Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Những vấn đề chính trị xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.71 KB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tốc độ phát triển các khu đô thị, các khu,
cụm công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cả nước nói chung
và tỉnh Phú Thọ nói riêng diễn ra hết sức nhanh chóng. Đó là xu thế tất yếu,
có tính quy luật trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta. Đi đơi với q trình đó là việc thu hồi quyền sử dụng đất của một bộ phận
dân cư trong đó chủ yếu là bộ phận nơng dân. Q trình thu hồi quyền sử
dụng đất giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án mở rộng các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, các khu đô thị mới, các công sở, các khu dịch
vụ….để phát triển kinh tế - xã hội đã bước đầu đem lại những giá trị trong
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, đời sống vật chất và tinh thần của người dân dần được cải thiện. Nhưng
bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực đã đạt được, quá trình thu hồi quyền
sử dụng đất cũng đang nảy sinh những vấn đề hết sức phức tạp, đặc biệt đối
với việc thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Chủ trương thu hồi quyền sử dụng đất của người dân để phát triển các khu
công nghiệp, khu đô thị và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được đại bộ
phận nhân dân ủng hộ, nhiều hộ gia đình hi sinh quyền lợi cá nhân vì mục đích
phát triển chung của đất nước. Việc thu hồi quyền sử dụng đất một mặt, đã có tác
động tích cực như: thúc đẩy sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ; lực lượng lao động nông thôn sẽ giảm dần cả tương đối lẫn
tuyệt đối trong q trình đó, cơng nghiệp hóa tạo ra nhiều ngành nghề mới, nhiều
cơ hội việc làm cho người lao động và kéo theo sự phát triển của khoa học, cơng
nghệ, trình độ của người lao động; khai thác được tiềm năng kinh tế của các
vùng, địa phương, khu vực, nâng cao đời sống nhân dân.
Mặt khác, việc thu hồi quyền sử dụng đất nếu thực hiện không tốt sẽ
gây ra những hệ quả xấu, làm chậm tiến độ các cơng trình và q trình phát



2
triển kinh tế - xã hội ở những vùng có chủ trương thu hồi đất. Ở nhiều nơi, do
triển khai và cơng tác chuẩn bị chưa tốt nên khơng ít người nơng dân bị mất
đất canh tác gặp khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, khơng có việc
làm, thu nhập bấp bênh. Mức đền bù và hỗ trợ thấp, một bộ phận nông dân
không biết sử dụng số tiền đền bù để đầu tư cho tương lai, sau khi sử dụng hết
khơng có nguồn thu nhập, đời sống khơng ổn định, thiếu việc làm, khơng có
thu nhập ảnh hưởng đến đời sống của các thành viên trong gia đình. Những
bộ phận dân cư có đất thu hồi, phải di dời sang chỗ ở mới, mất việc làm
truyền thống, phải chuyển đổi nghề nghiệp, do trình độ chun mơn thấp,
thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất…đã không đáp ứng được yêu cầu sản xuất
công nghiệp, thương mại, dịch vụ, không có khả năng tìm kiếm việc làm mới,
trở nên thất nghiệp đời sống gặp nhiều khó khăn.
Thu hồi quyền sử dụng đất cũng tạo ra sự di biến động dân cư, tái định
cư dẫn đến sự biến đổi văn hóa theo cả chiều hướng thuận và khó khăn. Sự
giao lưu kinh tế giữa các miền, vùng đi kèm với giao lưu văn hóa, thơng tin,
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, trong q
trình đơ thị hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, bên cạnh mặt tích cực, ở
nhiều nơi đang có sự du nhập những yếu tố lai căng, phản giá trị làm băng
hoại đạo đức dân tộc. Kinh tế khó khăn, tệ nạn xã hội gia tăng, tình trạng
nghiện hút, vi phạm pháp luật làm mất ổn định ở nhiều cộng đồng dân cư,
nhất là ở những khu đô thị lớn.
Ở Phú Thọ, giai đoạn 2008 - 2012, tổng diện tích các khu, cụm cơng
nghiệp theo quy hoạch được tỉnh duyệt là 1.100 ha, quy hoạch điều chỉnh
1.950 ha, tăng 850 ha. Trong đó, các khu cơng nghiệp tăng 924 ha, cụm công
nghiệp giảm 74 ha so với quy hoạch được duyệt. Cịn giai đoạn 2011 - 2020,
tổng diện tích quy hoạch các khu, cụm công nghiệp được duyệt là 2.100 ha,
quy hoạch điều chỉnh là 2.050 ha, giảm 50 ha. Trong đó các khu cơng nghiệp
giảm 70 ha, cụm công nghiệp tăng 20 ha so với quy hoạch.



3
Việc thu hồi quyền sử dụng đất là chủ trương đúng của Nhà nước, được
nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhưng ở nhiều nơi chính quyền thực thi cịn thiếu
cơng khai, dân chủ, minh bạch về quy hoạch và chính sách, thủ tục hành
chính khi bồi thường, tái định cư không thỏa đáng. Ở một số nơi, đất thu hồi
không được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, “quy hoạch treo” để hoang hóa
nhiều năm làm nảy sinh những bức xúc trong nhân dân dẫn đến những khiếu
kiện, thậm chí khiếu kiện kéo dài, vượt cấp trở thành điểm nóng gây mất trật
tự xã hội, gây hoang mang trong nhân dân làm cho tình hình chính trị - xã hội
trở nên phức tạp. Điển hình là Dự án mở rộng cụm công nghiệp Cổ Tiết thành
“khu công nghiệp Tam Nông”, Cụm công nghiệp Bạch Hạc, Cụm công
nghiệp xã Tam Cường khi người dân không đồng thuận về đền bù đã dẫn đến
khiếu kiện kéo dài, bức xúc trong nhân dân.
Nghiên cứu thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, đặc biệt
là đưa ra những giải pháp, giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh
trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ đang là yêu cầu cấp
thiết hiện nay. Đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Những vấn đề
chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho tới nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả đề
cập tới vấn đề thu hồi quyền sử dụng đất ở nhiều mức độ cũng như góc độ
tiếp cận khác nhau. Đồng thời cũng chỉ ra những khó khăn, thách thức trong
q trình thực hiện thu hồi quyền sử dụng đất và nêu ra những giải pháp, kiến
nghị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình này, cụ thể:
- Chu Văn Cấp (2010), Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác động của
chính sách thu hồi đất đối với nơng dân trong q trình Cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Kỷ yếu khoa học của Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
Lý luận chính trị, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đã đề cập đến vấn đề nông



4
dân khơng có việc làm khi mất đất, sử dụng đất đai sai mục đích và ơ nhiễm
mơi trường.
- Trần Văn Chín (2008), Những vấn đề kinh tế - xã hội tại nơi thu hồi
đất để đơ thị hóa ở Bến Tre, Luận văn Thạc sỹ - Viện Kinh tế - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả đã làm rõ thực trạng những vấn đề
kinh tế - xã hội nảy sinh cũng như những vấn đề đặt ra trong quá trình thu hồi
đất ở Tỉnh Bến Tre, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm giải
quyết có hiệu quả vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh tại những nơi thu hồi đất để
đơ thị hóa ở tỉnh Bến Tre.
- Nguyễn Hữu Dũng (2005), Đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa với việc đảm
bảo điều kiện sống và làm việc của người lao động,Tạp chí Lý luận Chính trị
(2005), tác giả đã làm rõ thực trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao
động do q trình thu hồi đất nơng nghiệp thực hiện dự án đơ thị hóa, phát
triển các khu công nghiệp và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo điều
kiện sống và làm việc của lao động nơng thơn trong q trình đơ thị hóa, cơng
nghiệp nơng thôn.
- Nguyễn Thị Hằng (2007), Giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn ở tỉnh
Hà Nam, Luận văn Thạc sỹ -Viện Chủ nghĩa xã hội khóa học, Học viện chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả làm rõ thực trạng những vấn đề xã hội nảy
sinh khi thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nông thôn tỉnh
Hà Nam và đề ra một số giải pháp giải quyết một số vấn đề xã hội nảy sinh
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam.
- Đinh Thị Thu Hương (2010), Quản lý đất đơ thị ở thành phố Việt Trì ,
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả đã đánh giá một cách khách quan thực trạng
quản lý đất đơ thị ở Thành phố Việt Trì - Phú Thọ. Trên cơ sở thực trạng của

việc quản lý đất đô thị, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực


5
tiễn trong cơng tác quản lý đất đai nói chung và đất đơ thị nói riêng, tác giả đề
xuất những giải pháp nhằm quản lý có hiệu quả đất đơ thị trên địa bàn thành
phố Việt Trì trong thời gian tới.
- Đặng Thị Hường (2010), Những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh
trong q trình đơ thị hóa ở ngoại thành Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ, Viện Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Học Viện Chính trị - Hành Chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng những vấn đề chính trị - xã hội
nảy sinh trong q trình đơ thị hóa ở ngoại thành Hà Nội, làm rõ thực trạng,
nguyên nhân, những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong q trình đơ thị
hóa ở ngoại thành Hà Nội, đồng thời tác giả cũng đưa ra những giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong q trình đơ thị
hóa ở ngoại thành Hà Nội.
- Bùi Thị Ngọc Lan (2007), Giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh từ
việc thu hồi đất nơng nghiệp trong q trình đơ thị hóa và phát triển khu
công nghiệp ở Đồng bằng Sông Hồng hiện nay (Đề tài cấp Bộ ). Các tác giả
đã làm rõ tính tất yếu của q trình thu hồi đất nơng nghiệp và vấn đề xã hội
nảy sinh trong quá trình đơ thị hóa, hiện đại hóa, đồng thời tác giả cũng đã
làm rõ thực trạng và những bức xúc xảy ra trong q trình đơ thị hóa, từ đó đề
xuất những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và giải quyết những vấn đề xã
hội nảy sinh trong quá trình thu hồi đất phát triển đơ thị hóa và khu công
nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng trong những năm tới.
- Nguyễn Thị Ngân (2006), “Xu hướng phát triển làng nghề ở khu vực
Đồng bằng sơng Hồng”, Tạp chí Lý luận Chính trị số 6. Tác giả đã phân tích
vị trí, vai trò của làng nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng
phát triển làng nghề ở khu vực Đồng bằng sông Hồng trong những năm tới.
- Nguyễn Trung Sơn (2007), Việc làm cho người bị thu hồi đất ở Hà

Nội, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành Chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giã đã đưa ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn


6
việc làm, thu nhập của người dân có đất bị thu hồi trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa ở ngoại thành Hà Nội, đồng thời cũng đưa ra một số
giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, thu nhập của người nông
dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới.
- Nguyễn Văn Thịnh (2002), Phân tích một số điểm nóng chính trị - xã
hội trên địa bàn huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và rút ra những bài học kinh
nghiệm qua thực tiễn xử lý, Luận văn cử nhân - viện Khoa học chính trị. Tác giả
đã phân tích một vài điểm nóng ở huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương những năm
1990 - 2001, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế vấn đề bức xúc trong nhân
dân và hướng giải quyết dứt điểm các điểm nóng chính trị trên địa bàn.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề,
trong đó, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề xã hội, các vấn đề kinh tế nảy
sinh trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa, q trình thực
hiện thu hồi đất của nhân dân cho các quá trình trên và đưa ra những giải pháp
nhằm giải quyết những vấn đề này. Tuy nhiên mới chỉ đề cập đến vần đề xã
hội nảy sinh ở một tỉnh, một vùng. Cho đến nay chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi
quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. Tác giả thấy việc
nghiên cứu vấn đề này là cần thiết nên đã chọn đề tài: “Những vấn đề chính
trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích, đánh giá thực trạng những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh
trong q trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ, trên cơ sở đó, Luận

văn đề xuất những giải pháp cơ bản và những kiến nghị nhằm hạn chế những
vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay.


7
3.2. Nhiệm vụ
Phân tích tính tất yếu của việc thu hồi đất quyền sử dụng đất để phát
triển đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Làm rõ thực trạng của những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong
quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua.
Đề ra các giải pháp chủ yếu và các kiến nghị nhằm hạn chế những vấn
đề chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh
Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong
quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Chủ yếu tập trung ở 01 thành phố(Thành Phố Việt Trì)
và 02 huyện (Thanh Thủy, Tam Nơng). Là những địa phương nổi lên vấn đề
thu hồi quyền sử dụng đất cho phát triển đô thị và phát triển các khu dịch vụ,
dự án mở rộng hạ tầng cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Về thời gian: Từ khi có nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đẩy nhanh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001- 2010 của
Đảng đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện của Đảng, văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh

Phú Thọ, các huyện, thành phố thuộc tỉnh.
Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng trình nghiên cứu của tác giả.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này tác giả sử dụng phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, điều tra xã hội học.


8
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng những vấn đề chính trị - xã hội
nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Tác giả luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn
đề chính trị - xã hội nảy sinh và một số kiến nghị nhằm hạn chế những vấn đề
chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về lý luận
Làm rõ cơ sở lý luận để tiếp cận vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh trong
quá trình thực hiện thu hồi quyền sử dụng đất để đơ thị hóa và phát triển kinh
tế - xã hội.
7.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
hoạch định chính sách thu hồi quyền sử dụng đất và giải quyết các vấn đề
chính trị - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hồi quyền sử dụng đất.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
chia làm 3 chương, 7 tiết.



9
Chương 1
THU HỒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NẢY SINH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY - CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Quan niệm về quyền sử dụng đất
Đất đai là tài nguyên, là nguồn lực quan trọng vì vậy ln là vấn đề
được quan tâm đặc biệt. Quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản và
quyền này được pháp luật bảo vệ đầy đủ, được đánh giá là một bước tiến mới
trong tư duy luật pháp.
Khoản 1 và 2, Điều 58 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy
định: Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật. Tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử
dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn. Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo
vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển
quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật.
Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ.
Tại nhiều hội thảo, hội nghị góp ý cho Dự thảo, nhiều ý kiến đánh giá việc
kế thừa quy định chế độ sở hữu toàn dân với đất đai nhưng quy định rõ quyền sử
dụng đất được coi là quyền sở hữu tài sản là một bước tiến đáng ghi nhận.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên từng nhận xét, đất đai là vấn
đề rất phức tạp, ngay trong quá trình soạn thảo đã có 3 quan điểm khác nhau.
Có người cho rằng quay trở lại Hiến pháp năm 1959 là đa dạng hình thức sở
hữu đất đai. Ý kiến thứ hai là vẫn giữ sở hữu toàn dân về đất đai nhưng đất ở
và đất nông nghiệp bảo đảm như quyền sở hữu. Thứ ba là giữ nguyên như
hiện nay. Đi sâu phân tích những vấn đề nêu trên, theo ông Hoàng Thế Liên,



10
những yếu tố chưa hiệu quả, gây bức xúc, tiêu cực trong vấn đề đất đai là do
chúng ta thể chế hóa pháp luật về chế định đất đai là sở hữu tồn dân chưa
đầy đủ. Mặt khác, có ngun nhân từ yếu kém trong công tác quản lý. Việc
Dự thảo khẳng định quyền sử dụng đất là quyền tài sản là bước tiến mới, rất
có lợi cho người dân và quyền này được pháp luật bảo vệ đầy đủ.
Ông Phạm Gia Túc, Phó Chủ tịch Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Việt Nam (VCCI) nhìn nhận, một trong những lý do khiến công tác quản lý
đất đai thời gian qua còn nhiều yếu kém là cơ chế "xin - cho" khá nặng nề,
cùng với việc sử dụng nhiều quy định, quyết định hành chính. Trong khi đó,
đất đai hay quyền sử dụng đất vốn là một loại hàng hóa đặc biệt, cần được
quản lý đúng với tính chất "hàng hóa" theo các biện pháp đặc thù. Để khắc
phục những bất cập này, cần phát huy các yếu tố thị trường trong quản lý đất
đai như đấu thầu quyền sử dụng đất dịch vụ một cách công khai, minh bạch;
định giá theo hướng thị trường thông qua việc sử dụng các tổ chức định giá
độc lập... Tán thành quy định "quyền sử dụng đất là quyền tài sản", ông Phạm
Gia Túc đề xuất bổ sung khoản 1, Điều 58 Dự thảo thành "Đất đai là tài
nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được
quản lý phù hợp với các yếu tố thị trường theo quy hoạch và pháp luật".
Trong q trình tham gia góp ý, có ý kiến đề xuất khoản 2, Điều 58 nên
rút gọn "Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ" thành
"quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ" cho ngắn gọn, cô đọng.
Trên cơ sở Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Điêu
167, Luật Đất Đai năm 2013 quy định người sử dụng đất có rất nhiều quyền
như: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Điều 166, Luật Đất Đai năm 2013, quy định người sử dụng đất có các
quyền chung:
Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản gắn liền với đất;


11
Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất;
Hưởng các lợi ích do cơng trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải
tạo đất nông nghiệp.
Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất
nông nghiệp;
Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp về đất đai của mình;
Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật này;
Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử
dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm Pháp luật về
đất đai [30, tr.177]
Như vậy: Nhà nước công nhận Quyền sử dụng đất” là việc Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà khơng có nguồn gốc
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với
thửa đất xác định.
“Nhà nước giao quyền sử dụng đất ” là việc Nhà nước ban hành quyết
định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng
đất”.
Quan niệm về thu hồi quyền sử dụng đất
Trong Dự Thảo sửa đổi Luật Đất Đai năm 2013, quy định các nội dung
liên quan tới thu hồi đất cũng là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Có ý kiến cho
rằng, Dự thảo quy định: "Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có
bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý
do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng và các dự
án phát triển kinh tế - xã hội" chưa ngắn gọn và mang tính hiến định cao, nên

thay cụm từ "thu hồi đất" bằng cụm từ "trưng mua quyền sử dụng đất". Về
vấn đề này, ông Dương Đăng Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật kinh tế (Bộ Tư


12
pháp) nhận xét, nên dùng từ thu hồi vì thể hiện đúng bản chất Nhà nước đại
diện quyền sở hữu toàn dân về đất và cá nhân, tổ chức chỉ được giao quyền sử
dụng. Do vậy, khi cần thiết thì phải thu hồi chứ không phải trưng mua. Trưng
mua chỉ phù hợp với tài sản là sở hữu của cá nhân hay tổ chức.
Nhìn nhận ở góc độ khác, bà Nguyễn Kim Thoa, Vụ trưởng Vụ Pháp
luật hình sự - hành chính (Bộ Tư pháp) cho rằng hiện tài sản lớn nhất của
người dân là đất đai. Nếu vì lợi ích an ninh, quốc phịng, cộng đồng thì người
dân phải hy sinh nhưng phải được bồi thường và trong trường hợp này nên
gọi là trưng mua.
Đối với các trường hợp thu hồi đất, ngồi đất phục vụ các cơng trình
cơng cộng, phục vụ lợi ích an ninh quốc gia, nhiều ý kiến đề nghị cần hết sức
thận trọng khi xem xét các trường hợp còn lại, nhất là với các dự án phát triển
kinh tế - xã hội. Bởi trước hết các cơng trình này khơng phục vụ mục đích
cơng cộng và hướng tới lợi ích tồn dân. Mặt khác, khi đưa ra các quy định
cũng cần tránh tình trạng đất đai tích tụ vào một số doanh nghiệp, lấy đất
nông nghiệp để phát triển đô thị, tạo ra chênh lệch địa tô lớn, kéo giãn khoảng
cách giàu nghèo.
Đất đai luôn là lĩnh vực nhạy cảm. Người dân hy vọng những quy định
liên quan tới đất đai được hiến định trong Dự thảo lần này sẽ góp phần quản
lý hữu hiệu hơn nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia, đồng thời
giải quyết được căn bản những mâu thuẫn phát sinh liên quan tới đất đai đang
chiếm tới 70% các vụ khiếu nại, tố cáo hiện nay.
Báo Tiền Phong số ra ngày 10/2/2014 có đăng bài viết ngày 23/11/
2013: Quốc Hội thảo luận Luật Đất đai băn khoăn cụm từ "thu hồi đất": một
số ý kiến cho rằng cần làm rõ hơn phạm vi và quyền hạn của Nhà nước với tư

cách là đại diện chủ sở hữu và quyền của người dân về đất đai, cũng như đảm
bảo hài hịa lợi ích trong quan hệ thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội.
Luật Đất đai dùng khái niệm: "thu hồi đất là chưa phù hợp". Bởi lẽ,


13
trong những năm 1930, chúng ta nêu lên khẩu hiệu "người cày có ruộng",
Cách mạng Nga cũng nêu lên khẩu hiệu "bánh mì và ruộng đất". Sau khi
giành chính quyền chúng ta cần phải lo ruộng đất cho dân, dùng khái niệm
"thu hồi đất" là chưa hợp lý vì khái niệm này chỉ nên quy định đối với các
trường hợp vi phạm Pháp luật về đất đai (ý kiến Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh
Thuận). Tương tự, các ý đều cho rằng, khái niệm thu hồi đất có phần bất hợp lý:
Đất đai là vẫn là của Nhà nước nên Nhà nước chỉ thu hồi quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, tại Luật Đất Đai năm 2013 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam vẫn xác định thuật ngữ “Thu hồi đất: “Là việc Nhà
nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm Pháp luật
về đất đai” [30, tr.9]. Theo Luật Đất Đai, việc thu hồi đất để phục vụ cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là chuyển đổi tính chất của đất từ đất
nơng nghiệp sang đất phi nơng nghiệp. Do đó, việc thu hồi đất có thể cho
nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác nhau, nhưng hiện nay ở nước ta mục tiêu
chủ yếu vẫn là để phục vụ cho quá trình phát triển các khu cơng nghiệp, cụm
cơng nghiệp, đơ thị hóa từ trung ương đến địa phương.
Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã khẳng định rằng, sở hữu toàn dân về đất
đai là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đã được xác
định trong Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Luật đất đai sửa đổi
cũng đã khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý.Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất theo quy định của pháp luật. Vấn đề sở hữu đất đai không chỉ là vấn
đề kinh tế mà cịn là vấn đề chính trị-xã hội quan trọng. Để phục vụ công cuộc

xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước thì bên cạnh việc thu hồi đất vì mục
đích quốc phịng, an ninh, vì lợi ích quốc gia thì nhà nước vẫn cần thu hồi đất
để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, luật đất đai phải quy
định thật cụ thể các trường hợp thu hồi đất và việc thu hồi đất phải đảm bảo
công khai, minh bạch, cơng bằng và phải có chính sách bồi thường thỏa đáng


14
cho người dân bị thu hồi quyền sử dụng đất.
1.1.2. Quan niệm về những vấn đề chính trị - xã hội
Theo C.Mác, nghĩa rộng nhất của khái niệm xã hội là: xã hội dưới hình
thái nào, Là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Trên thực tế, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã đồng thời sử
dụng khái niệm “xã hội” theo nghĩa hẹp hơn, ngang cấp với khái niệm “Chính
trị”, “kinh tế”, “văn hóa”. Đó là khái niệm “Xã hội” phản ánh những quan hệ,
những hoạt động, những mặt cụ thể hơn của xã hội đã, đang và sẽ nảy sinh
một cách khách quan cùng với các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, nó
chứa đựng và phản ánh những vấn đề xã hội của con người. Chúng tôi xem
xét vấn đề xã hội theo hướng này.
Tuy nhiên không thể tách rời một cách rành rọt vấn đề xã hội với các
vấn đề chính trị, kinh tế và văn hóa…ví dụ vấn đề việc làm, thu nhập, nghèo
đói, cơng bằng, tệ nạn xã hội…Những vấn đề đó ln có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đồng thời nếu theo nghĩa rộng thì mọi vấn đề kinh tế, văn hóa…đều
mang tính chính trị - xã hội.
Từ khi lồi người bắt đầu sinh sống trong cộng đồng, thì đồng thời nảy
sinh những quan hệ giữa người với người, giữa con người với cộng đồng và
từ đó tất yếu nảy sinh những vấn đề phải giải quyết trên các mặt: kinh tế,
chính trị, đạo đức…các quan hệ đó trong khơng gian và thời gian bao giờ
cũng nảy sinh “các vấn đề xã hội” cần xử lý hoặc điều chỉnh để tạo thế cân
bằng, ổn định và phát triển xã hội.

Theo các nhà nghiên cứu phương Tây “vấn đề xã hội” lần đầu tiên được
đặt ra vào những năm 30 của thế kỷ XIX, như là một khó khăn căn bản, nan
giải của một xã hội, trong đó sự bền vững bị đe dọa và xã hội lâm vào nguy
cơ tan rã do những điều kiện sinh sống của những tác nhân, đồng thời là
những nạn nhân của cuộc cách mạng công nghiệp hóa dã man.
Trong những năm 40 của thế kỷ XIX. C. Mác và Ph. Ăngghen đã đặc
biệt quan tâm đến đời sống xã hội của quần chúng nhân dân lao động khi mà


15
chính họ là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội nhưng lại phải sống
trong môi trường “phi nhân tính”. Trong tác phẩm “Tình cảnh những người
lao động ở Anh”, Ph. Ăngghen đã tập trung nghiên cứu vấn đề xã hội nảy
sinh trong xã hội TBCN dưới sự tác động mạnh mẽ của tích lũy tư bản và sự
phát triển của đại công nghiệp. Ở đây, Ph. Ăngghen chủ yếu xem xét vấn đề
xã hội gắn liền với sự bóc lột và thống trị của giai cấp tư sản trong điều kiện
của đại công nghiệp. Trong tác phẩm đó, Ăngghen khẳng định: đời sống của
giai cấp cơng nhân Anh (điều kiện lao động, thất nghiệp, điều kiện sinh
hoạt…) đã bị rơi xuống đáy của xã hội, đe dọa chính chế độ bóc lột làm th
của giai cấp tư sản.
Như vậy, khái niệm “vấn đề xã hội” được nghiên cứu theo nghĩa hẹp,
chỉ độc lập một cách tương đối với các vấn đề kinh tế, văn hóa. Đối với các
nhà nghiên cứu xã hội học: có vấn đề xã hội khi những thành viên của một
cộng đồng (lớn hay nhỏ) nhận thấy những dấu hiệu hoặc những điều kiện có
ảnh hưởng tác động hoặc đe dọa đến chất lượng cuộc sống của họ (Chất
lượng cuộc sống ở đây được hiểu theo nghĩa rộng) và đòi hỏi những biện
pháp để phịng ngừa, ngăn chặn hoặc giải quyết tình trạng đó theo hướng có
lợi cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng (lớn hoăc nhỏ).
Từ sự phân tích, xét trên bình diện chung nhất: Vấn đề chính trị - xã
hội là những vấn đề luôn luôn tồn tại một cách khách quan trong mối quan hệ

giữa người với người. Nó phản ánh các mối quan hệ về lợi ích (đặc biệt là lợi
ích kinh tế) và khuynh hướng cản trở sự phát triển của các cộng đồng người
đó. Nó đặt ra yêu cầu phải ngăn chặn, giải quyết kịp thời sự nảy sinh, giải
quyết của các vấn đề chính trị - xã hội để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển ổn định của cộng đồng người trong xã hội đó.
Mỗi xã hội, mỗi thời đại đều phải giải quyết những vấn đề chính trị - xã
hội do xã hội tạo ra hoặc do thời đại trước để lại, đồng thời phải đối phó với
những vấn đề chính trị - xã hội mới nảy sinh trong hiện tại cũng như trong
tương lai. Trong các vấn đề chính trị - xã hội (chính xác hơn là những vấn đề


16
xã hội) có những vấn đề mang tính tồn cầu như: sự bùng nổ về dân số,
HIV/AIDS, ô nhiễm môi trường, đói nghèo, việc làm, thu nhập…có loại vấn
đề chính trị - xã hội “gay cấn” hay những “điểm nóng”, về thực chất những
vấn đề chính trị - xã hội “gay cấn” hay những “điểm nóng” thường là những
vấn đề xã hội bức xúc, có quy mơ hoặc có cường độ đạt tới hoặc vượt qua
điểm “giới hạn” gây ra những phản ứng hoặc những hiệu ứng tiêu cực trong
xã hội, mà nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây nguy hiểm hoặc nguy
hại cho xã hội, gây mất an toàn và ổn định xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên nhân sâu xa và căn bản của những
vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh là những hạn chế của phương thức sản xuất.
Mỗi phương thức sản xuất lại làm nảy sinh những vấn đề chính trị - xã hội và
phong trào xã hội tương ứng, bởi vì những mâu thuẫn kinh tế tất yếu dẫn đến
những mâu thuẫn chính trị - xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu
của chủ nghĩa tư bản là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản.
Để đạt được mục tiêu đã được xác định, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ
trương, giải pháp về các vần đề chính trị - xã hội, trong đó có những mặt tiến
bộ như: coi trọng việc giảm nhẹ bất bình đẳng trong xã hội cũng như tìm cách

giảm căng thẳng trong xã hội. Tuy nhiên, những mặt tiến bộ ấy khơng bền
vững vì mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là xã hội hóa của sản xuất và
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn cịn tồn tại và những giải pháp đó xét
đến cùng vẫn là để thực hiện tốt hơn mục đích cuối cùng của chủ nghĩa tư bản.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người làm chủ, con
người được coi là vốn quý nhất, mục tiêu phục vụ của chủ nghĩa xã hội là
nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Do vậy, Nhà nước xã hội xã
hội chủ nghĩa luôn tạo ra những khả năng khách quan để thủ tiêu tình trạng
người bóc lột người, cải thiện không ngừng các điều kiện sống, tạo ra các tiền
đề cho sự phát triển của cá nhân, của người lao động để tự họ tham gia có
hiệu quả các hoạt động sống, cũng như xây dựng một xã hội dân chủ, công


17
bằng, văn minh.
Đồng thời, ở một nước trong một phương thức sản xuất nhất định ở
những giai đoạn phát triển khác nhau đều có những vấn đề chính trị - xã hội
cần thiết phải giải quyết khác nhau tùy theo những điều kiện về chính trị, kinh
tế, văn hóa khác nhau. Ở nước ta, khi bước vào giai đoạn đổi mới (từ 1986
đến nay), trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có hàng loạt các vấn đề
chính trị - xã hội cấp bách đặt ra. Đến Đại hội VII của Đảng (1991), chúng ta
vẫn đứng trước nhiều vấn đề chính trị - xã hội cần được giải quyết (các vấn đề
chính trị - xã hội ở đây theo nghĩa các vấn đề xã hội). Đại hội đã vạch ra ba
loại vấn đề xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội:
Trước hết, đó là vấn đề do lịch sử và do hậu quả chiến tranh để lại
như việc chăm sóc, đền ơn, trả nghĩa đối với những người có cơng
với đất nước, với cách mạng, việc cứu trợ những nạn nhân chiến
tranh, những trẻ mồ côi, những bệnh tật và những tệ nạn xã hội…
Thứ hai, đó là vấn đề nảy sinh từ nền kinh tế - xã hội lạc hậu, kém

phát triển như thất nghiệp, mức sống thấp, tỷ lệ phát triển dân số
cao, mê tín dị đoan…Thứ ba, đó là loại vấn đề mới phát sinh như
những vấn đề xã hội liên quan đến việc phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, chuyển sang cơ chế thị trường, giải quyết vấn
đề ruộng đất ở nông thôn, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội,
phân bố lại dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới, việc giảm biên
chế các cơ quan và giảm quân số [10, tr.143].
Đại hội VIII của Đảng đã xác định, trong những năm trước mắt, phải
giải quyết tốt một số vấn đề xã hội sau: tạo việc làm, thực hiện xóa đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động từ thiện, đẩy
mạnh công tác kế hoạch hóa gia đình, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu, những vấn đề chính trị - xã hội nảy


18
sinh là tổng hòa các yêu cầu của mọi tầng lớp nhân dân lao động trên các lĩnh
vực lao động, việc làm, nhà ở, đi lại, sức khỏe và môi trường sinh thái…cần
phải giải quyết trong quá trình từng bước cải tạo xã hội cũ, tạo những tiền đề,
cơ sở vật chất để xây dựng xã hội mới trong tương lai, nhằm nâng cao một cách
cơ bản đời sống vật chất và tinh thần, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng xã
hội và bảo đảm cho con người phát triển ngày càng tồn diện.
1.2. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC THU HỒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI NẢY SINH

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả luận văn chủ yếu đề cập
đến việc Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp của người dân để
chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp, từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ,
giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm, thủy sản.
Đất nông nghiệp là một tư liệu sản xuất đặc biệt của nông dân. Phần lớn

đất nông nghiệp được nông dân sử dụng để canh tác nhằm tạo ra sản phẩm
nông nghiệp đáp ứng nhu cầu đời sống của xã hội. Tùy điều kiện tự nhiên mà
Luật pháp mỗi quốc gia quy định đất nơng nghiệp theo các nhóm khác nhau.
Ở nước ta, theo Luật Đất đai, Chương 1, Điều 10, Mục 1 đã xác định: Nhóm
đất nơng nghiệp bao gồm các loại đất sau đây: a, Đất trồng cây hàng năm gồm
đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; b, Đất trồng cây lâu năm; c, Đất
rừng sản xuất; d, Đất rừng phòng hộ; đ, Đất rừng đặc dụng; e, Đất nuôi trồng
thủy sản; g, Đất làm muối; h, Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây
dựng nhà kính và các loại động vật khác… [30].
Quan niệm trên về đất nông nghiệp tập trung vào mơ tả mục đích sử dụng
đất, nhưng nó cũng thể hiện được bản chất của vấn đề, đó là nó gắn liền với
nông dân, nông thôn - địa bàn cư trú chủ yếu của đại bộ phận dân cư nước ta.
1.2.1. Tính tất yếu của việc thu hồi quyền sử dụng đất để phát triển
kinh tế - xã hội và các mục tiêu quốc gia
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là những vấn đề chính trị - xã hội trọng


19
tâm và cấp bách, đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước
chậm và đang phát triển. Đối với các nước này, cơng nghiệp hóa là một tất
yếu khách quan khơng thể bỏ qua. Chỉ có cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mới
có khả năng rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển đi trước và trở
thành một nước công nghiệp phát triển. Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ
nói riêng đều nằm trong xu hướng phát triển đó, để thực hiện được con đường
phát triển khách quan đó thì việc thu hồi quyền sử dụng đất của người dân trở
thành một tất yếu khách quan.
- Thứ nhất, thu hồi quyền sử dụng đất để có mặt bằng xây dựng các khu
cơng nghiệp, khu chế xuất, thu hút đầu tư trong và ngoài nước phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
Thu hồi quyền sử dụng đất để có mặt bằng xây dựng các cơ sở sản xuất

công nghiệp, khu công nghiệp, cụm cơng nghiệp nhằm thu hút đầu tư trong và
ngồi nước cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, của địa
phương. Muốn đưa nước ta trở thành một nước cơng nghiệp hiện đại thì nhất
thiết phải xây dựng và phát triển được hệ thống sản xuất công nghiệp và như
vậy thì khơng thể khơng chuyển một lượng diện tích đất nơng nghiệp cho việc
tạo mặt bằng triển khai hoạt động.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển các khu cơng nghiệp
nhằm phát triển hình thức bố trí sản xuất cơng nghiệp mới, góp phần quan
trọng để ngành công nghiệp Việt Nam phát triển hiệu quả, tăng năng lực sản
xuất và sản lượng công nghiệp để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu trong nước;
tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, nâng cao đời sống cho nhân
dân. Lợi ích to lớn của việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu
chế xuất, cải thiện, nâng cấp hạ tầng cơ sở là thu hút được nhiều vốn đầu tư cần
thiết từ bên ngoài để phát triển sản xuất, tăng giá trị sản xuất hàng công nghiệp.
Đất đai là tài nguyên hữu hạn, tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực,
nguồn vốn to lớn, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc


20
phịng; có ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Bên cạnh đó, đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất của
các thế hệ tiếp sau của lồi người. Vì vậy trong sử dụng đất phải có trách nhiệm
duy trì và đảm bảo chất lượng đất tốt hơn cho con cháu mai sau.
Ở nước ta quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu
chế xuất, cụm công nghiệp, nhằm thu hút đầu tư nước ngồi phát triển cơng
nghiệp và dịch vụ là một trong các xu hướng đã và đang diễn ra. Theo số liệu
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2010, cả nước có 260 khu cơng
nghiệp được thành lập với tổng diện tích trên 71.300 ha nhưng tỷ lệ lấp đầy
tại các Khu công nghiệp mới chỉ đạt 46% [24, tr.15].

Thực hiện Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003, Ủy ban
nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 1997 2010, được điều chỉnh vào năm 2003 và 2006. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế
- xã hội chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đơ thị hóa cũng như khả năng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về kinh tế,
kỹ thuật và xã hội của tỉnh trong những qua diễn ra với tốc độ cao, địi hỏi
phải bố trí lại quỹ đất để đáp ứng nhu cầu phát triển của từng ngành, từng lĩnh
vực nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển chung, đảm bảo mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của địa phương trong những năm tới theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế phát triển chung của cả
nước và của vùng Trung du miền núi Bắc bộ.
Phú Thọ là một trong những tỉnh được chọn là vùng kinh tế công
nghiệp trọng điểm của cả nước trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước. Do vậy,
tỉnh Phú Thọ đã được tập trung đầu tư xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng
và các nhà máy công nghiệp với quy mô lớn. Theo số liệu thống kê các năm
cho thấy, công nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp tỉnh Phú Thọ đã hình thành, phát
triển và tập trung chủ yếu ở thành phố Việt Trì, Thị xã Phú Thọ, các huyện
Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông với hàng loạt các khu công nghiệp tập trung
và các cụm công nghiệp. Với lợi thế về giao thông cả đường thủy, đường bộ
và đường sắt, tỉnh đã phát triển quy hoạch nhiều khu, cụm công nghiệp với


21
tổng diện tích lên đến hàng chục ngàn hecta.
Thực tế cho thấy, nhờ có đất thu hồi mà cả nước nói chung và tỉnh Phú
Thọ nói riêng đã xây dựng được nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp
cũng như xây dựng các khu đô thị, khu chế xuất thu hút hàng ngàn dự án đầu
tư với số vốn lên tới hàng chục tỷ USD và hàng ngàn tỷ đồng phục vụ cho xây
dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn 2000 - 2010, diện tích đất trồng lúa cả nước đã giảm gần
370.000 ha, trong đó giảm mạnh nhất trong 5 năm 2000 - 2005 với hơn

300.000 ha. Xu hướng giảm diện tích đất trồng lúa diễn ra ở hầu hết các vùng
trong phạm vi cả nước, ngun nhân chính là do q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển hạ tầng cơ sở, xây dựng các khu cộng nghiệp, cụm
công nghiệp. Từ 2009 đến nay, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã tiến hành cơng
tác thu hồi đất giải phóng mặt bằng để xây dựng các cơng trình giao thơng
như: Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; Đường Hồ Chí Minh; Cầu Hạ Hòa,
cầu Ngọc Tháp, Quốc lộ 32 kéo dài, Quốc lộ 32A, các tuyến đường tỉnh,
đường huyện, giao thông nông thôn…đã tạo bước chuyển rõ rệt trong phát
triển kinh tế - xã hội [32].
Đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã hình thành và quy hoạch
ổn định 07 khu công nghiệp (KCN) và 22 cụm công nghiệp (CCN) với tổng
diện tích gần 4000 ha, trong đó có nhiều khu cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp
có quy mơ lớn để đón các dự án đầu tư lớn được xem như trọng điểm của tỉnh
như: KCN Thụy Vân, KCN Trung Hà và các cụm công nghiệp như: Bạch Hạc
(Thành phố Việt Trì), Cổ Tiết (Tam Nơng)…ngồi ra tỉnh cịn có quỹ đất dự
trữ để quy hoạch cho phát triển công nghiệp tập trung với diện tích vào
khoảng 3000 ha [43, tr.46].
Tỉnh Phú Thọ có 07 khu cơng nghiệp được Chính phủ phê duyệt vào
danh mục các Khu công nghiệp tập trung đến năm 2015, định hướng đến năm
2020, gồm: KCN Thụy Vân (là khu công nghiệp được thành lập theo Quyết
định số 836/QĐ-TTg ngày 7/10 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ với tổng


22
diện tích quy hoạch KCN là 305,38 ha); KCN Trung Hà (huyện Tam Nơng,
được Thủ tướng Chính phủ chủ trương thành lập tại Văn bản số 655/TTg-CN
ngày 27/5/2005, có diện tích quy hoạch ban đầu là 126,6 ha sau điều chỉnh lên
là 200 ha (năm 2008))…một số KCN được bổ sung vào danh mục ưu tiên và
thành lập mới như: KCN Phú Hà (thị xã Phú Thọ); KCN Tam Nông (huyện
Tam Nơng); KCN Cẩm Khê; KCN Hạ Hịa. Ngồi ra, tỉnh cũng có chủ trương

quy hoạch thêm các KCN cho các giai đoạn phát triển sau này: KCN Thanh
Thủy (huyện Thanh Thủy, 250 ha); KCN Lâm Thao (400 ha) [43, tr.48].
- Thứ hai, thu hồi quyền sử dụng đất để chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, thúc đẩy nhanh quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao đời
sống nhân dân.
Chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế cơng nghiệp hay
cơng nghiệp hóa là xu thế tất yếu của tất cả các nước trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa đang là một trong
những nhân tố quyết định làm thay đổi chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở
nhiều nơi trên phạm vi cả nước. Ngày nay, cùng với sự phát triển của Cách
mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, công nghiệp hóa lại gắn với
hiện đại hóa và đơ thị hóa, làm biến đổi cấu trúc kinh tế thúc đẩy các ngành
nghề có hàm lượng tri thức cao, sử dụng cơng nghệ hiện đại, tạo điều kiện cho
các nước đi sau có thể rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa.
Ở nước ta, cơng nghiệp hóa được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III (1960), Đảng ta đã nêu rõ:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình thay đổi toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội
từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện lao động và phương
tiện tiên tiến dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [11, tr.4].


23
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đề ra chủ trương:
Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh
những ngành có tính nền tảng có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến
lược, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh
tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng lưới

sản xuất và phân phối toàn cầu [14, tr.193].
và đặt ra chỉ tiêu đến năm 2015, công nghiệp và xây dựng đạt 41- 42%, sản
phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GP
[14, tr.190]. Như vậy, để tiến hành q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta chúng ta vừa phải chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công
nghiệp vừa phải xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi tất yếu phải chuyển
đổi một phần diện tích đất nơng nghiệp ở nơng thôn để phát triển đô thị, xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho q trình đơ thị hóa nên cần thiết phải thu hồi
đất để phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu đô thị, kết cấu
hạ tầng đồng nghĩa với việc phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng phát triển mạnh công nghiệp và thương mại, dịch vụ khu vực nông
thôn, tạo điều kiện cho lao động nông thôn tiếp cận với máy móc, thiết bị và
quy trình sản xuất cơng nghiệp trên địa bàn nông thôn.
Người dân từ chỗ sống và làm việc ở nơng thơn nay có bước chuyển
sang sống và làm việc tại các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, khu
thương mại, dịch vụ. Kinh tế tăng trưởng đóng góp việc đẩy mạnh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động của các ngành công nghiệp, dịch
vụ thương mại, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Mức sống và điều kiện sống của nhiều người dân vùng đơ thị và vùng
có khu cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp, vùng có hạ tầng cơ sở phát triển đã
tăng lên, nhu cầu vật chất và tinh thần có sự thay đổi rõ rệt. Phát triển công
nghiệp và phát triển đô thị tạo cơ hội cho người dân học hỏi, tiếp thu kiến


24
thức khoa học và công nghệ mới trong phát triển kinh tế - xã hội.
Người dân bắt đầu chủ động, năng động hơn trong việc tìm kiếm việc
làm, nâng cao thu nhập và làm giàu chính đáng. Thúc đẩy nhanh q trình

cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa cịn là động lực cho người dân trong việc chuyển
đổi cơ cấu nghề nghiệp, đa dang hóa nghề nghiệp. Một bộ phận đáng kể
người dân có đời sống ngày càng cao, cơng tác đầu tư cho giáo dục, y tế có sự
phát triển; nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nhu cầu về thẩm mỹ ngày càng phong
phú và không ngừng nâng cao. Những tiện nghi sinh hoạt hiện đại trở thành
phổ biến trong các gia đình dân cư, đặc biệt là các vùng đơ thị.
Nghị định số 36/NĐ-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã định nghĩa: Khu công nghiệp là khu tập trung
các doanh nghiệp chun sản xuất hàng hóa cơng nghiệp và thực hiện các
dịch vụ sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định(có tường bao
quanh, khơng có dân cư sinh sống), do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định thành lập (theo trình tự pháp luật).
Đơ thị hóa là quá trình song song với sự phát triển của cơng nghiệp hóa
và cách mạng khoa học, cơng nghệ, biểu hiện cụ thể là dân cư nông thôn
chuyển dần sang sinh sống tại các đô thị.
Mục tiêu mà nước ta đề ra có khoảng 38% dân số đơ thị vào năm 2015
và 40% vào năm 2020 là khó đạt, vì tốc độ quy hoạch đô thị đang diễn ra
nhanh trên phạm vi cả nước nhưng vẫn chưa đồng bộ với việc phát triển dân
số đơ thị [8, tr.25].
Trong tiến trình phát triển chung của tỉnh, nhất là trong quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó là việc quy hoạch, sắp xếp, chuyển
đổi mục đích sử dụng đất là một tất yếu.
Việc thu hồi đất để xây dựng và phát triển đô thị bao gồm các cơng
trình nhà ở của dân cư đơ thị, trụ sở làm việc của bộ máy hành chính, các
cơng trình cơng cộng phúc lợi xã hội như: trường học, bệnh viện, cơng viên,
các cơng trình phục vụ sản xuất kinh doanh thương mại ở đô thị, các công


25

trình dịch vụ giao thơng, điện, nước…song song với q trình cơng nghiệp
hóa, các đơ thị sẽ mọc lên nhanh chóng. Nhu cầu mở rộng đơ thị trở nên cấp
thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng dân số đô thị.
- Thứ ba, thu hồi quyền sử dụng đất để xây dựng mới hệ thống kết cấu
hạ tầng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Do nằm trong một cơ cấu kinh tế, các ngành kinh tế có quan hệ thúc
đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, do đó, khi thu hồi đất để phát triển cơng nghiệp thì tất
yếu sẽ phát triển các ngành có liên quan, đó là dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ
tầng như: các nhu cầu xây dựng hạ tầng giao thông, hệ thống điện lưới quốc
gia, thơng tin, liên lạc, bưu chính viễn thơng, hệ thống thủy lợi…Việc xây
dựng kết cấu hạ tầng là nhu cầu cấp thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước nói chung và của tỉnh, của địa phương nói riêng. Thực tế cho thấy, ở
những nơi có vị trí địa lý, giao thơng thuận lợi, kết cầu hạ tầng cơ bản sẽ có
điều kiện phát triển hơn so với những nơi khác, đặc biệt là các địa phương
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn khó khăn, hạn chế trong việc đầu tư
xây dựng hạ tầng cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều này địi hỏi phải
mở rộng diện tích đất thu hồi đã và đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp
để chuyển sang phát triển công nghiệp và dịch vụ…vì lợi ích chung của nền
kinh tế quốc dân.
Vì vậy, để phát triển mọi mặt của đời sống xã hội cần phải có kết cấu
hạ tầng hiện đại và tương đối đồng bộ, đây là một trong những tiêu chí của
hiện đại hóa, đồng thời cũng là tiêu chí trong bộ tiêu chí để xây dựng nơng
thơn mới hiện nay. Kết cấu hạ tầng phát triển, sẽ thúc đẩy giao lưu kinh tế,
văn hóa, xã hội giữa các vùng, miền, rộng hơn là giữa các quốc gia. Sự phát
triển hệ thống này có vai trị quan trọng trong việc thu hút các nguồn đầu tư
trong và ngoài nước, mở rộng thị trường…Quỹ đất để xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng chủ yếu là quỹ đất được chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nơng
nghiệp bị thu hồi.
Ở nước ta kết cấu hạ tầng được đầu tư khá mạnh, giai đoạn 2001 - 2008



×