Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng hồ chí minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.03 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nắm bắt sâu sắc bản chất
khoa học, cách mạng và nhân văn, tinh thần biện chứng, thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp luận của học thuyết Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chính vì thế, Đảng ta đã khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lý luận của cách mạng Việt Nam. Có
thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Bộ
mơn tư tưởng Hồ Chí Minh là một mơn khoa học Mác - Lênin ở Việt Nam.
Việc dạy và học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm cung cấp những
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hình thành nhân sinh quan, thế giới quan
cho người học, giúp người học nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị
của tư tưởng Hồ Chí Minh mà kiên định với chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính
khoa học, nhân văn, nhân đạo của học thuyết Mác - Lênin trong cuộc sống
hiện thực ngày hơm nay. Trên cơ sở đó, tạo sự chuyển biến tự giác của mỗi
người trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nhằm mục đích giáo dục và định hướng hành động cho con người trong công
cuộc xây dựng và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Đối tượng học viên của trường chính trị tỉnh là những cán bộ lãnh đạo
Đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân thuộc địa bàn huyện, thành thị,
phường, xã, thị trấn, là nơi gắn liền với thực tiễn cơ sở sản xuất và đời sống
người dân, nơi biến đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
thành hiện thực sinh động. Do vậy, học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng
cần thiết, đó là chìa khóa, là cách làm, là bước đi phù hợp để cán bộ cơ sở vận
dụng trong công tác tại địa phương. Bởi tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là



2
thứ lý luận cao siêu, khó hiểu mà là những bài học cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ vận dụng, dễ làm theo.
Ngày 07/11/2006, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra
Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Cuộc
vận động được tổ chức sâu rộng trong quần chúng nhân dân đã góp phần đẩy
mạnh việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để mọi cán
bộ, đảng viên và tổ chức Đảng tự giác liên hệ, kiểm điểm, sửa chữa, khắc phục
tình trạng suy thối về đạo đức, lối sống, giữ vững niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, phát triển bền vững đất nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Vì thế, học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm
vụ quan trọng hiện nay trong các trường chính trị.
Để việc học tập, giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh đạt hiệu quả cao
trong tình hình hiện nay, nhất định phải trên cơ sở quán triệt tốt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Thời gian qua, do quán triệt tốt nguyên
tắc này trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh
nên chúng ta đã thu được nhiều thành tựu đáng tự hào. Người dạy và học sau
khi thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo môn khoa học
này vào thực tiễn cuộc sống, giải quyết nhiều mâu thuẫn của cuộc sống đang
đặt ra một cách khoa học, đáp ứng được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
nhân dân.
Mặc dù vậy, hiện nay nhiều nơi trong cả nước nói chung và ở các
trường chính trị tỉnh nói riêng, việc dạy và học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh
hiệu quả đạt được chưa cao, chưa xứng tầm. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến việc dạy và học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh chưa hiệu quả là do chưa



3
quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy và học
môn này ở các trường chính trị tỉnh. Một số học viên học xong nhưng không
biết vận dụng vào thực tiễn để giải quyết những bức xúc, mâu thuẫn của địa
phương. Với tất cả lý do cấp bách đó, học viên chọn đề tài Nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy
môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố làm đề
tài luận văn Thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận nhận thức Mácxit nói
riêng. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhận
thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu nhằm làm rõ thực chất của vấn đề này ở những khía cạnh cụ thể
khác nhau, được công bố trên nhiều sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án, đề
tài khoa học… Bước đầu, học viên lược khảo một số cơng trình sau:
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về ngun tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn
- Đề tài “Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách
làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở nước ta hiện nay (qua
thực tế tỉnh Kiên Giang)”, Đặng Tuyết Em, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2000. Tác giả
luận văn đã phân tích sự cần thiết và tầm quan trọng của việc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Đồng thời khái quát tình hình thực tế trình độ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), chỉ ra những hạn chế
và nguyên nhân những hạn chế trong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý, từ đó nêu cao sự cần thiết cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách làm việc của đội ngũ này.



4
- Đề tài “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra quyết định
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh hiện nay”,
Nguyễn Thu Thủy, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2010. Tác giả luận văn đã làm rõ thực
chất và biểu hiện của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra
quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, khẳng định rõ tầm
quan trọng của việc quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, khái quát thực trạng
quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra quyết định của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quán triệt nguyên tắc này trong hoạt động
ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Đề tài của Vũ Công Thương “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở
nước ta hiện nay (Qua thực tế ở Bình Phước)”, Luận văn Thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2007. Và
đề tài “Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ hiện nay (qua
thực tế tỉnh Bình Phước)”, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2012. Tác giả luận văn và
luận án nhận rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, đồng thời khái quát thực trạng của việc quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh
đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (qua thực tế tỉnh Bình Phước),
những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất một số biện pháp định hướng để thực
hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.



5
- Hội đồng lý luận Trung ương.“Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới
đặt ra trong tình hình hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
2011. Tập thể tác giả đã nghiên cứu những vấn đề nổi bật trong nước và quốc
tế như tính chất, xu hướng thời đại hiện nay, tình hình và sự điều chỉnh chính
sách đối ngoại của các nước lớn; đặc điểm, xu thế của thế giới, tình hình
đường lối của các Đảng Cộng sản, những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội,
một số vấn đề về kinh tế tri thức và thực tiễn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam, vấn đề phát triển con người, nguồn nhân lực, vấn đề xây dựng
Đảng … Những vấn đề được nghiên cứu vừa có giá trị lý luận vừa có ý nghĩa
thực tiễn to lớn.
- “Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ
đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Vương Anh Tuấn, Luận văn
Cao cấp chuyên ngành triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2005. Tác giả chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của lý
luận và thực tiễn, mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Tác giả
tìm hiểu thực trạng trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên của thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay. Từ đó đề ra một số phương hướng chủ yếu nhằm
nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay
- “Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra
quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Quảng
Ngãi hiện nay”, Đào Văn Quang, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2010. Tác giả đã làm rõ tầm
quan trọng của việc quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
việc ra quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở, đồng thời
tác giả khái quát thực trạng trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

cơ sở qua thực tế ở tỉnh Quảng Ngãi, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng


6
cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về nâng cao
chất lượng giảng dạy
- Đề tài “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy triết học
Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố (qua thực tế trường đào
tạo cán bộ Lê Hồng Phong, thành phố Hà Nội)”, Tạ Thị Ngọc Lan, Luận văn
Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội - 2011. Tác giả của luận văn đã làm rõ tầm quan trọng của việc quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn triết học
Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, thành phố, đồng thời đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt tính ngun tắc này trong cơng tác giảng
dạy, đặc biệt đối với môn học triết học Mác - Lênin.
- Đề tài: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc
nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường chính trị tỉnh (qua thực tế tỉnh Bình
Thuận)”, Nguyễn Thị Thuận Bích, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2004. Tác giả của
luận văn đã khái qt tình hình thực tế cơng tác giáo dục lý luận chính trị ở
các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời gian qua (trước 2004) vẫn cịn
nhiều hạn chế. Tác giả đã phân tích ngun nhân chủ quan, ngun nhân
khách quan dẫn đến tình trạng đó. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy lý luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh, thành phố thơng
qua thực tế tỉnh Bình Thuận.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nâng cao hiệu quả gắn lý luận với thực
tiễn trong giảng dạy ở Trường Chính Trị hiện nay”, Trường Chính trị tỉnh
Nghệ An, 2010. Các tác giả tham gia Hội thảo đã nêu lên tầm quan trọng và

tính cấp thiết phải gắn lý luận với thực tiễn trong cơng tác giảng dạy ở trường
chính trị hiện nay, đồng thời đề ra một số giải pháp cụ thể đối với một số môn


7
học trong chương trình trung cấp chính trị - hành chính nhằm quán triệt tốt
hơn nữa nguyên tắc này trong thực tế giảng dạy và học tập của cán bộ giảng
viên và học viên tại trường chính trị tỉnh Nghệ An.
- “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy ở
trường chính trị tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay”, Lại Hợp Thịnh,
Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2000. Tác giả luận văn chỉ ra vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy ở trường chính trị tỉnh.
Tác giả cũng đã khái quát tình hình thực tế thực trạng chất lượng đội ngũ cán
bộ nghiên cứu giảng dạy trường chính trị tỉnh Kiên Giang - những yêu cầu đặt
ra trong tình hình mới. Tác giả đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy ở
trường chính trị tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
- “Vấn đề dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong các trường đại học ở Hà Nội. Thực trạng và giải pháp”, TS.
Nguyễn Duy Bắc (chủ nhiệm), Đề tài nghiên cứu, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2003. Tập thể tác giả đã chỉ ra vị trí,
vai trị của các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng
tác đào tạo ở các trường đại học là trang bị thế giới quan và phương pháp luận
khoa học cho sinh viên để họ có cái nhìn, phương pháp nhận thức và cải tạo
thế giới với niềm tin khoa học. Tập thể tác giả đã khái quát tình hình thực tế
thực trạng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong các trường đại học ở Hà Nội, từ đó đề ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các bộ
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở

Hà Nội thời gian tới.
- “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác
- Lênin ở các trường chính trị tỉnh”, Nguyễn Đình Trãi, Luận văn Thạc sĩ


8
Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2001. Trên cơ sở làm sáng tỏ phạm trù năng lực tư duy lý luận và vai trị của
nó đối với cơng tác giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tác giả tìm hiểu thực trạng
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở
các trường chính trị tỉnh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở
các trường chính trị tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay”,
PGS.TS Trần Minh Trưởng, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 2 - 2013. Tác giả
đã chứng minh cuộc đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh là sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm, điều này có tác dụng vô
cùng to lớn trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ người dân thi đua
yêu nước. Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong phong trào thi đua yêu nước
trong giai đoạn hiện nay, từ đó thấy được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay.
- “Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa”,
Thạc sỹ Lưu Huy Huyền, Nội san Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa, số
11/2012. Tác giả đã nêu lên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó tác giả thấy được tầm quan
trọng của việc phải quán triệt nguyên tắc này trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ ở trường chính trị tỉnh Thanh Hóa, đồng thời đề ra một số giải
pháp nhằm thực hiện việc gắn lý luận với thực tiễn trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.


9
- “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống. Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Lê Văn Tích, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. Tác giả đề cao
vai trò, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả
nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức, giáo dục tuyên truyền tư tưởng Hồ
Chí Minh hiện nay qua phân tích số liệu điều tra xã hội học. Từ đó xây dựng
phương pháp, biện pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, đề xuất
các biện pháp giáo dục, tuyên truyền về tư tưởng Hồ Chí Minh với các thành
phần xã hội mà trước hết là công nhân, nông dân, bộ đội, thanh niên, học sinh,
sinh viên.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chính trị - giá trị lý luận và thực tiễn”,
Nguyễn Thế Phúc, Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2008. Tác giả nghiên cứu sâu
sắc tư tưởng dân chủ trong chính trị của Hồ Chí Minh, những đóng góp về
mặt lý luận và thực tiễn của tư tưởng dân chủ, từ đó đưa ra những đề xuất về
việc vận dụng tư tưởng dân chủ chính trị của Hồ Chí Minh trong cơng cuộc
đổi mới hiện nay.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giáo dục và đào tạo cán bộ”, Trần Thị Thúy, Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2009. Tác giả
luận văn nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là cơ sở
trực tiếp hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn. Tác giả làm rõ thực chất nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giáo dục và đào tạo cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vận
dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn trong giáo dục và đào tạo cán bộ của Đảng ta hiện nay.
Từ việc khái qt những cơng trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, có rất
nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận


10
và thực tiễn trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội.
Đồng thời cũng có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về nâng cao chất
lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh. Song việc vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn
tư tưởng Hồ Chí Minh trong một đề tài nghiên cứu thì chưa có. Vì vậy, luận
văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã được cơng bố
nêu trên để hồn thành nhiệm vụ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong việc giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh tại
các trường chính trị tỉnh, thành phố, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc
nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính
trị tỉnh, thành phố hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để hồn thành tốt mục đích, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong việc giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phân tích thực trạng và chỉ ra một số hạn chế từ thực trạng quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong việc giảng dạy mơn tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ

Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu


11
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc nâng cao
chất lượng giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh,
thành phố hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc nâng cao
chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình trung cấp lý
luận chính trị - hành chính ở các trường chính trị tỉnh, thành phố hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các cơng trình khoa học trong và ngồi nước
đã được cơng bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn đối với việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
trường chính trị tỉnh, thành phố hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh

ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực
hiện tốt nguyên tắc này trong công tác giảng dạy, đặc biệt đối với môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời gian tới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
mơn triết học, tư tưởng Hồ Chí Minh.


12
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


13
Chương 1
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - TẦM QUAN TRỌNG VÀ BIỂU HIỆN
1.1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH - VAI TRỊ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

1.1.1. Vai trị của việc giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
trường chính trị tỉnh, thành phố
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà lý luận lỗi lạc và là lãnh tụ thiên
tài của Đảng và dân tộc ta. Di sản tư tưởng của Người là một phần cơ bản cấu
thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho Đảng. Hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh đã và đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong thực
tiễn. Điều này đã được lịch sử Việt Nam chứng minh thông qua cuộc vận
động học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đặc

biệt là nghiên cứu phong cách giúp việc “làm theo” tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh đang trở thành một nhu cầu thiết yếu và cần phải được triển
khai sâu rộng, lâu dài trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ta thì
việc học tập mơn tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng trở nên hết sức cần thiết.
Điều đó đặt ra trách nhiệm lớn lao cho người giảng viên giảng dạy mơn tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm thế nào để học viên có thể vận dụng quan điểm, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động thực tiễn của bản thân, trong công tác
làm việc ở cơ quan, địa phương, đơn vị? Muốn làm được điều đó, người giảng
viên phải tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tư
tưởng Hồ Chí Minh giúp người học thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh để có
thể vận dụng nhuần nhuyễn hệ tư tưởng này vào quá trình hoạt động thực tiễn.
Trường Chính trị tỉnh, thành phố với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là
đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn


14
thể nhân dân ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương).
Do đó, q trình giảng dạy và học tập ở trường chính trị phải nhằm góp phần
tạo dựng những tố chất cần thiết của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, họ phải
là những người có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực
tổ chức thực tiễn đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Để trang bị cho học
viên đầy đủ những yêu cầu đó, trước hết ở trường chính trị phải cung cấp cho
họ một phơng kiến thức lý luận sắc bén, trong đó có hệ thống lý luận Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam,
là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Ngay tại Đại hội VII, Đảng ta đã trân trọng ghi trong cương lĩnh: “Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động” [14, tr.127]. Điều này cho thấy, tư tưởng Hồ Chí
Minh có vai trị vơ cùng quan trọng trong hệ thống chính trị và đời sống tinh
thần của người dân Việt Nam.

Trước những đòi hỏi phải đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã, phường, thị trấn có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và năng lực
chuyên mơn giỏi thì việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí
Minh ở các trường chính trị lại càng có ý nghĩa, vai trị vơ cùng to lớn đối với
cơng cuộc xây dựng đất nước nói chung và bồi dưỡng phẩm chất chính trị,
năng lực cơng tác của cán bộ học viên nói riêng. Bởi khơng có “thầy giỏi” thì
khơng thể có “trị giỏi”. Việc giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
trường chính trị giúp người học:
Một là, hiểu rõ hơn về lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
(19/5/1890 - 2/9/1969) là một nhà cách mạng lỗi lạc, là người đặt nền móng
và lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt
Nam. Người là nhà lãnh đạo nổi tiếng được nhân loại lao động trên thế giới và
nhân dân Việt Nam ngưỡng mộ, tôn sùng. Người là người con tiêu biểu cho


15
dân tộc Việt Nam, là một nhà văn hóa lớn với nhiều tác phẩm văn học nghệ
thuật giá trị để lại cho đời, đồng thời là một con người với những phẩm chất
đạo đức sáng ngời nhân cách sống. Vì vậy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có
vai trị quan trọng, vừa giáo dục nhân cách sống, đạo đức cách mạng cho
người học, vừa trang bị kiến thức về thế giới quan, phương pháp luận để
người học có thể giải quyết các vấn đề trong hoạt động thực tiễn. Ngồi ra, tư
tưởng Hồ Chí Minh cịn là một trong những con đường để nhận thức đầy đủ
và sâu sắc hơn công lao to lớn của Người đối với nhân dân, đất nước Việt
Nam và nhân dân của các nước u chuộng hịa bình trên thế giới. Thấm thía
cơng lao của Người cũng sẽ khơi gợi trong mỗi một người dân Việt Nam lòng
biết ơn, lòng tự hào dân tộc, thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cho người học thế giới quan và
phương pháp luận Mác xít, giúp cả người dạy và người học nâng cao năng
lực tư duy lý luận nhằm hình thành phương pháp luận khoa học để nhận thức

cũng như hoạt động thực tiễn. Đối với người giảng viên, trong q trình tìm
tịi nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh, họ đã
gián tiếp trang bị cho mình những tri thức lý luận nền tảng, khoa học và cách
mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị của bản thân. Đồng thời, họ cũng hình
thành tính tự chủ sáng tạo trong việc tìm tịi những cách thức truyền đạt tri
thức mơn tư tưởng Hồ Chí Minh sao cho học viên dễ hiểu, dễ vận dụng, dễ
“làm theo”. Q trình nghiên cứu mơn học này cũng dần hình thành ở người
giảng viên những phẩm chất đạo đức, rèn luyện tư cách, tác phong đúng mực
của người giảng viên, người giảng viên có ý thức hơn trong việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cá nhân.
Đối với người học, việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn tư tưởng
Hồ Chí Minh giúp họ có hứng thú với mơn học, bước đầu trang bị cho họ
những lý luận cơ bản, phương pháp lý luận khoa học giúp họ nâng cao khả


16
năng tư duy lý luận và cải tiến phương pháp làm việc hiệu quả, nâng cao năng
lực tổ chức thực tiễn, có khả năng vận dụng những lý luận đã được tiếp thu
vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong cơng tác của bản thân. Q trình
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người học hình thành tư duy nhận thức
đúng đắn, loại bỏ, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện, phản
động, hướng đến những tư tưởng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển.
Ba là, góp phần giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo
tư tưởng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu
mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người đều gắn liền với một hành trang giản dị.
Từ những nǎm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan,
Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm Chủ tịch nước,
những nǎm tháng đi kháng chiến, lúc về thǎm nông dân gặt hái hay làm
thượng khách ở nước ngoài, Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự

tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu, lúc nào Bác cũng để lại ấn
tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang
theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao, càng phải giản dị.
Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng
Bác lại luôn luôn lo cho sự thiếu đủ của từng người. Trong gian khổ kháng
chiến, Bác cùng chịu đựng thiếu thốn, đói, no, giá lạnh... như người chiến sỹ.
Bác là người khởi xướng phong trào "mùa đông binh sỹ", vận động nhân dân
không những lo cái ǎn mà còn lo cái mặc cho chiến sỹ, ở hậu phương ai có
thành tích lo cho chiến sỹ mặc ấm Bác đều gửi thư khen ngợi. Mỗi vết rách,
vết vá, vết sờn trên áo Bác là một kỷ niệm thể hiện tấm lòng của Bác đối với
nhân dân. Bác đi nhiều nơi, đến đâu và ở đâu Bác cũng sẵn sàng hịa mình
cùng quần chúng nhân dân. Lúc thì xuống ruộng gặt lúa, lúc cùng tát nước
chống hạn với bà con nông dân. Quần áo sờn chỉ, cũ kỹ thay cái mới Bác
không chịu, Bác bảo khâu vá lại cho Bác để Bác dùng. Nhân cách của Bác,


17
phong cách làm việc của Bác là tấm gương sáng để cán bộ, chiến sĩ và đảng
viên noi theo. Phong cách đời thường đó của Bác tốt lên sự thống nhất giữa
tư tưởng và hành động, giữa suy nghĩ và việc làm, giữa nhân cách đời thường
và nhân cách chính trị với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, cần kiệm. Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng lại ở lời nói mà
cịn phải thể hiện ở việc làm cụ thể thiết thực hành ngày của mỗi người. Đúng
như GS.TS Hồng Chí Bảo nhận xét:
Có lẽ hơn bất cứ một mơn lý luận chính trị nào, tư tưởng Hồ Chí
Minh mang đặc trưng tổng hợp, đem lại cho người học không chỉ là
sự hiểu biết mà cịn là cảm xúc, khơng chỉ là lý luận mà cịn là
phương pháp, khơng chỉ là nhận thức mà cịn hướng tới hành động,
khơng chỉ lớn lên về tri thức thông qua tiếp cận các tác phẩm của
Người mà cịn làm phong phú về tình cảm và niềm tin khi tự soi

mình vào những tấm gương đạo đức của Người [16, tr.243].
Việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
trường chính trị tỉnh, thành phố sẽ góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh sâu rộng ở toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, cơng chức,
viên chức, đồn viên, thanh niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nhất là trong điều kiện thực tiễn hiện
nay, mặt trái của cơ chế thị trường cùng với tồn cầu hóa đang tác động mạnh
mẽ, tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, phai nhạt lý tưởng, suy
đồi về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mà trong
các kỳ đại hội gần đây, Đảng ta đều nhắc tới. Hệ lụy từ cách sống, từ sự suy
đồi đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang làm
mất đi lòng tin của nhân dân với Đảng với Nhà nước và với mục tiêu, lý
tưởng của hàng ngàn đời dân Việt Nam đấu tranh, xây dựng. Vì vậy, việc học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh, noi gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở


18
nên cần thiết, cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết giúp đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
Bốn là, giúp cho học viên thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lịng u nước, tinh
thần phục vụ nhân dân, làm cho chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho
chúng ta. Trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa quốc tế hiện nay, bên
cạnh những cơ hội để xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam đang phải
đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân
vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vào các lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với đó, các thế lực phản động thù địch
khơng từ bỏ âm mưu nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, thông

qua diễn biến hịa bình, tồn cầu hóa, mở cửa giao lưu văn hóa, các thế lực
phản động truyền bá văn hóa phẩm độc hại, tuyên truyền những luận điệu
xuyên tạc chế độ, kích động dân chúng gây nên những điểm nóng chính trị.
Đặc biệt, chúng tìm mọi cách bơi nhọ, xun tạc, nói xấu lãnh tụ, trong đó có
Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính
trị tỉnh, thành phố giúp cán bộ, đảng viên khẳng định giá trị to lớn của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định thành quả cách mạng
của dân tộc Việt Nam, sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử, để trên cơ cơ đó, mỗi cán bộ, đảng viên hình
thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận duy vật và vận dụng nó vào
hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời, khơi dậy hứng thú học tập của học
viên đối với mơn tư tưởng Hồ Chí Minh, khơi phục niềm tin của cán bộ, học
viên, quần chúng nhân dân đối với Đảng, với Bác, tăng cường sức đề kháng
trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ tịch Hồ Chí Minh, chống
lại âm mưu hạ bệ thần tượng của chúng, từ đó thấy rõ hơn con đường sống,


19
phấn đấu để trước hết làm một con người với nghĩa cao đẹp nhất của nó, và
tiếp đó, thành một cán bộ tốt, phục vụ tổ quốc và nhân dân hiệu quả nhất.
Đúng như Nghị quyết số 09 - NQ/TW của Bộ chính trị (khóa VII) nhận định:
Khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng
nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng thì đấu tranh để bảo vệ, phát triển và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng
là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong cơng tác chính
trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta [12, tr.2-3].
1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng giảng
dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố
Việc dạy và học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường chính trị tỉnh,
thành phố cũng như trong hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

đang được thực hiện tích cực. Song, có thể nói, việc đó chưa đạt đến trình độ
phát triển mạnh với hiệu quả cao do chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố tác
động sau:
Một là, do sự tác động của các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
trong thời đại ngày nay. Con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay có những đặc điểm riêng. Đó là, Việt Nam đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Trình độ lực lượng
sản xuất thấp kém, phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Trình độ
dân trí thấp, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và khơng
cịn các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ. Điều đó đang ảnh hưởng lớn
đến việc nâng cao chất lượng giảng dậy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nền tảng học thuyết, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì chỉ có
giành được độc lập dân tộc mới có điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ
có xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo độc lập dân tộc được


20
giữ vững. Tuy nhiên, một thực trạng đang diễn ra hiện nay ảnh hưởng không
nhỏ đến tâm lý học viên khi học các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, gián tiếp ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn
tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị, đó là hệ thống xã hội chủ nghĩa
ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ, kéo theo sự thất thế của phe xã hội chủ nghĩa
trên thế giới. Điều này làm nảy sinh sự nghi ngờ của người học đối với tính
đúng đắn của học thuyết, lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xã
hội chủ nghĩa, làm cho họ mất niềm tin và động lực học tập, việc học lý luận
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ chỉ cịn mang tính hình thức.
Sự đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch, tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại cho nước ta

những thành tựu đáng kể. Kinh tế có sự phát triển vượt bậc, từ một nước
đói nghèo, phải sống nhờ viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
đã trở thành nước đang phát triển, đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Bên
cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng gây ra những tác động
tiêu cực như suy thoái về mặt đạo đức, lý tưởng sống. Thiếu kiên định vào
mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong xã hội hình thành nhóm lợi ích nhằm
trục lợi từ đất nước mà quên đi lợi ích của nhân dân. Một bộ phận khơng
nhỏ cán bộ, đảng viên thối hóa, biến chất như Nghị quyết Đại hội X của
Đảng đã nhận định:
Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi..., làm giảm lịng tin của nhân dân đối với
Đảng. Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của
chế độ [15, tr.263-264].
Điều đó gây khó khăn, bất lợi trong quá trình truyền đạt nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh.


21
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, bên cạnh các quan hệ kinh tế
lành mạnh, cùng có lợi thì có khơng ít hoạt động núp dưới danh nghĩa kinh tế
để vì lợi ích chính trị, lợi ích giai cấp. Những hoạt động chống đối, tuyên
truyền của các thế lực thù địch phản động trong bối cảnh công nghệ truyền
thông đa năng đa chiều có chiều hướng tăng lên đã tác động không nhỏ vào
tâm lý, tư tưởng người học, làm cho công tác giáo dục tư tưởng lý luận khó
khăn hơn gấp bội, khó khăn nhất là khi đi vào chiều sâu. Theo báo cáo của
Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương về
tác động của các quan điểm, hành động sai trái, thù địch tới tâm trạng, thái độ
cán bộ, đảng viên và nhân dân thì có tới 33% đối tượng cán bộ, 45% đối

tượng nhân dân được hỏi trả lời rằng, các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt,
nói xấu chế độ, bơi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch, các tổ chức người
Việt phản động ở bên ngoài đã tác động lớn đến sự phai nhạt lý tưởng xã hội
chủ nghĩa trong xã hội ta hiện nay [16, tr.73-74]. Điều này có ảnh hưởng khơng
nhỏ đến công tác giảng dạy của giảng viên lý luận chính trị. Vậy, làm thế nào để
khơi phục niềm tin của học viên, của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đối với
chính quyền trong tình hình đầy biến động, phức tạp hiện nay cũng là vấn đề đòi
hỏi phải được suy nghĩ, nghiên cứu sâu sắc. Việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh của giảng viên ở các trường chính trị theo đó cũng gặp nhiều khó khăn khi
phải làm thế nào để tuyên truyền, giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
hồn tồn là “người thực, việc thực”, có tác dụng cảm hóa sâu sắc chứ không
phải là một thần tượng được dựng lên mà thôi.
Hai là những nhân tố tác động từ đội ngũ giảng viên
- Về số lượng: đội ngũ giảng viên trực tiếp giảng dạy mơn tư tưởng Hồ
Chí Minh cịn thiếu so với yêu cầu ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. Nếu
căn cứ vào số học viên và số giờ giảng chuẩn của một giảng viên trong năm
thì đội ngũ giảng viên trực tiếp giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh hiện có
ở các trường chính trị tỉnh, thành phố chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu, cá


22
biệt có trường chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu. Tình trạng thiếu hụt này dẫn đến
việc các giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh phải dạy quá nhiều giờ trong năm.
Do thời gian đứng lớp quá nhiều nên giảng viên khơng cịn thời gian nghiên
cứu, cập nhật thơng tin, kiến thức mới, hoặc tìm kiếm phương pháp truyền đạt
mới hiệu quả hơn, phù hợp với đối tượng, đặc điểm của từng loại lớp học.
Thậm chí có giảng viên khơng kịp chuẩn bị giáo án trước khi lên lớp, sử dụng
giáo án chỉ soạn một lần cho nhiều lớp học. Việc thiếu hụt giảng viên cũng
dẫn đến tình trạng lịch học tập của các lớp liên tục thay đổi, điều này ảnh
hưởng rất lớn đến việc học viên nghiên cứu tài liệu, giáo trình trước khi lên

lớp, do đó làm giảm khả năng tiếp thu bài của học viên.
- Về chất lượng: đội ngũ giảng viên giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí
Minh hiện nay có chất lượng khơng đồng đều. Nhiều giảng viên chưa được
đào tạo chính quy, chuyên sâu về môn học mà chỉ được bồi dưỡng ngắn hạn,
thường là qua một khóa học 6 tháng. Thậm chí, do tình trạng thiếu hụt giảng
viên nên một số trường chính trị tỉnh, thành phố phân cơng đứng lớp cả những
giảng viên chưa hề qua một lớp đào tạo, bồi dưỡng nào về mơn tư tưởng Hồ
Chí Minh mà chủ yếu họ là giảng viên của các chuyên ngành khác như triết
học, kinh tế chính trị hay chủ nghĩa xã hội khoa học kiêm nhiệm thêm. Chất
lượng của đội ngũ giảng viên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng
dạy mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về phương pháp dạy: việc đổi mới phương pháp giảng dạy còn chậm.
Một phần do giảng viên chưa thực sự coi trọng việc áp dụng phương pháp
mới vào giảng dạy. Mặt khác, số lượng học viên mỗi lớp học thường quá
đông, thậm chí có lớp trên 100 học viên, do đó việc áp dụng phương pháp
mới thường rất khó khăn và hiệu quả đạt được khơng cao. Bên cạnh đó, tâm
lý thụ động của học viên, thói quen dạy và học ảnh hưởng từ cấp học phổ
thơng cũng gây khó khăn khơng nhỏ đến việc áp dụng phương pháp mới vào
giảng dạy của giảng viên.


23
- Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy chưa thường
xuyên, chặt chẽ và thực sự khoa học. Việc quản lý giờ giảng của giảng viên
chủ yếu là quản lý về số lượng, chưa quản lý được chất lượng giờ giảng. Để
đánh giá một giảng viên có hồn thành nghĩa vụ giảng dạy hay chưa, cũng
như trả công giảng vượt giờ chuẩn chủ yếu dựa trên số lượng giờ giảng mà
chưa tính đến chất lượng giờ giảng. Điều này dẫn đến tâm lý giảng viên ít
quan tâm đến chất lượng giờ giảng mà chỉ chạy theo số lượng, cốt làm sao
giảng được thật nhiều bài, thật nhiều giờ để tăng thu nhập. Mặt khác, đời sống

giảng viên chưa được quan tâm chăm lo thỏa đáng. Các chính sách hỗ trợ
chưa đồng bộ, chưa tạo động lực thu hút người giỏi, có tâm huyết vào lĩnh
vực giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống tổ chức quản lý công tác
nghiên cứu khoa học, phục vụ dạy và học còn phân tán, thiếu sự phối hợp.
Ba là, nhân tố tác động từ sự thụ động, ỷ lại của học viên
Trên thực tế, học viên đa số đều ý thức được trong việc tu dưỡng đạo
đức cá nhân, có ý thức học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh song từ học
tập đến mức thực hành được là điều rất khó. Càng khó hơn trước những khó
khăn, thử thách hiện nay, đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm
cho những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống có nhiều thay đổi theo
chiều hướng "thống hơn"; lối sống sùng bái vật chất, sùng bái tiện nghi xuất
hiện nhiều hơn trong xã hội, trong đó có khơng ít người là cán bộ, đảng viên.
Một bộ phận học viên không hứng thú khi học môn tư tưởng Hồ Chí Minh, vì
quan điểm sống, triết lý sống của họ đã thay đổi. Sự học của họ sẽ trở nên hời
hợt. Có tới 63,9% người học tự nhận thấy mình đơi khi thiếu nhiệt tình và
niềm tin đối với các kiến thức của môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh [8, tr.3]. Điều này khiến cho tiết giảng của người dạy mơn tư tưởng Hồ
Chí Minh gặp khó khăn, thách thức trong q trình truyền thụ.
Mặt khác, đại bộ phận học viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc học tập lý luận chính trị, trong đó có mơn tư tưởng Hồ Chí Minh. Hầu hết


24
học viên đều cho rằng việc học chính trị chủ yếu là để đủ điều kiện trong hồ sơ
công tác nên khơng có thái độ tích cực, hợp tác trong q trình học. Hơn nữa,
thói quen học tập thụ động trước đó đã làm cho học viên ít đọc tài liệu trước khi
lên lớp, ít đào sâu suy nghĩ để nắm được bản chất của vấn đề, từ đó ít có những
vận dụng, liên hệ với thực tế cuộc sống. Điều này gây ra những khó khăn khơng
nhỏ cho giảng viên trong quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy của mình.
Bên cạnh những khó khăn, thách thức, việc nâng cao chất lượng giảng

dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
huy, phát triển, đó là mơn học này đã và đang đáp ứng được những yêu cầu,
đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Ngày 07/11/2006, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra
Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn Đảng và tồn xã hội. Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhanh chóng được
triển khai rộng rãi, thu hút sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân, Các
cấp, các ngành, các tổ chức cơ sở Đảng rất quan tâm đến vấn đề này và tổ
chức triển khai cuộc vận động với nhiều phong trào phong phú, thiết thực gắn
với chức năng, đặc điểm công tác của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực. Đây
là điều kiện thuận lợi để việc giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh
đi vào chiều sâu, kết hợp cả lý luận và thực tiễn, nâng cao khả năng nhận thức
và cảm hóa sâu sắc những tư tưởng của Người.
Nhìn chung, có rất nhiều nhân tố tác động đến q trình nâng cao chất
lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay ở các trường chính trị
tỉnh, thành phố, chúng đang tác động to lớn hoặc một phần đến quá trình này
nhưng phải khẳng định rằng, để có thể phát huy những mặt thuận lợi, khắc
phục, hạn chế những khó khăn trong q trình nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập mơn tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường chính trị tỉnh, thành
phố cần có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy và học.


25
1.2. BIỂU HIỆN CỦA SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MƠN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH

Biểu hiện của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc nâng
cao chất lượng giảng dạy mơn tư tưởng Hồ Chí Minh rất nhiều, song trong

khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ ra một số biểu hiện cơ bản như sau:
1.2.1. Chương trình, nội dung mơn tư tưởng Hồ Chí Minh phải phù
hợp với đối tượng học và yêu cầu đào tạo
Hồ Chí Minh học, hiện nay được coi là một mơn khoa học lý luận cơ
bản ở nước ta, có mã số khoa học là: 60 31 27. Đây là môn học nhằm cung
cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về nội dung hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh, cũng như nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống tư tưởng đó.
Đối tượng học viên của các trường chính trị tỉnh, thành phố là những
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, họ tiếp thu những kiến thức lý luận được trang bị ở
các trường chính trị tỉnh, thành phố rồi quay trở về địa phương giáo dục,
tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, họ là những người trực tiếp tổ
chức lãnh đạo việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước ở tất cả các mặt của đời sống xã hội ở khâu trọng yếu nhất - cấp cơ
sở, do đó việc họ tiếp thu những kiến thức tư tưởng Hồ Chí Minh rồi sau đó
trở về vận dụng trong q trình cơng tác thực sự có ý nghĩa quan trọng. Vì
vậy, quán triệt nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn trong giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trước hết địi hỏi
chương trình, nội dung mơn tư tưởng Hồ Chí Minh phải phù hợp với đối
tượng học viên và yêu cầu đào tạo.
Đối tượng học viên của các trường chính trị tỉnh, thành phố có thể là bí
thư, phó bí thư Đảng bộ xã, phường, bí thư các chi bộ dân cư, họ có thể là bí
thư đồn thanh niên, họ có thể là cán bộ văn phịng, hoặc họ có thể là những


×