Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ thành phố hà nội đối với các tổ chức công đoàn giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.59 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm chăm lo xây dựng các tổ chức chính trị xã hội, trong đó có tổ chức cơng đồn. Lãnh đạo tổ chức cơng đồn là một trong
những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố
quan trọng, góp phần quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam.
Cơng đồn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là thành viên của hệ thống chính trị. Điều 10 - Hiến pháp nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức cơng đồn.
Cơng đồn Việt Nam tiền thân là Tổng Cơng hội Đỏ Bắc Kỳ nay là
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, được thành lập ngày 27 tháng 8 năm
1929. Trong quá trình hình thành và phát triển, tổ chức cơng đồn ln được
Đảng ta quan tâm lãnh đạo. Do đó, tổ chức cơng đồn đã tập hợp, đồn kết
lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; thực
hiện chức năng đại diện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ); tham gia quản lý kinh tế - xã hội,
tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế;
tuyên truyền, vận động, giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm chủ,
thực hiện nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó
có tổ chức cơng đồn, Đảng ta đã tập hợp được lực lượng cách mạng đông đảo,
phát động được nhiều phong trào cách mạng rộng lớn trong nhân dân, đưa cách
mạng nước ta vượt qua bao khó khăn gian khổ, khơng ngừng tiến lên. Có thể
nói, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều được bắt nguồn từ sức mạnh to


2
lớn của nhân dân, trong đó có CNVCLĐ và tổ chức cơng đồn dưới sự lãnh đạo


của Đảng. Do đó, có thể khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức cơng
đồn là một u cầu khách quan, xuất phát từ chính vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của Cơng đồn và bản chất, vai trị lao động của Đảng. Thoát ly sự
lãnh đạo của Đảng, tổ chức cơng đồn khó có thể phát huy hết chức năng, nhiệm
vụ. Ngược lại, xem nhẹ sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức cơng đồn là thiếu
sót và hạn chế hiệu quả lãnh đạo. Trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt sau
khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa
X về xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ CNH - HĐH cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của giai cấp cơng nhân, Cơng đồn cũng đang trong quá trình đổi mới.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của Cơng đồn cịn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu
kém, chưa theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở nhiều doanh nghiệp, nhất là ở
những doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước chưa thành lập được tổ chức cơng
đồn. Ở những nơi đã thành lập nhưng hoạt động kém hiệu quả, tổ chức cơng
đồn chưa phát huy được vai trò đại diện cho quyền lợi của cơng nhân, viên
chức và người lao động… Tình hình đó địi hỏi phải đặc biệt coi trọng sự lãnh
đạo của Đảng đối với Cơng đồn, nhất là chú trọng việc đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Cơng đồn nhằm xây dựng tổ chức cơng
đồn tổ chức và hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước.
Hà Nội là thủ đô của cả nước, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa.
Trong những năm qua, góp phần vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của
Thủ đơ, có sự tham gia tích cực của tổ chức cơng đồn. Tỷ trọng giá trị sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp không ngừng tăng lên trong cơ cấu
GDP của thành phố. Đội ngũ công nhân lao động của Thành phố cũng tăng
nhanh cả về số lượng và chất lượng và ngày càng có nhiều đóng góp vào sự
phát triển của Thành phố.


3

Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị, tầm quan trọng của tổ chức cơng đồn,
trước u cầu của tình hình nhiệm vụ mới, Đảng bộ thành phố Hà Nội đã tăng
cường sự quan tâm đối với tổ chức công đoàn, đặc biệt là chú trọng đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với tổ chức cơng đồn, đẩy mạnh cơng tác tuyên
truyền, giáo dục, phát triển đoàn viên, xây dựng Cơng đồn cơ sở, nghiệp
đồn ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
CNVCLĐ trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong
sạch, vững mạnh. Mỗi bước trưởng thành và lớn mạnh của tổ chức cơng đồn
đều gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Thành phố Hà Nội đang quyết tâm đẩy nhanh, đẩy mạnh CNH - HĐH,
lực lượng CNVCLĐ đang phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đặt
ra những yêu cầu mới đối với tổ chức và hoạt động của Công đồn. Tuy
nhiên, hoạt động của Cơng đồn vẫn cịn nhiều hạn chế, nhất là sức thu hút và
vai trò của tổ chức cơng đồn chưa cao. Ở nhiều nơi, đời sống vật chất tinh
thần của CNVCLĐ cịn gặp nhiều khó khăn… Đối với chủ thể lãnh đạo, một
số cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức sâu sắc về vai trị của Cơng đồn
và chưa quan tâm đúng mức đến sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với tổ chức cơng
đồn. Khơng ít những vấn đề khó khăn về tổ chức, vướng mắc trong hoạt
động, trong mối quan hệ phối kết hợp của tổ chức cơng đồn với Ủy ban nhân
dân, các ban, ngành chức năng chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm giải
quyết kịp thời, dẫn đến hạn chế hiệu quả của Cơng đồn cũng như làm giảm
vai trò lãnh đạo của cấp ủy. Ở một nơi việc đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với tổ chức cơng đồn chưa được quan tâm
thường xuyên; nhiều nơi còn lúng túng bị động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức cơng đồn, dẫn đến
hiệu quả lãnh đạo còn hạn chế… Những yếu kém nêu trên gắn liền với trách
nhiệm của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Để thành phố Hà Nội vượt qua những khó khăn, thử thách, tiếp tục phát
triển, thực sự là địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH, vấn đề mấu



4
chốt là phải tăng cường sự lãnh đạo, chú trọng đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng bộ thành phố đối với các tổ chức chính trị - xã hội, trong
đó có tổ chức cơng đồn. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với các tổ chức
cơng đồn giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố đối với tổ chức cơng đồn, xây dựng tổ chức cơng đồn
trên địa bàn Thành phố Hà Nội ngày càng vững mạnh, phát huy tốt vai trò
trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đối với Mặt trận và
các đồn thể nói chung và đối với Cơng đồn nói riêng là một nội dung quan
trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu,
nhiều nhà khoa học, nhiều luận văn, luận án, nhiều báo cáo khoa học đã được
công bố đề cập đến vấn đề này ở những giác độ khác nhau. Có thể nêu một số
cơng trình tiêu biểu như:
* Sách, đề tài khoa học
- Đặc điểm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
chính trị. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và đoàn thể, tổ chức xã hội.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.05.06, năm 1995.
Đề tài đã phân tích sâu sắc đặc điểm, nội dung, phương thức hành động
của Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước
ta; thơng qua đặc điểm hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, xác định
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức, đồn thể trong hệ thống
chính trị ở nước ta.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới. TS. Đỗ Quang Tuấn, chủ biên, Nxb.
CTQG, HN, 2006. Đây là cuốn sách đề cập khá hoàn chỉnh về phương thức



5
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong điều kiện
nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện. Tác giả đã luận giải khá sâu sắc cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong điều kiện mới; nêu lên những tồn
tại, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng đối với Mặt
trận và các đoàn thể; đồng thời xác định nội dung, phương thức lãnh đạo và
đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phù hợp với đặc điểm, yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Cơng nhân và Cơng đồn
"Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Cơng đồn Việt
Nam trong thời kỳ mới", Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Trọng Phúc (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới", Nxb. CTQG, HN.
- Dương Văn Sao (2005), "Thực trạng và những giải pháp đổi mới quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước với Cơng đồn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Hùng, Thực trạng và giải pháp về sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động công nhân và xây dựng tổ chức đoàn thể ở một số
doanh nghiệp ngoài Nhà nước hiện nay, đề tài khoa học, 2003.
- Nguyễn Phú Trọng (2001), Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với
Cơng đồn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
- Đan Tâm (2003), Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Cơng đồn trong nền kinh tế thị trường, Nxb. Lao động, Hà Nội.
- Phạm Ngọc Quang (2008), Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, HN.
- Lê Hữu Nghĩa, Hồng Chí Bảo, Bùi Đình Biên (đồng chủ biên, 2008),
Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, Nxb.

CTQT, Hà Nội.


6
- Nguyễn Hữu Đổng (chủ biên 2009), Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nxb. CTQG, Hà Nội.
* Luận văn, luận án
- Võ Văn Vĩnh (2005), "Thành ủy Đà Nẵng lãnh đạo Liên đoàn Lao
động thành phố giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đặng Văn Chương (2007), Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam đối
với Liên đoàn lao động tỉnh giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Hồng (2007), "Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tiền Giang đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội giai đoạn hiện nay",
luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Thị Bé Phượng (2010), "Sự lãnh đạo của Huyện ủy đối với Liên
đoàn Lao động huyện ở tỉnh Tiền Giang giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Lộc (2012), "Tỉnh ủy Bình Dương lãnh đạo Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay", luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Thảo (2012), "Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo Liên đoàn
Lao động trong giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
* Bài báo khoa học
- Đan Tâm, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp cơng

nhân trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, 1999, số 7.


7
- Lê Thanh Hà, Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạp chí Lịch
sử Đảng, 2013, số 4.
- Nguyễn An Lương, Giai cấp công nhân và tổ chức cơng đồn Việt
Nam trước thời cơ và thách thức mới, Tạp chí Cộng sản, 2003, số 29.
- Văn Tạo, Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua văn
kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản, 2006, số 10.
- Đặng Ngọc Tùng (2009), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam và
tổ chức cơng đồn vững mạnh, Tạo chí Cơng nhân và Cơng đồn, số 8/2009.
Các cơng trình, đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học đã làm sáng tỏ
thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị nói chung và tổ chức cơng đồn nói riêng, đặc biệt là phương
thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Cơng đồn. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về đề tài "Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với các tổ chức cơng
đồn giai đoạn hiện nay".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với tổ chức cơng đồn, luận
văn nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với tổ chức cơng
đồn đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với tổ chức cơng đồn.

- Khảo sát đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ chức cơng đồn và
thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối


8
với các tổ chức cơng đồn; nêu ngun nhân của thực trạng và đúc rút những
kinh nghiệm bước đầu.
- Nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với các tổ
chức cơng đồn đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội đối với tổ chức cơng đồn giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với
tổ chức cơng đồn các cấp trực thuộc các cấp ủy thành phố từ năm 2008 đến
nay. Những giải pháp nêu trong luận văn có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về Cơng đồn và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức cơng đồn. Đồng thời luận
văn kế thừa về lý luận của những cơng trình khoa học đã được công bố.
- Luận văn nghiên cứu dựa trên các báo cáo tổng kết hoạt động của
Công đoàn các cấp và các báo cáo của các cấp ủy Đảng ở Đảng bộ Thành phố
Hà Nội về công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: lôgic - lịch sử,
phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng


9
kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp về khoa học
Góp phần làm rõ nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội đối với tổ chức cơng đồn; đề xuất những giải pháp tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội đối với tổ
chức cơng đồn đến năm 2020.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cấp ủy Đảng ở Thành phố Hà Nội. Đồng thời còn sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị
quận, huyện, thị và trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC CƠNG ĐỒN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ TỔ CHỨC
CÔNG ĐOÀN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.1. Khái quát về Đảng bộ Thành phố Hà Nội

1.1.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội
* Đặc điểm vị trí - địa lý
Hà Nội là một trong năm Thành phố trực thuộc Trung ương, có nhiều
lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên cho phát triển kinh tế, xã hội và văn
hóa. Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, là đầu não chính trị - hành
chính Quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao
dịch quốc tế; Hà Nội nằm ở phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng,
tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía bắc; phía nam giáp Hà
Nam và Hồ Bình; phía đơng giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng
Yên; phía tây giáp tỉnh Hồ Bình và Phú Thọ.
Thực hiện Nghị quyết 15, Quốc hội khóa XII từ năm 2008, Hà Nội mở
rộng địa giới và hành chính bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh của
tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã Đơng Xn, Tiến Xn, n Bình, n Trung thuộc
huyện Lương Sơn của tỉnh Hịa Bình. Diện tích tự nhiên 3.349 km2.
Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long
- Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành
Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng
đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới. Hà Nội đã tổ chức
thành công Đại hội Đảng bộ lần thứ XV với mục tiêu tới năm 2015 phát triển
thành Thành phố cơng nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm chính trị - hành


11
chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn
hóa giáo dục y tế của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình qn đầu
người đạt 4.300 Đơ la Mỹ vào năm 2015.
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện cơng cuộc đổi
mới, Hà Nội đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần quan trọng vào sự
phát triển chung của đất nước. Với công lao to lớn và những đóng góp rất
quan trọng, Hà Nội đã được Đảng, Nhà nước hai lần tặng thưởng Huân

chương Sao Vàng, là thành phố được phong tặng danh hiệu “Thủ đô anh
hùng”, được tổ chức UNESCO công nhận là “Thành phố vì hồ bình”.
* Kinh tế - chính trị
Hà Nội là một trong bốn trung tâm kinh tế hàng đầu của cả quốc gia,
giữ vị trí quan trọng thứ hai trong nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm
gần đây Hà Nội thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo kinh tế Thủ đô tăng
trưởng nhanh và bền vững theo định hướng XHCN. Đổi mới mơ hình tăng
trưởng và cơ cấu kinh tế, coi trọng cả việc mở rộng qui mô với nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế Thủ đô, phấn đấu mức tăng
trưởng kinh tế bình quân hàng năm từ 12 - 13%. Chú trọng cơ cấu kinh tế
dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp theo định hướng CNH - HĐH, kinh tế tri
thức; tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, sử dụng nhân lực chất
lượng cao vào quá trình sản xuất; ưu tiên phát triển các ngành cơng nghiệp
cơng nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao có giá trị gia tăng lớn, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
Năm 2012, Hà Nội cơ bản hoàn thành việc lập, điều chỉnh quy hoạch
xây dựng nông thôn mới cho 100% số xã. Tính đến tháng 10 năm 2013, theo
báo cáo của UBND Thành phố Hà Nội, đã có 21 xã và dự kiến đến hết năm
2013 sẽ có 48/401 xã đạt và cơ bản đạt 19/19 tiêu chí nơng thôn mới. 94 xã
đạt và cơ bản đạt từ 14-18 tiêu chí; 170 xã đạt và cơ bản đạt từ 10-13 tiêu chí;
89 xã đạt và cơ bản đạt từ 5-9 tiêu chí. Cơng tác dồn điền đổi thửa được triển


12
khai có hiệu quả, đến nay diện tích dồn điền đổi thửa đã đạt 100% diện tích có
thể dồn điền đổi thửa. Phấn đấu đến năm 2015, trên 40% số xã đạt chuẩn
nơng thơn mới theo tiêu chí quốc gia, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng
bộ từng bước hiện đại kinh tế phát triển nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân
tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Hà Nội luôn giữ vững nhiệm vụ chính trị trên địa bàn Thủ đơ trong mọi

tình huống, bảo vệ vững chắc thành quả sự nghiệp đổi mới, đảm bảo tuyệt đối
an toàn các hoạt động, các sự kiện lớn của Thủ đô và đất nước. Không để xảy
ra các tình huống bất ngờ, các hoạt động khủng bố, phá hoại, gây rối, bạo
loạn; khơng để hình thành tổ chức chính trị đối lập. Phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, góp phần bảo đảm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Chủ động phát hiện,
đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch
xuyên tạc, chống phá Đảng, chính quyền và sự nghiệp đổi mới đất nước, đặc
biệt âm mưu “diễn biến hịa bình” và nguy cơ tự diễn biến trong cán bộ, đảng
viên, các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh bảo vệ an ninh kinh tế. Cảnh giác,
phát hiện và xử lý kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc, mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân để kích động, gây rối, chống phá, chia rẽ khối đại
đồn kết tồn dân.
* Văn hóa - xã hội
Sự nghiệp văn hóa - xã hội của Thành phố trong những năm qua có
nhiều tiến bộ. Cơng tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức
trách nhiệm về xây dựng, giữ gìn, phát triển những nét đẹp văn hóa người Hà
Nội đã được chú trọng, tạo chuyển biến trong suy nghĩ, hành động của các
tầng lớp nhân dân Thủ đơ. Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa” tiếp tục được triển khai có hiệu quả; các phong trào văn hóa, văn
nghệ quần chúng phát triển mạnh. Việc xây dựng các quy định, quy ước, quy
chế, các mơ hình văn hóa được triển khai tích cực. Nhiều giá trị, nét đẹp văn


13
hóa truyền thống trong gia đình, họ tộc, hương ước làng, bản và cộng đồng
được kế thừa, phát triển.
Hệ thống các thiết chế văn hóa từ Thành phố tới cơ sở được đầu tư,
hoàn thiện đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân
dân. Các giá trị văn hóa tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội, đặc biệt là các di

sản văn hóa được giữ gìn, bảo tồn, phát huy. Hoạt động văn học, nghệ thuật
có tiến bộ đáng khích lệ, nhiều tác phẩm có giá trị được cơng chúng ghi nhận.
Nhiều hoạt động giao lưu văn hóa lớn được tổ chức thành cơng, góp phần
nâng cao uy tín, vị thế của Thủ đơ.
Lĩnh vực khoa học - công nghệ và giáo dục đào tạo được tập trung chỉ
đạo, đạt kết quả tích cực; chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài
năng trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao được chú trọng. Hoạt động thông
tin, truyền thông từng bước được hiện đại hóa, đem lại hiệu quả về nhiều mặt,
việc quản lý hoạt động báo chí, xuất bản được đẩy mạnh, đúng chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và theo sát thực tiễn cuộc sống.
Việc hỗ trợ các đối tượng chính sách và người nghèo được thực hiện có hiệu
quả, cơng tác đấu tranh phịng, chống các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết
liệt. Chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân được nâng cao, cơ sở vật chất,
trang thiết bị y tế được đầu tư theo hướng hiện đại.
Các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao, du lịch có nội
dung phong phú, đa dạng, đặc biệt là các hoạt động chào mừng 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội đã có ý nghĩa giáo dục cao, khơi dậy phong trào trong
quần chúng nhân dân, để lại ấn tượng sâu sắc, nâng cao vị thế, uy tín của Thủ
đơ Hà Nội đối với nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.
* An ninh - quốc phịng
Mang “sứ mệnh Thủ đơ”, Hà Nội là nơi đặt trụ sở của các cơ quan
đầu não trong hệ thống chính trị, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức
quốc tế, nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất


14
nước, là địa bàn không thể để xảy ra bất kỳ biến cố bất thường nào về quốc
phòng, an ninh…
Thành phố Hà Nội đã tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu

não của Đảng và Nhà nước, các hoạt động đối ngoại quốc gia, các sự kiện
chính trị lớn diễn ra trên địa bàn. Xây dựng lực lượng quân đội, công an Thủ
đơ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là nòng cốt
trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Xây dựng vững chắc thế trận
lòng dân, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an
ninh ngay từ khi xác định chủ trương, hình thành các dự án, cơng trình cụ thể;
tập trung đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phịng, an ninh, đáp ứng u
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Triển khai có hiệu quả việc đấu tranh với
các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phòng, chống tội phạm và
tệ nạn xã hội; xử lý có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, khơng để bất
ngờ xảy ra.
Phong trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được đẩy mạnh, có
bước phát triển mới với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu
quả, khơi dậy sức mạnh, tiềm lực to lớn của nhân dân trong công tác giữ gìn
an ninh chính trị và phịng ngừa, tấn cơng trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn
xã hội, phục vụ cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Truyền thống ngàn năm văn hiến
- Truyền thống yêu nước, hào khí Thăng Long - Hà Nội
Thăng Long - Hà Nội trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của
dân tộc đã khẳng định một khí phách anh hùng qua những trận quyết chiến
mang tính chất quyết định trong các cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập của
Tổ quốc. Thăng Long - Hà Nội trở thành đất “định đô của muôn đời” là một
sự lựa chọn của lịch sử. Và trong tiến trình lịch sử, Thăng Long - Hà Nội đã


15
làm nên những phẩm chất tự hào của một Thủ đơ văn hiến, anh hùng - Thành
phố vì hịa bình.
Hà Nội là mảnh đất đã sinh ra nhiều anh hùng, đồng thời cũng có nhiều

anh hùng thành danh ở Hà Nội, tiêu biểu là Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung… Cư dân ở đây cùng với cả nước đã lập
nên những chiến công lừng lẫy chống quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh,
Thanh…Từ nửa sau thế kỉ XIX đến năm 1945, người dân Hà Nội, Hà Đông,
Sơn Tây và các vùng phụ cận đã anh dũng chiến đấu chống thực dân Pháp
xâm lược. Tiếp đó, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á. Trong những năm 1946 - 1954, nhân dân Hà Nội, Hà Đông,
Sơn Tây và các vùng phụ cận bằng nhiều hình thức khác nhau đã tích cực góp
phần vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, góp phần vào chiến thắng
Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, giải phóng hồn tồn miền Bắc. Trong
những năm 1955 - 1975, nhân dân Hà Nội và các vùng phụ cận đã tích cực
tham gia xây dựng đất nước, chi viện cho miền Nam, góp phần vào thắng lợi
của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước. Đặc biệt, quân dân Hà Nội đã trực tiếp góp
phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972,
buộc đế quốc Mĩ phải kí Hiệp định Pa-ri tháng Giêng năm 1973 về việc chấm
dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Sau ngày giải phóng miền Nam, Hà Nội cùng cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Mười năm sau ngày thống nhất đất nước, Thủ đô cùng cả nước bước
vào thời kì Đổi mới, gần 30 năm đổi mới, Thành phố Hà Nội đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đặc biệt năm 2010, thành phố Hà Nội
đã tổ chức Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một sự kiện trọng
đại trong lịch sử nước nhà.
- Truyền thống tài hoa, thanh lịch, văn minh
Hà Nội có một bề dày lịch sử ngàn năm, là nơi hội tụ văn hoá, kết tinh
văn minh Việt Nam. Người Hà Nội đã và vẫn tài hoa, trong đánh giặc, trong


16
làm ăn, trong học hành thi cử, trong chơi vui giải trí người Hà Nội vẫn đặc

biệt mẫn cảm trước thời sự quốc gia và quốc tế. Chịu ảnh hưởng của đạo đức
cổ truyền, lại được bổ sung bằng những quan điểm Nho giáo, tập quán sinh
hoạt trong các gia đình Việt Nam thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt tôn ti trật
tự giữa người trên, kẻ dưới, trong gia đình và dịng họ, đồng thời thể hiện sự
gắn bó chặt chẽ, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong
gia đình, gia tộc.
Tài hoa, thanh lịch, văn minh mang nghĩa rất rộng, một thứ nếp sống
bao quát trên nhiều mặt: Ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn chơi, ăn học, ăn uống, ăn
nói… cho đến giữ gìn nếp nhà Hà Nội. Đây là truyền thống của người Hà Nội
đã được trải qua nhiều thế hệ, có thể nói đó là một di sản phi vật thể của
người Hà Nội. Truyền thống “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không
thanh lịch cũng người Tràng An” là tinh hoa tích tụ từ hàng nghìn năm, từ
trăm miền đất nước bồi đắp nên nét đẹp văn hoá Thăng Long - Hà Nội đáng
quý, mang đậm giá trị của sự lịch lãm, tinh tế, hào hoa, mềm mỏng, thông tuệ,
nghĩa hiệp, nhân ái, tôn trọng kỉ cương, luật lệ và phép nước…
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XV tiếp tục thực hiện
đồng bộ các giải pháp xây dựng, bồi đắp, phát huy nét đẹp truyền thống của
người Hà Nội với những tiêu chí cơ bản: có phẩm chất, đạo đức tốt, trách
nhiệm, tâm huyết, thanh lịch, văn minh, trung thực, tự trọng, nhân ái, nghĩa
tình, ứng xử có văn hóa; có tri thức, năng động, sáng tạo, tiêu biểu cho phong
cách của con người mới; luôn có ý thức vươn lên trong cuộc sống đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô trong tình hình mới.
1.1.1.2. Đặc điểm và chức năng của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
* Đặc điểm của Đảng bộ thành phố Hà Nội:
Trước yêu cầu xây dựng và phát triển Thủ đô thời kỳ mới, Trung ương
Đảng và Quốc hội đã có quyết định lịch sử, điều chỉnh địa giới hành chính
Thành phố Hà Nội. Theo đó, từ ngày 01/8/2008, địa giới hành chính Thủ đơ


17

được mở rộng, dân số gần 6,4 triệu người (hiện nay, dân số là hơn 7 triệu
người, trong đó có gần 81 vạn người thuộc 49 dân tộc thiểu số và có 200.377
tín đồ hoạt động trong 7 loại hình tôn giáo); gồm 29 quận, huyện, thị xã; 577
xã, phường, thị trấn. Với quy mơ và tầm vóc mới, Hà Nội có thêm nguồn lực,
điều kiện để phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng với vị trí, vai trị là trái
tim của cả nước, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về
văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV, nhiệm kỳ
2010 - 2015 đã bầu Ban Chấp hành gồm 75 người. Trong đó có 9 nữ, chiếm tỷ
lệ 12%. Về trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân: 75 người, chiếm tỷ lệ
100%; về chuyên môn nghiệp vụ: 75 người có trình độ đại học, chiếm tỷ lệ
100%; trình độ thạc sĩ có 29 người, chiếm tỷ lệ 38,67%; 17 người có trình độ
tiến sĩ, chiếm tỷ lệ 22,67%; tuổi đời bình quân là 50,4 tuổi.
Ban Thường vụ Thành ủy có 17 người, là cơ quan thay mặt Ban Chấp
hành lãnh đạo và chỉ đạo mọi mặt công tác của Đảng bộ giữa hai kỳ hội nghị
Ban Chấp hành.
Thường trực Thành ủy có 5 người (gồm Bí thư và 4 Phó Bí thư Thành
ủy). Đây khơng phải là một cấp, một cơ quan lãnh đạo, nhưng được Ban
Thường vụ Thành ủy giao cho thay mặt Ban Thường vụ Thành ủy giải quyết
công việc hàng ngày.
Cơ quan tham mưu giúp việc cho Thành ủy bao gồm: Văn phòng Thành
ủy, Ban Tổ chức Thành ủy, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Ban Dân vận Thành ủy,
Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, Ban Nội chính Thành ủy cùng các đơn vị sự
nghiệp là Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Báo Hànộimới.
Đảng bộ Thành phố Hà Nội có 58 đảng bộ trực thuộc (29 đảng bộ quận,
huyện, thị xã; 26 đảng bộ cấp trên cơ sở, 03 đảng bộ cơ sở trực thuộc); với
2.901 TCCSĐ, trong đó đảng bộ cơ sở là 1.563; chi bộ cơ sở là 1.338; Tồn
Đảng bộ thành phố có 367.068 đảng viên, trong đó số đảng viên nữ là
118.930 chiếm 32.40% [42, tr.02].



18
* Chức năng của Đảng bộ Thành phố Hà Nội.
Đảng bộ thành phố Hà Nội là hạt nhân lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của
thành phố: tổ chức quán triệt, vận dụng đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước phù hợp với đặc điểm tình hình của địa
phương; đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác, giải pháp thực hiện.
Lãnh đạo chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh
tế trên địa bàn thành phố theo quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên... nhằm phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh...
Tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ; củng cố, kiện toàn tổ chức, chăm lo lãnh
đạo đội ngũ cán bộ... lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện Điều lệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, nghị quyết của Đảng và của Đảng
bộ thành phố; chăm lo xây dựng củng cố các đồn thể - chính trị xã hội...
Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (gọi tắt là Thành ủy) là cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ giữa hai kỳ Đại hội, chức năng chủ yếu
của Thành ủy là lãnh đạo tồn diện các mặt cơng tác của Thành phố đảm bảo
cho các hoạt động xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của thành phố có chất lượng tổ
chức tốt, hoạt động có hiệu quả; đảm bảo cho các lĩnh vực của đời sống xã hội
trên địa bàn thành phố phát triển theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Tổ chức Cơng đồn ở Thành phố Hà Nội - đặc điểm, vị trí,
vai trị, chức năng, nhiệm vụ
1.1.2.1. Đặc điểm của tổ chức công đonà ở thành phố Hà Nội
* Về số lượng
Sau 5 năm (2008-2013), số lượng CNLĐ Thủ đô tiếp tục tăng. Đặc
biệt, sau khi thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị về mở rộng



19
địa giới hành chính Hà Nội từ ngày 1/8/2008, số lượng CNLĐ Thủ
đô tăng từ 1,2 lên 1,5 triệu người, làm việc trong hơn 100.000
doanh nghiệp. Theo quy hoạch, Hà Nội có 33 khu cơng nghiệp, khu
chế xuất, khu cơng nghệ cao với 513 dự án đầu tư. Trong đó, đã có
12 khu đi vào hoạt động với 393 doanh nghiệp, thu hút trên 125.000
lao động với 98% là người lao động Việt Nam [64, tr.01].
* Về cơ cấu
Cơ cấu CNLĐ tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng gia tăng trong các
ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm trong các ngành nơng, lâm, ngư nghiệp.
Xét cơ cấu theo loại hình sở hữu, CNLĐ trong các doanh nghiệp nhà
nước tiếp tục giảm và tăng nhiều trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Theo khu vực, CNLĐ hiện nay tập trung đông trong các khu công
nghiệp và chế xuất (chiếm khoảng 10% tổng số CNLĐ tồn thành phố). Đa số
cơng nhân là người ngoại tỉnh, hiện tạm trú trên địa bàn Thành phố.
Về độ tuổi: CNLĐ trong độ tuổi 31 đến 45 chiếm tỉ lệ cao nhất
(43,3%), độ tuổi 18 đến 30 (38,0%) và độ tuổi trên 46 (18,6%). Qua đó cho
thấy, lực lượng CNLĐ trẻ Thủ đô chiếm tỷ lệ cao. Đây là yếu tố thuận lợi, ưu
điểm của nguồn nhân lực Thủ đô [64, tr.03].
- Về chất lượng
Đánh giá qua khảo sát năm 2012 của LĐLĐ thành phố trong 178.914
công nhân trực tiếp sản xuất, cho thấy:
+ Trình độ học vấn:
Trình độ
Số lượng
Tiểu học
1392

THCS
23754
THPT
153768
+ Trình độ chun mơn nghiệp vụ:
Trình độ

Số lượng

Tỷ lệ(%)
0,8
13,3
85,9
Tỷ lệ(%)


20
Chưa qua đào tạo
Sơ cấp
Trung cấp
Đại học
Trên Đại học

76674
22821
28158
48036
3225

42,9

12,8
15,7
26,8
1,8

- Về tư tưởng
Nhìn chung, CNVCLĐ Thủ đơ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin
tưởng và ủng hộ đường lối lãnh đạo của Đảng, tuân thủ chính sách pháp luật,
sự quản lý điều hành của Nhà nước, có tinh thần làm chủ, ý thức giác ngộ giai
cấp. Phần đông CNVCLĐ đã tích cực học tập, tham gia các phong trào thi
đua lao động sản xuất, rèn luyện tác phong lề lối làm việc, sinh hoạt. Các
chính sách nhằm nâng cao chất lượng đời sống người lao động của Đảng và
Nhà nước những năm qua đã có tác động tích cực góp phần làm ổn định tư
tưởng CNVCLĐ. Bên cạnh đó, những bất cập trong việc thực thi chính sách
với người lao động, vướng mắc trong xử lý quan hệ lao động ở một số nơi
(đặc biệt ở các khu công nghiệp) gây bức xúc trong một bộ phận CNLĐ, dẫn
đến xảy ra đình cơng, lãn cơng ở một số doanh nghiệp. Thời gian qua, tình
hình giá cả, thị trường với nhiều biến động đang là mối quan tâm, lo lắng của
đa số người lao động. Các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tham nhũng
vẫn cịn, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn đang gây bức xúc trong
CNVCLĐ Thủ đô.
- Về đời sống, việc làm
Từ năm 2008 đến nay, Nhà nước thực hiện 5 lần điều chỉnh lương tối
thiểu, qua đó, lương tối thiểu của cơng nhân lao động tăng từ 450.000đ/tháng
(năm 2007) lên 2.000.000đ/tháng như hiện nay (tăng xấp xỉ 340%). Hiện nay,
lương bình quân của người lao động trên địa bàn Thành phố ở mức trên
3.000.000đ, doanh nghiệp có lương bình qn cao nhất là 10.000.000đ, thấp
nhất là 2.000.000đ. Chênh lệch lương cao nhất là trong doanh nghiệp khu vực
FDI (5 lần). Tuy nhiên, sau 5 lần điều chỉnh lương tối thiểu, nhìn chung,



21
lương và thu nhập của công nhân lao động chưa đáp ứng được nhu cầu tối
thiểu của cuộc sống, nếu so sánh với tốc độ trượt giá những năm qua thì đời
sống người lao động giảm so với khi chưa tăng lương. (Mức tăng lương thực
sự tăng 1,94 lần, trong khi đồng tiền mất giá hơn 2,1 lần).
Từ 2008 đến 2013, tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, giá
nguyên vật liệu tăng, lãi suất ngân hàng tăng, sức mua giảm... nhiều doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó khăn dẫn đến tình trạng thua lỗ, giải thể,
thu hẹp quy mô sản xuất ảnh hưởng trực tiếp tới việc làm và thu nhập của người
lao động. Hằng năm, có khoảng 7-8% cơng nhân lao động mất việc làm và thiếu
việc làm thường xuyên. Số lao động thất nghiệp, hưởng trợ cấp ngày càng tăng.
Năm 2010 có gần 3.486 người, đến năm 2013 là 18.105 người [64, tr.02].
Trong nhiều năm qua, việc giải quyết nhu cầu nhà ở cho công nhân lao
động tiếp tục là vấn đề bức xúc. Thành phố đã phê duyệt một số quy hoạch
nhà ở cho công nhân ở các khu công nghiệp và nhà ở cho người lao động có
thu nhập thấp. Đến nay, đã cơ bản hồn thành 2 khu nhà ở cho công nhân ở
khu công nghiệp Bắc Thăng Long và Phú Nghĩa. Tuy nhiên, mới chỉ đáp ứng
một phần nhỏ nhu cầu của công nhân lao động. Như khu công nghiệp Bắc
Thăng Long, tổng dung lượng thiết kế là 1556 phòng, đáp ứng nhu cầu của
khoảng 11.520 cơng nhân độc thân và hộ gia đình, trong khi tổng số lao động
trong khu công nghiệp này khoảng 5 vạn người. Nếu hồn thành tồn bộ khu
nhà thì mới chỉ đáp ứng 1/5 nhu cầu, số còn lại tiếp tục phải thuê nhà trọ trong
dân với điều kiện ở rất khó khăn, mơi trường, an ninh khơng đảm bảo, giá cao
và chịu chi phí điện nước cao hơn giá quy định. Bên cạnh đó, các cơng trình
phúc lợi cơng cộng như trường học, bệnh viện, khu giải trí, cơng viên... cịn
thiếu rất nhiều, chưa được quy hoạch tổng thể cùng với các khu công nghiệp.
Với số lượng 107.793 người (chiếm gần 10% tổng số CNLĐ tồn
Thành phố), cơng nhân lao động trong các khu công nghiệp và chế xuất Hà



22
Nội hiện đang đóng góp 20% tỉ trọng GDP của tồn Thành phố, 40% giá trị
sản xuất cơng nghiệp, 45% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, công nhân lao
động khu vực này đang gặp rất nhiều khó khăn về đời sống, việc làm. Với thu
nhập bình quân từ 2,8 triệu đến 3,2 triệu đồng một tháng, công nhân trong khu
vực này, với đa số là người ngoại tỉnh phải chịu thêm rất nhiều chi phí: thuê
nhà, tiền điện, tiền nước... nên không đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe thể chất và tinh thần của người lao động. Theo
khảo sát của LĐLĐ Thành phố, nhìn chung, cơng nhân trong khu vực này có
đời sống văn hóa tinh thần cịn thấp, ngun nhân chính là do điều kiện kinh
tế, các thiết chế văn hóa, tinh thần cho cơng nhân cịn thiếu, chưa được quan
tâm, đầu tư đúng mức.
* Đặc điểm của tổ chức cơng đồn ở Thành phố Hà Nội
Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội là một tổ chức chính trị - xã
hội. Theo quy định của Điều lệ Cơng đồn Việt nam và Quyết định của
Đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam về việc thành lập Liên
đoàn Lao động thành phố Hà Nội, sau hợp nhất, đội ngũ cán bộ Cơng đồn
Thủ đơ Hà Nội gồm cán bộ chun trách và cán bộ khơng chun trách bố
trí ở 3 cấp như sau:
- Cấp Thành phố: Ban Chấp hành LĐLĐ thành phố, cán bộ cơng đồn
chun trách làm việc tại các Ban của LĐLĐ thành phố.
- Cấp trên trực tiếp cơ sở: tổng số 47 đơn vị, trong đó có 29 LĐLĐ
quận, huyện, thị xã; 09 Cơng đồn ngành địa phương, 09 Cơng đồn cấp trên
cơ sở khác và cán bộ cơng đồn chun trách làm việc tại cơ quan các Cơng
đồn cấp trên trực tiếp cơ sở.
- Cấp cơ sở: Tổng số 6.443 Cơng đồn cơ sở tại các cơ quan hành
chính, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp công
lập, ngồi cơng lập, nghiệp đồn và các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế. Cấp cơ sở hầu hết là cán bộ cơng đồn khơng chun trách.


23
Liên đoàn Lao động Thành phố Hà Nội cơ cấu tổ chức theo quy định
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam bao gồm: (số liệu của LĐLĐ Thành
phố tính đến 31/10/2013)
- Cơ quan LĐLĐ Thành phố có 21 CĐCS, gồm có:
+ 7 ban: Tổ chức, Tun giáo, Nữ cơng, Chính sách - pháp luật, Tài
chính, Văn phịng và Ủy ban kiểm tra, tổng số là 66 cán bộ, nhân viên, trong
đó có 27 nữ.
+ 09 đơn vị sự nghiệp: Báo Lao động Thủ đơ; Cung văn hóa Lao động
hữu nghị Việt Xơ; Nhà Văn hóa Lao động cơng đồn Hà Nội; Trường Trung
cấp Cơng đồn thành phố Hà Nội; Trường Trung cấp nghề Cơng đồn Hà Nội;
Trung tâm Tư vấn pháp luật cơng đồn Hà Nội; Quỹ trợ vốn CNVCLĐ nghèo
Thủ đơ phát triển kinh tế gia đình; Nhà nghỉ Cơng đồn Suối Hai; Nhà nghỉ
Cơng đồn Chùa Hương.
+ 05 doanh nghiệp: Công ty TNHH Nhà nước MTV Du lịch Cơng đồn
HN; Cơng ty TNHH liên doanh Hồng viên Quảng Bá; Công ty TNHH MTV
Kinh Đô; Công ty TNHH MTV Nước khống Tản Viên Cơng đồn HN; Cơng
ty TNHH Tịa nhà trung tâm.
- Có 47 Cơng đồn cấp trên cơ sở, trong đó:
+ 11 LĐLĐ Quận, Thị xã: Hồn Kiếm; Ba Đình; Đống Đa; Hai Bà
Trưng; Tây Hồ; Thanh Xn; Cầu Giấy; Long Biên; Hồng Mai; Hà Đơng; thị
xã Sơn Tây.
+ 18 LĐLĐ Huyện: Gia Lâm; Từ Liêm; Thanh Trì; Đơng Anh; Sóc Sơn;
Đan Phượng; Ba Vì; Chương Mỹ; Hồi Đức; Mỹ Đức; Ứng Hịa; Phú Xun;
Phúc Thọ; Quốc Oai; Thạch Thất; Thanh Oai; Thường Tín; Mê Linh.
+ 08 Cơng đồn Ngành: Cơng thương; Xây dựng; Giáo dục; Viên chức;
Giao thông vận tải; Y tế; Nông nghiệp; Dệt may

+ 10 Cơng đồn Tổng Cơng ty và Cơng đồn cấp trên cơ sở: Tổng công
ty đầu tư và phát triển nhà; Du lịch; Thương mại; Vận tải; Hạ tầng đô thị;


24
Cơng đồn Cavico, Cơng đồn các KCN&CX; Cơ quan LĐLĐ Thành phố;
Ban Cán sự Công an; Ban cán sự Cảnh sát PCCC.
- Có 26 Cơng đồn cơ sở trực thuộc, trong đó:
+ 21 Cơng đồn các Trường Đại học và Cao đẳng Hà Nội: Đại học Kiến
trúc; Thủy Lợi; ĐH Luật; Văn hóa; Mỹ Thuật; Học viện âm nhạc; Sân khấu
điện ảnh; Lao động xã hội; ĐH Hịa Bình; Tài chính ngân hàng. Cao đẳng
nghề Cơng nghệ cao; Sư phạm; nghệ thuật; Du lịch; Y tế; Thương mại & du
lịch; Y tế Hà Đông; Sư phạm Hà Tây; Cộng đồng Hà Tây; CĐ kinh tế kỹ thuật
HN. Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong.
+ 05 Cơng đồn cơ sở: Đảng ủy khối Doanh nghiệp; Đảng ủy khối Du
lịch; Cty TNHH DELOITTE; Cty TNHH ERICSSON; Cục Hải quan.
- Tổng số Cơng đồn cơ sở: 6.443. Trong đó: Khu vực Nhà nước:
3.643; Khu vực ngoài Nhà nước: 2800.
- Tổng số đoàn viên: 468.497. Trong đó: Khu vực Nhà nước: 220.357;
Khu vực ngồi Nhà nước: 248.140.
- Cơng đồn khu vực nhà nước bao gồm: cơ quan HCSN Trung ương:
222 đơn vị; HCSN Thành phố: 429 đơn vị; HCSN quận, huyện, thị xã: 325
đơn vị; khối Giáo dục quận, huyện, thị xã: 1.912 đơn vị; khối xã, phường, thị
trấn 577 đơn vị; Doanh nghiệp nhà nước: 155 đơn vị.
- Cơng đồn khu vực ngồi nhà nước bao gồm: Sự nghiệp ngồi cơng
lập: 153 đơn vị; 2.367 doanh nghiệp, trong đó 245 doanh nghiệp FDI.
1.1.2.2. Vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Cơng đồn
* Vai trị của tổ chức cơng đồn ở thành phố Hà Nội
Theo học thuyết của Mác - Lênin, giai cấp công nhân hay giai cấp vô
sản, theo C.Mác là giai cấp của những người công nhân và NLĐ phải bán sức

lao động để đổi lấy tiền lương và họ không phải là chủ sở hữu của phương
tiện sản xuất. Cũng theo Mác, giai cấp công nhân là giai cấp tạo ra các giá trị
thặng dư và sự giàu có cho xã hội.
Kế tục và phát triển học thuyết của C.Mác về quan điểm giai cấp công


25
nhân và Cơng đồn, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Cơng đoàn là trường học CNXH và
chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân” là “ Một trường học kiểu hồn
tồn khơng bình thường”, là “Trường học liên hợp, trường đoàn kết, trường
học bảo vệ quyền lợi, trường học quản lý kinh tế” [18, tr.367].
Về vị trí của cơng đồn, Lênin chỉ rõ:
Trong hệ thống chun chính vơ sản, cơng đồn có một vị trí giữa
Đảng, Chính quyền Nhà nước, cơng đồn tạo ra mối liên hệ giữa
đội tiên phong với quần chúng, cơng đồn lấy cơng tác hàng ngày
để thuyết phục quần chúng, quần chúng của giai cấp duy nhất có
khả năng đưa chúng ta từ chủ nghĩa từ bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Đó là một mặt, mặt khác, cơng đồn “Bể chứa” của chính quyền
nhà nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa từ bản lên chủ nghĩa
cộng sản thì cơng đồn là như thế đấy [18, tr.250].
Trên bước đường tiếp cận và đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh là người đầu tư cơ sở về lý luận và thực tiễn để thành lập tổ chức cơng
đồn cách mạng của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Hồ Chủ tịch đã nhận thức và
xác định: “Cơng đồn phải thực sự trở thành trường học quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế và văn hóa của giai cấp công nhân” [23, tr.100]. Đồng thời, Người cũng
nêu rõ nhiệm vụ của cơng đồn: “Nhiệm vụ của cơng nhân và cơng đồn hiện nay
là phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế cơng đồn phải tổ chức, giáo dục,
lãnh đạo công nhân đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch của Đảng và Nhà nước đề ra” [23, tr.72].
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của tổ chức cơng đồn Việt Nam gắn liền

với cuộc đấu tranh cách mạng, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trị, chức năng của Cơng đồn Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội.


×