở 183 xã, Phường, Thị trấn cho thấy số cán bộ có học vấn cấp I là 4,38%; cấp
II là: 40,10%, cấp III là: 55,4%. Về chuyên môn nghiệp vụ chỉ có 5,62% số cán bộ có
trình độ trung học; 1,5% số cán bộ có trình độ cao đẳng; 2,33% có trình độ đại học,
nhưng chuyên môn lại chủ yếu là về Sư phạm và kỹ thuật nông nghiệp (xem phụ lục 5).
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến nảy sinh bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm trong
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. Chính vì trình độ học vấn và chuyên môn
nghiệp vụ thấp cộng với những nguyên nhân khác mà trong hoạt động thực tiễn họ rơi
vào tình trạng mò mẫm, sự vụ, tùy tiện, tự ti, không nhất quán trong việc thi hành chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại khá lâu dài cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở Long An. Trong cơ chế cũ, việc tổ chức thực tiễn đều phải dựa vào
hướng dẫn chỉ đạo từ cấp trên dựa vào kinh nghiệm của lãnh đạo trước đó, hoặc kinh
nghiệm tự phát hàng ngày do xử lý công việc mà hình thành nên. Vả lại cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, bản thân nó không tạo ra được động lực cho việc học tập rèn luyện
nâng cao trình độ văn hóa khoa học của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Cơ chế đó
làm triệt tiêu mất tính năng động, tích cực, sáng tạo của cán bộ lãnh đạo cả trong tư duy,

cả trong hoạt động thực tiễn. Vì lẽ, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mọi vấn đề
hầu như được tiến hành theo "pháp lệnh" từ cấp trên xuống. Do đó, cán bộ nhất là cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở, chủ yếu chỉ có việc quán triệt, thực hiện vô điều kiện, cho dù thực
tiễn có chấp nhận và có đạt hiệu quả cao hay không. Cũng từ đây, quyền hạn không gắn
chặt với năng lực, trách nhiệm, lợi ích không gắn với chất lượng, hiệu quả thực tế của
công việc cụ thể đảm nhiệm và tách khỏi lợi ích của quần chúng, dẫn đến đặc quyền, đặc

lợi ở đội ngũ cán bộ, Cùng với những nguyên nhân khác, cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp góp phần làm nảy sinh và củng cố quan niệm giản đơn cho rằng, cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở không cần học cũng làm được việc miễn là "chịu làm", chịu thực hiện theo đúng
hướng dẫn của cấp trên. Chính sự tuyệt đối hóa cái gọi là "chịu làm" đã dẫn đến xem nhẹ,
không chú trọng đến việc nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Trong khi đó cũng còn quan niệm "sống lâu lên lão làng". Tâm lý cho rằng, đối với cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở chủ yếu phải là "chịu làm" nên không chú ý đến nâng cao trình độ
văn hóa, nghiệp vụ để họ có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ. Cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp bao trùm cả lĩnh vực nhận thức, lý luận. Chân lý có lúc được coi là thẩm quyền
của các cấp lãnh đạo và được mặc nhiên thừa nhận. Mọi quan điểm, tư tưởng lý luận đều
được ban phát từ cấp trên, cán bộ cấp dưới chỉ việc chờ đón, thực hiện. Cán bộ có nói gì,
viết gì chỉ là giải thích, minh họa, ca tụng ý kiến của cấp trên nhờ sự viện dẫn ví dụ v.v
Điều này lý giải cho tình trạng "xuôi chiều" trong tư duy của nhiều cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở, tạo ra những cán bộ thụ động, ỷ lại, dựa dẫm và chỉ tâm niệm thừa hành, mệnh
lệnh, chỉ thị của cấp trên thiếu nỗ lực chủ quan, không cần phải trăn trở, tìm tòi nghiên
cứu sáng tạo trong tư duy và hoạt động thực tiễn. Rõ ràng, trong cơ chế đó thì bệnh kinh
nghiệm khó tránh khỏi. Tất cả những điều trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả lãnh
đạo, quản lý ở cơ sở và là điều kiện để bệnh kinh nghiệm cũng như các căn bệnh khác
tiếp tục tồn tại trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. Mặc dù, cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp đã được Đảng và Nhà nước ta kiên quyết xóa bỏ, song ảnh hưởng
của nó không thể khắc phục ngày một ngày hai được. Bởi lẽ, đa số cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở Long An điều được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong cơ chế đó.

1.2.2. Sự yếu kém về trình độ lý luận, sự thiếu ý thức phấn đấu, học tập rèn
luyện vươn lên của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Long An
Có thể nói, trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An còn
yếu kém và bất cập là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh bệnh kinh
nghiệm cũng như các căn bệnh khác. Bởi lẽ, trình độ lý luận yếu kém sẽ làm cho họ mãi
mãi dừng lại ở trình độ kinh nghiệm và như vậy trong nhận thức của họ sẽ không vượt

qua được trình độ mô tả bề ngoài các hiện tượng riêng lẻ, trình độ tập hợp ghi nhớ hình
thức, không biết gạt bỏ những yếu tố riêng lẻ, ngẫu nhiên có tính chất thứ yếu để nắm lấy
những mối liên hệ, những thuộc tính cơ bản bên trong của sự vật hiện tượng. Trong công
việc tổ chức thực tiễn chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công việc sự vụ, sự việc, gặp đâu
hay đó, ít có kế hoạch, hoặc kế hoạch thiếu cơ sở thực tiễn và khoa học, không chú ý điều
tra tình hình có hệ thống về các mặt của địa phương mình. Trong việc xử lý những vấn đề
nảy sinh thì dùng phương pháp cũ, cách nghĩ và cách làm cũ không còn thích hợp. Tất
nhiên, đôi khi tri thức kinh nghiệm cũng giúp người lãnh đạo, quản lý giải quyết thành
công một số công việc, một số tình huống cá biệt trong công tác nhưng rõ ràng là kết quả
rất hạn chế, không chắc chắn. Trước các tình huống mới phức tạp, tri thức kinh nghiệm tỏ
ra bất lực, không có cơ sở để người lãnh đạo, quản lý xử lý thành công. Đối với cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở đòi hỏi công tác lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới cũng phải có
trình độ lý luận. Như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ: "Cuộc sống càng phức tạp,
nhiệm vụ càng khó khăn, thời đại càng diễn biến nhanh chóng thì lý luận càng trở thành
thiết yếu như cơm ăn và nước uống hàng ngày. Chúng ta từ một nền sản xuất nhỏ lên chủ
nghĩa xã hội thì càng phải quán triệt điều này" [42, tr. 23].
Như chúng ta biết, trình độ lý luận của người cán bộ lãnh đạo quản lý chủ yếu
được hình thành một cách tự giác thông qua con đường học ở trường và tự học trong
cuộc sống, trên cơ sở hiểu biết một cách căn bản, có hệ thống về đối tượng, công việc mà
mình lãnh đạo, quản lý, thông qua sách vở, bài giảng, đồng thời thông qua việc tổng kết
kinh nghiệm công tác mà hình thành tri thức lý luận. Không học tập một cách nghiêm túc
thì không thể có tri thức lý luận và như vậy sẽ khó trách khỏi dừng lại ở trình độ kinh

×