1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình vi phạm và tội phạm về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ đang là nỗi lo và trở thành vấn đề nóng được tồn xã hội quan tâm.
Mặc dù là khâu cuối cùng trong quá trình xử lý một vụ án hình sự ở cấp sơ
thẩm, nhưng việc áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự nói chung, các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thơng đường bộ nói riêng của Viện kiểm sát nhân dân có ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả của cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật; bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh,
thống nhất, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội; góp phần tích
cực giảm thiểu tình trạng vi phạm và tội phạm về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ.
Thời gian qua để giảm thiểu tình trạng vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ, Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ngành, các tổ
chức đồn thể chính trị, các cấp chính quyền đã thực hiện đồng bộ, tích cực
nhiều giải pháp. Cơng tác bảo đảm trật tự an tồn giao thơng trên địa bàn cả
nước đã có chuyển biến tích cực, nhưng chưa vững chắc, số vụ vi phạm các
quy định về điều khiển phương tiện giao thơng cịn xảy ra nhiều, gây hậu quả
nghiêm trọng, thiệt hại về người và tài sản vẫn ở mức cao.
Dưới góc độ lý luận, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu vấn đề áp
dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự nói chung, nhưng chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một
cách thấu đáo, tồn diện có hệ thống về việc áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ.
Thực tiễn áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm đối với các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ thời gian qua, cho
2
thấy: Ngành Kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ đã nỗ lực, cố gắng chú
trọng nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ để ban hành ra các văn bản áp dụng pháp luật chính xác, có
hiệu quả áp dụng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt
được, cơng tác áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ còn bộc lộ một số hạn chế,
thiếu sót cần khắc phục, đó là: vẫn còn một số Kiểm sát viên được phân công
chưa làm hết trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ, phân tích các tài liệu,
chứng cứ cịn qua loa, sơ sài; thụ động, lúng túng trong quá trình thực hiện
các khâu cơng tác nghiệp vụ tại phiên tịa; viện dẫn điều luật chưa chặt chẽ,
thiếu thuyết phục… do đó một số văn bản áp dụng pháp luật thực hành quyền
công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát cịn chưa chính xác, ảnh
hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật. Có nhiều nguyên nhân khách quan,
chủ quan dẫn đến tình trạng này, như: hệ thống văn bản áp dụng pháp luật về
hình sự, tố tụng hình sự liên quan cịn nhiều bất cập; cơng tác hướng dẫn, giải
thích pháp luật chưa kịp thời; đội ngũ Kiểm sát viên còn thiếu; một số Kiểm
sát viên trẻ thiếu kinh nghiệm cơng tác, cịn hạn chế trong việc tu dưỡng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, chưa làm
hết trách nhiệm được phân công….
Trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước nói chung và ở tỉnh Phú
Thọ nói riêng với các nước trên thế giới và trong khu vực, việc áp dụng pháp
luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ lại cần phải đặc biệt quan tâm để
giữ vững ổn định an ninh chính trị, xúc tiến đầu tư, bảo vệ tính mạng, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của người nước ngoài, cũng như các tổ chức của các
nước đang sống, làm việc và sản xuất đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.
3
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn đề tài “Áp dụng pháp luật
thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc sĩ Luật học nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật thực hành quyền công trong xét xử sơ thẩm các vụ
án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các
vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của
Viện kiểm sát nhân dân là một lĩnh vực chưa được nhiều các cơng trình
nghiên cứu đề cập đến. Đã có một số cơng trình, luận văn của các tác giả
nghiên cứu đề cập liên quan đến vấn đề này nhưng trên các khía cạnh khác
nhau, cụ thể là:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Những vấn đề lý luận về quyền
công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Đề tài
khoa học cấp bộ.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự,
Tập I, Hà Nội.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kỹ năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
- Lê Hữu Thể (chủ biên) (2008), Quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Vũ Tùng (2012), Áp dụng pháp luật trong điều tra tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của cơ quan
điều tra hình sự tổng cục kỹ thuật- Bộ Quốc phịng, Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4
- Trương Văn Xà (2012), Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Mai Lâm (2013), Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Hữu Thể (2000), “Bàn về khái niệm quyền cơng tố”, Tạp chí Kiểm
sát, (9).
- Lê Cảm (2001), “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, (4).
- Nguyễn Đức Mai (2007), “Tổ chức và hoạt động của Viện công tố ở
Việt Nam trong giai đoạn cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, (10).
Qua khảo sát tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác
giả nhận thấy, đã có một số cơng trình nghiên cứu về quyền công tố, thực
hành quyền công tố, áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, các vụ án về
trật tự xã hội, các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ. Tuy nhiên, do thời điểm, cách thức tiếp cận và phạm vi
nghiên cứu khác nhau, chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về áp
dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện
kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ. Vì vậy, nghiên cứu áp dụng pháp luật
thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm đối với các vụ án vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Phú Thọ là vấn đề mới và rất cần thiết, có ý nghĩa quan trong cả
về lý luận và thực tiễn.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Việc nghiên cứu của đề tài nhằm thực hiện hai mục đích cơ bản: Phân
tích làm rõ những vấn đề lý luận của áp dụng pháp luật thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ; Phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
bảo đảm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm đối
với các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên luận văn tập trung giải quyết cụ
thể những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng khái niệm, các đặc trưng về áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm đối với các vụ án vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân;
- Phân tích các giai đoạn và vai trị áp dụng pháp luật thực hành quyền
công tố trong xét xử sơ thẩm đối với các vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân;
- Làm rõ nội dung, các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo áp dụng
pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát
nhân dân.
- Phân tích đánh giá tình hình vi phạm, những kết quả đạt được và
những hạn chế, rút ra các nguyên nhân chủ quan, khách quan trong thực trạng
áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm
sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013.
- Đưa ra các cách tiếp cận về áp dụng pháp luật thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm đối với các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
6
- Đề xuất một số giải chung và giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm hoạt
động áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ
án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện
kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn từ khi Viện kiểm sát gửi bản cáo
trạng, hồ sơ vụ án sang Tòa án nhân dân để xét xử sơ thẩm cho tới khi xét xử
xong ở cấp sơ thẩm và chuyển vụ án sang xét xử phúc thẩm (nếu có kháng
cáo, kháng nghị).
Luận văn nghiên cứu việc áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2009
đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về Nhà nước và
pháp luật, về áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và Viện kiểm
sát nhân dân nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong
7
khoa học pháp lý để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Luận văn sử dụng cụ thể
phương pháp: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về áp dụng
pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát
nhân dân đối với vụ án cụ thể trên địa bàn cấp tỉnh.
- Luận văn góp phần đánh giá tình hình vi phạm và thực trạng áp dụng
pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
- Luận văn tập trung đề xuất và luận giải một số quan điểm, giải pháp
nhằm góp phần bảo đảm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét
xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý
luận liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nói chung, liên quan đến áp
dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng của
Viện kiểm sát nhân dân.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những phân tích, đánh giá kết quả thực trạng, hạn chế, nguyên nhân,
những kiến nghị, đề xuất của Luận văn có thể nghiên cứu vận dụng vào thực
tiễn, góp phần bảo đảm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, chất
lượng áp dụng pháp luật thực hành quyền cơng tố các vụ án hình sự nói chung
nhằm phục vụ cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn
8
tỉnh Phú Thọ. Bên cạnh đó, Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
chuyên khảo trong các trường đại học, cao đẳng; tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN VI PHẠM
QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, CÁC GIAI ĐOẠN VÀ VAI TRÒ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC
VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố
Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta sử
dụng thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của
VKSND tại Điều 138. Mặc dù thời gian qua, đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu sử dụng thuật ngữ “quyền cơng tố” và “thực hành quyền cơng tố”, nhưng
chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta chính thức giải thích các thuật
ngữ này. Để làm rõ thế nào là hoạt động THQCT thì trước hết ta phải làm rõ
được khái niệm thế nào là quyền công tố.
* Khái niệm quyền công tố:
Theo Từ điển Tiếng Việt- Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998, thì “Cơng
tố” là từ ghép Hán- Việt, được hình thành bởi hai từ đơn “cơng” và “tố”.
“Cơng" có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư" [47, tr.453], cịn
“tố" có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách cơng
khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người" [47, tr.459]. “Cơng
tố" có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến
trước Toà án” [47, tr.1663].
10
Trong tiếng Anh, “cơng tố” (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt
Nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý
để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân [45, tr.75-80]. Như vậy,
cơng tố là một trong những hình thức cáo buộc người khác thực hiện hành vi
sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Trong công tố, người thực hiện sự cáo buộc
thuộc về Nhà nước; còn đối tượng bị cáo buộc không chỉ là một con người cụ
thể mà cịn có thể là một pháp nhân, và việc cáo buộc này không hạn chế
trong một lĩnh vực nào mà nó cịn được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh
vực khác nhau tùy theo hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới
quan hệ pháp luật nào. Vì vậy, “cơng tố” theo tác giả cần được hiểu là sự cáo
buộc của Nhà nước với người đã có hành vi vi phạm pháp luật trước Tịa án.
Việc xác định quyền cơng tố, và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn rất quan trọng. Hiện nay, vấn đề phạm vi quyền công tố đến đâu và ai là
chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền công tố là “quyền của Nhà nước
cho Viện kiểm sát truy tố người phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện việc
buộc tội người đó tại phiên tịa sơ thẩm” [29, tr.75- 76], [40, tr.86- 87]. Theo
quan niệm này thì quyền cơng tố khơng có ở giai đoạn điều tra, và đồng nhất
quyền cơng tố với quyền buộc tội và bảo vệ việc buộc tội của VKS tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự. Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của VKS tại
phiên tòa chỉ là một nội dung của việc THQCT, chỉ là một trong các quyền của
VKS khi THQCT mà thôi. Do vậy, khái niệm, nội dung quyền công tố theo
quan niệm này đã bị thu hẹp, chưa phản ánh được bản chất quyền công tố.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm tương đối phổ biến trong Ngành
Kiểm sát nhân dân trong suốt quá trình từ năm 1960 đến năm 2001, đã được đưa
vào chương trình giảng dạy chính thức của Trường Trung cấp kiểm sát và
Trường Cao đẳng kiểm sát: Công tố là quyền tố tụng đặc biệt của VKSND trong
tố tụng, là quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho VKSND thực hiện
theo luật định, đó là “quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm
11
pháp luật nói chung ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ
trật tự pháp luật” [42]. Theo quan điểm này, quyền công tố xuất hiện từ khi có
Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự và tố tụng
hình sự. Sau đó, với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố
được mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế, lao động, mà
biểu hiện của nó là VKS có quyền khởi tố vụ án dân sự, kinh tế, lao động.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền công tố là quyền của cơ quan Nhà
nước được Nhà nước uỷ quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng
thời bảo vệ sự buộc tội đó. Theo quan điểm này, quyền cơng tố luôn gắn liền
với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước nên chỉ thuộc về VKSND và
được thực hiện trong lĩnh vực duy nhất là lĩnh vực hình sự [39, tr.19].
Trên cơ sở cách tiếp cận của các nhóm quan điểm trên về quyền cơng
tố, tác giả đồng tình với nhóm quan điểm thứ ba khi tiếp cận khái niệm này.
Quan điểm này đã phải ánh đúng thực tế, có ý nghĩa thực tiễn, đúng với quan
điểm của Đảng và pháp luật hiện hành.
Hiện nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đều xác định quyền
công tố được giao cho VKSND thực hiện, cụ thể: Quy định tại Điều 107 Hiến
pháp năm 2013; Điều 1 và Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định
“Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp" [13]; Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật Quốc hội khóa X
về dự án Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) xác định “Hoạt động
cơng tố chỉ trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến
truy tố bị can và tranh tụng tại phiên toà" [50]; Nghị quyết số 49/2005 của
Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh “Trước mắt,
Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp" [5, tr.5]; Nghị quyết Đại hội lần thứ XI
của Đảng xác định: “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức
12
Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu
quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra” [14].
Khoản 3 Điều 23 của BLTTHS Việt Nam hiện hành quy định:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội
đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [34].
Từ những phân tích trên về quyền cơng tố và trên cơ sở các quan điểm
của Đảng, Nhà nước giao quyền công tố cho VKS thực hiện, có thể rút ra khái
niệm: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Viện kiểm sát nhân dân thay
mặt Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc
tội họ tại phiên tồ.
Có thể xác định đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố như sau:
Đối tượng quyền công tố: là tội phạm và người phạm tội, bởi vì mục
đích cuối cùng của quyền cơng tố là buộc tội đối với người đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
Phạm vi quyền công tố: bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện đến khi
tội phạm ấy bị xử lý theo trình tự pháp luật tố tụng hình sự. Về bản chất, quyền
cơng tố xuất hiện ngay sau khi xuất hiện tội phạm và kết thúc khi tội phạm ấy
đã bị xử lý bởi Tồ án hoặc được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
Nội dung quyền công tố: là sự buộc tội (sự cáo buộc của Nhà nước)
đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
* Khái niệm thực hành quyền công tố:
Cũng giống như khái niệm “quyền công tố”, hiện nay, khái niệm “thực
hành quyền cơng tố” ở nước ta cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan
điểm gắn việc THQCT với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố
13
viên/ Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự. Quan điểm khác lại đồng nhất quyền
công tố với THQCT trên các phương diện về đối tượng, nội dung, phạm vi. Có
quan điểm cho rằng THQCT là một số biện pháp pháp lý như lập cáo trạng và
luận tội bị cáo trước phiên tồ sơ thẩm hình sự; thậm chí có quan điểm còn coi
THQCT chỉ là việc buộc tội bị cáo trước phiên toà sơ thẩm. Một quan điểm khác
lại mở rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng
hình sự bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Từ điển Luật học thì
giải thích: "Thực hành quyền cơng tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [46, tr.188].
Từ các quan niệm khác nhau về THQCT nêu trên, theo tác giả luận văn,
để làm rõ hơn khái niệm THQCT cần xuất phát từ những quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố mà pháp luật đã trao cho VKS, quyền năng
pháp lý này được thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với
người phạm tội.
Pháp luật hiện hành quy định những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm xác lập
cho VKS các quyền năng pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội như khởi
tố vụ án, bị can; yêu cầu điều tra; trực tiếp điều tra; áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; quyết định
truy tố bị can; đọc cáo trạng; luận tội đối với bị cáo; tranh luận với người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác; kháng nghị phúc thẩm…[33].
Việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý của VKSND như nêu trên
nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội gọi là THQCT.
Vậy, thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện
pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi tội phạm, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc
điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
14
Từ khái niệm trên về THQCT, có thể xác định được tối tượng tác động,
phạm vi, nội dung THQCT như sau :
Đối tượng tác động của thực hành quyền công tố: Là tội phạm và người
phạm tội. Do đó, khi có tin báo, tố giác tội phạm thì phải phát động cơng tố
quyền để xác minh có dấu hiệu tội phạm xảy ra hay khơng? nếu có thì khởi tố vụ
án hình sự để điều tra xem đối tượng thực hiện tội phạm là ai ? Khi đã xác định
được người phạm tội thì phải ra quyết định khởi tố bị can để làm sáng tỏ lỗi của
người đó khi thực hiện hành vi phạm tội (lỗi cố ý hay vơ ý) và các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ở đây, cần phải được phân biệt rõ việc phát
động quyền cơng tố khơng chỉ có VKS mà Cơ quan điều tra và Tồ án cũng có
quyền. Nhưng các quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra chỉ thực sự có ý
nghĩa phát động cơng tố quyền sau khi được VKS phê chuẩn; nếu quyết định
khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra khơng có căn cứ
hoặc trái pháp luật thì VKS có quyền huỷ bỏ. Cịn Tồ án có quyền khởi tố vụ án
hình sự nếu thơng qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, nhưng các
quyết định đó nếu khơng có căn cứ pháp luật thì sẽ bị VKS kháng nghị. Như vậy,
về mặt pháp lý thì chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền
cơng tố mà khơng chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào.
Phạm vi thực hành quyền công tố: Bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự
(hiểu một cách chi tiết là từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ
chức và công dân chứ khơng phải từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự),
diễn ra trong suốt quá trình điều tra thu thập chứng cứ, truy tìm người phạm tội
và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án tuyên bị cáo có tội đã có hiệu lực
pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Nội dung thực hành quyền cơng tố : Chính là thực hiện việc buộc tội đối
với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các biện pháp để THQCT
được áp dụng là khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại… để thu thập chứng cứ buộc tội ; áp dụng các biện pháp cưỡng
chế đối với người phạm tội như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, tạm giữ đồ
15
vật, kê biên tài sản, và áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt
tiền, hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thay cho tạm giam; lập cáo trạng truy tố
bị can ra Tòa, tiến hành các thủ tục xét hỏi, luận tội bị cáo, tiến hành hoạt động
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự ; kháng nghị các bản án, quyết định
của Tòa án bỏ lọt tội phạm, và người phạm tội, hoặc xét xử nhẹ đối với bị cáo
để giải quyết lại vụ án theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, phát biểu
quan điểm giải quyết vụ án tại các phiên tịa phúc thẩm, giám đốc thẩm hình
sự.
1.1.1.2. Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ
Để hiểu được khái niệm “tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ” trước hết ta phải hiểu được khái niệm “tội phạm”.
Khái niệm tội phạm được các nhà làm luật ghi nhận tại Điều 8 BLHS
Việt Nam năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Có thể khái quát một
cách ngắn gọn về khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có
lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Khái niệm “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ”, là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm nói chung. Hiện nay, trong
khoa học hình sự Việt Nam cịn có một số quan điểm khác nhau về khái niệm
của loại tội phạm này.
Có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy định của Nhà nước
về an toàn giao thông đường bộ” [23, tr.434]. Quan điểm này quá chung chung,
chưa đầy đủ, chưa nêu được cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội
phạm này.
Quan điểm khác thì cho rằng: “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an tồn giao thơng
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
16
khỏe, tài sản của người khác” [32, tr.13]. Quan điểm này mới chỉ nêu lên được
định nghĩa hành vi chứ chưa làm rõ được khái niệm tội VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB, hơn nữa hành vi phạm tội khác tội phạm, vì khái niệm tội phạm phải
có đầy đủ các dấu hiệu được nêu trong khái niệm tại Điều 8 Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Có quan điểm cụ thể hóa hơn biểu hiện của hành vi phạm tội VPQĐ về
điều khiển PTGTĐB, và nêu tương đối đầy đủ nội dung khái niệm tội này, song
vẫn thiếu dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Theo đó:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà
vi phạm quy định về an tồn giao thơng đường bộ gây thiệt hại cho
tính mạng, hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác [21, tr.519].
Tác giả đồng tình với khái niệm này. Từ khái niệm này, căn cứ vào các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, và thực tiễn ADPL THQCT trong
XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ
bản của tội VPQĐ về điều khiển PTGTĐB như sau:
Một là, tội VPQĐ về điều khiển PTGTĐB là hành vi xâm phạm đến sự
an tồn của hoạt động giao thơng vận tải đường bộ, cũng như an tồn về tính
mạng, sức khỏe và tài sản của người khác; xâm phạm đến an tồn cơng cộng,
trật tự cơng cộng và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Hai là, hành vi phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGTĐB được biểu hiện
trực tiếp thông qua thực hiện các chức năng điều khiển sự vận động của
PTGTĐB gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản; gây thiệt hại nghiêm
trọng cho trật tự an tồn cơng cộng.
Ba là, tội VPQĐ về điều khiển PTGTĐB do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Từ sự phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm tội VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB như sau: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
17
đường bộ là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự, vi phạm
quy định về an tồn giao thơng đường bộ do lỗi vơ ý gây thiệt hại cho tính
mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác.
1.1.1.3. Khái niệm và đặc trưng của áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân
* Khái niệm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ của Viện kiểm sát nhân dân
Áp dụng pháp luật THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB của VKSND là một dạng ADPL mà khi Nhà nước cần truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với chủ thể VPQĐ về điều khiển PTGTĐB, nhằm đảm bảo
cho các chủ thể phải tuân theo pháp luật, không vi phạm pháp luật. Cơ sở để
phát sinh hoạt động ADPL này là từ khi bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố
theo thủ tục rút gọn của VKSND cùng hồ sơ vụ án được chuyển đến Tòa án,
cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc bị kháng nghị và hồ sơ
được chuyển lên cho Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Khi đó, Nhà
nước thông qua hoạt động ADPL của VKSND nhằm chứng minh tội phạm và
người phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đồng
thời cũng thông qua hoạt động này của VKSND mà Tịa án có cơ sở ra được
các bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh,
thấu tình đạt lý; đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống
nhất. Trong giai đoạn này, chủ thể ADPL THQCT là KSV được phân công
THQCT và kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án.
Hoạt động ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB của VKSND được coi là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước,
nhằm cá biệt hóa các QPPL nói chung, và các QPPL về giao thơng đường bộ
18
nói riêng đối với các chủ thể trong q trình giải quyết vụ án VPQĐ về điều
khiển PTGTĐB.
Như vậy, từ những phân tích và luận giải trên có thể đưa ra khái niệm
ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB như
sau: Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ
án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ là hoạt
động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, trong đó Nhà nước thơng
qua Viện kiểm sát nhân dân, các Kiểm sát viên có thẩm quyền căn cứ vào các
quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật
để ban hành các văn bản áp dụng pháp luật làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quan hệ pháp luật trong q trình thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm
sát nhân dân giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ.
* Các đặc trưng của áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân
Trong tố tụng hình sự, giai đoạn XXST được coi là giai đoạn quan
trọng nhất, vì đây là giai đoạn đầu tiên công khai đưa vụ án ra xét xử, giải
quyết tất cả các vấn đề về nội dung của vụ án một cách toàn diện, đầy đủ nhất
theo quy định của pháp luật, tác động đến các quyền cơ bản của cơng dân.
Tính chất quan trọng đó được pháp luật nước ta khẳng định bằng nguyên tắc
quy định tại Điều 9 BLTTHS: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” [34]. Để
góp phần bảo đảm quyết định, bản án của Tòa án được đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật thì việc ADPL THQCT trong XXST các vụ án hình sự nói
chung, và các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB nói riêng của VKSND có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Cũng giống như ADPL THQCT nói chung, việc ADPL THQCT trong
XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND là một dạng
ADPL đặc thù. Do vậy, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều
19
khiển PTGTĐB ngồi những đặc trưng chung của ADPL cịn có những đặc
trưng mang tính đặc thù sau:
Thứ nhất, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB là hoạt động chỉ do VKSND và KSV tiến hành theo quy định của
pháp luật.
Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất [36, tr.57].
Là cơ quan duy nhất có chức năng THQCT trong XXST các vụ án hình
sự nói chung, các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB nói riêng, VKS có
nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể tại Điều 16, 17 Luật tổ chức
VKSND 2002, và các Điều 199, 200, 206, 207, 217, 229, 232, 237 BLTTHS
2003. Theo đó, tại phiên tịa XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB,
VKSND thực hiện ADPL THQCT thông quá các hoạt động cụ thể của KSV
được phân công nhiệm vụ ADPL THQCT như sau: 1- Đọc cáo trạng, quyết
định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đây là sự cáo buộc công
khai của VKS về hành vi phạm tội của bị cáo, hoạt động này là cơ sở để Hội
đồng xét xử tiến hành việc điều tra cơng khai tại phiên tịa; 2- Thẩm vấn để
làm rõ những vấn đề có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm
chứng minh những tài liệu, chứng cứ trong việc truy tố của VKS; 3- Kết thúc
phần thẩm vấn, VKS thực hiện việc luận tội đối với bị cáo. Luận tội của KSV
thể hiện quan điểm đánh giá của VKS mà hành vi phạm tội của bị cáo đã gây
ra, đề nghị việc ADPL đối với từng bị cáo theo quy định của BLHS; 4- Sau
phần luận tội là tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác [66]. Khi tranh luận, KSV phải đưa ra những chứng cứ, lý lẽ
20
lập luận một cách thuyết phục để bảo vệ quan điểm truy tố của VKS (nêu kết
quả kiểm tra công khai tại phiên tòa xác nhận quan điểm truy tố của VKS theo
cáo trạng là đúng), bác bỏ những ý kiến không đúng do luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra.
Với những quy định nêu trên, việc ADPL THQCT trong XXST các vụ
án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKS góp phần quan trọng trong quyết
định bản án của Tòa án, đảm bảo việc xét xử của Tịa án được cơng bằng,
đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh, thống nhất.
Thứ hai, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB của VKSND là hoạt động có tổ chức và nhân danh quyền lực Nhà
nước.
Tính tổ chức của hoạt động này được thể hiện ở chỗ: Để cho ra một văn
bản ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB thì
phải được tiến hành theo các điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật
quy định. Để tránh có những tùy tiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
nói chung, q trình giải quyết vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB nói riêng
có thể dẫn đến việc ADPL THQCT trong XXST khơng đúng, khơng chính
xác, bỏ lọt tội phạm, làm oan người khơng có tội, làm cho pháp luật không
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất; pháp luật tố tụng hình sự và các
quy định khác của pháp luật quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục ADPL THQCT
trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB, và yêu cầu chủ thể
ADPL THQCT trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành theo đúng
quy trình do pháp luật quy định.
Việc ADPL THQCT của KSV tại phiên tòa sơ thẩm được xem là sự tiếp
tục thể hiện ý chí, nhân danh quyền lực Nhà nước trong quá trình điều chỉnh
pháp luật. Ở một chừng mực nhất định ADPL THQCT trong XXST các vụ án
VPQĐ về điều khiển PTGTĐB mang tính chính trị, nó phục vụ những mục
đích chính trị nhất định. Việc ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về
21
điều khiển PTGTĐB không những phải phù hợp với pháp luật thực định mà
còn phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của Ngành
kiểm sát nhân dân trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong q trình
ADPL, KSV có thẩm quyền có thể nhân danh quyền lực Nhà nước, sử dụng
quyền lực Nhà nước để ban hành ra các văn bản ADPL có giá trị bắt buộc.
Thông thường các văn bản ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về
điều khiển PTGTĐB của VKS được gửi tới các đối tượng áp dụng để họ biết
thực hiện mà khơng cần có sự cưỡng chế của Nhà nước.
Thứ ba, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng
hình sự quy định.
Chủ thể bị ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB có thể được hưởng những lợi ích rất lớn, nhưng cũng có thể phải
chịu những hậu quả bất lợi rất nghiêm trọng, thậm chí có thể là tự do, tính
mạng. Do tính chất quan trọng và phức tạp của ADPL THQCT trong XXST
các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB như vậy nên trong luật tố tụng hình
sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quá trình ADPL THQCT trong XXST các vụ án hình sự nói
chung, và các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB nói riêng; tránh trường
hợp các chủ thể có thẩm quyền ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ
về điều khiển PTGTĐB áp dụng một cách tùy tiện, khơng đúng có thể dẫn
đến bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Thứ tư, kết quả ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều
khiển PTGTĐB cho ra một văn bản ADPL thể hiện quyền công tố của
VKSND
Văn bản ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB là các văn bản như: bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn, quyết định rút quyết định truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, quyết định kháng nghị... Bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo
22
thủ tục rút gọn của VKS là thay mặt Nhà nước truy tố người phạm tội ra trước
Tòa. Tuy nhiên, nếu trong quá trình ADPL THQCT trong XXST xét thấy hành
vi của bị cáo chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự VKS có thể ban
hành văn bản ADPL rút quyết định truy tố; hoặc xét thấy các chứng cứ chứng
minh tội phạm chưa vững chắc, phát sinh tình tiết mới tại Tịa mà khơng thể
bổ sung, VKS có thể rút hồ sơ, ban hành văn bản ADPL yêu cầu cơ quan điều
tra tiến hành điều tra bổ sung. Đối với các văn bản ADPL của Tòa án khơng
đúng, khơng chính xác, VKS có quyền ban hành văn bản ADPL bằng hình
thức kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm u cầu Tịa án cấp có thẩm quyền
xét xử theo quyết định kháng nghị của VKSND nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm minh, thống nhất. Các văn bản ADPL đó chính là thể
hiện quyền cơng tố của VKSND trong ADPL THQCT trong XXST các vụ án
VPQĐ về điều khiển PTGTĐB.
1.1.2. Các giai đoạn áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân
Là một dạng của ADPL, nên quy trình của hoạt động ADPL THQCT
trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND cũng
được thực hiện qua 4 giai đoạn, cụ thể:
* Giai đoạn thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét, đánh giá các
tình tiết có liên quan đến vụ án để ADPL.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét, đánh giá các tình tiết có liên quan
đến vụ án là nhiệm vụ trọng tâm của KSV khi được phân công ADPL THQCT
trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND. Việc này
có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ, chỉ có nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, xem xét, đánh
giá các tình tiết có liên quan đến vụ án KSV mới nắm vững được những sai
phạm trong hoạt động tố tụng, sự thiếu chuẩn xác trong việc ban hành bản án;
nắm được nội dung vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo, các chứng cứ buộc
tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yêu cầu
23
bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm dân sự trong vụ án...Nếu không nghiên
cứu kỹ hồ sơ, xem xét, đánh giá các tình tiết có liên quan thì sẽ khơng nắm
vững hồ sơ để chuẩn bị, xây dựng đề cương xét hỏi, chất lượng tham gia xét
hỏi của KSV sẽ không đạt yêu cầu, và không sử dụng nhuần nhuyễn các
chứng cứ buộc tội khi luận tội. Đi liền với nó là đề nghị ADPL về đường lối
giải quyết vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB sẽ không chuẩn xác. Việc
nghiên cứu hồ sơ có ý nghĩa quyết định đến việc hồn thành nhiệm vụ của
KSV tại phiên tịa sơ thẩm xét xử các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB,
bảo đảm cho việc ra quyết định ADPL của VKSND có chất lượng, tuân thủ
theo quy định của pháp luật.
* Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn lựa chọn QPPL làm cơ sở pháp lý cho
việc đưa ra các quyết định ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về
điều khiển PTGTĐB của VKSND.
Ở giai đoạn này, KSV được phân công phải tiến hành phân tích, đánh
giá tổng hợp, giải thích QPPL; phải làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa
của QPPL được lựa chọn. Lựa chọn QPPL đúng, phù hợp là yêu cầu hết sức
quan trọng để quyết định ADPL chính xác. Khơng tìm ra và lựa chọn được
các quy phạm phù hợp, chính xác, khơng hiểu rõ, hiểu đúng được nội dung
của các quy phạm sẽ tất yếu dẫn đến việc ADPL THQCT trong XXST các vụ
án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của KSV khơng chính xác, đưa ra những
quyết định sai lầm, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác. Các QPPL được
trù tính áp dụng cho trường hợp đó phải là QPPL đang có hiệu lực pháp luật,
và không mâu thuẫn với các đạo luật khác.
* Giai đoạn thứ ba: Ban hành quyết định ADPL THQCT trong XXST
các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND.
Trong giai đoạn này, ban hành quyết định ADPL là việc VKSND ra các
quyết định về đường lối xử lý vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB, đề nghị
Tòa án quyết định tội phạm và hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo, và bảo vệ
quan điểm truy tố của VKS. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của cả quá trình
24
ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của
VKSND. Quyết định về đường lối giải quyết vụ án như tội phạm, hình phạt,
xử lý vật chứng, bồi thường... được công bố sau khi đã xem xét, đối chiếu một
cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu
thập trong hồ sơ vụ án, các tình tiết, chứng cứ đã được điều tra cơng khai tại
phiên tịa, các văn bản QPPL có liên quan.
Có thể nói, đây là giai đoạn trọng tâm của hoạt động ADPL THQCT
trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND, là kết
quả áp dụng các quy định của pháp luật vào từng vụ án, từng bị cáo cụ thể để
đề ra các quyết định chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội.
* Giai đoạn thứ tư: Tổ chức thực hiện quyết định ADPL THQCT trong
XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình ADPL THQCT trong XXST
các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB của VKSND. Khác với các quyết
định ADPL của các cơ quan Nhà nước khác, quyết định ADPL của VKSND
trong giai đoạn này được thi hành ngay mà mặc nhiên không phải triển khai
các biện pháp tổ chức thi hành. Cụ thể, khi VKS rút toàn bộ cáo trạng trước
khi mở phiên tịa thì vụ án phải đình chỉ theo quy định tại Điều 180, 181
BLTTHS; hoặc kháng nghị phúc thẩm của VKS được ban hành thì bản án sơ
thẩm của Tịa án sẽ chưa được thi hành như quy định tại khoản 1 Điều 237
BLTTHS : “Những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được
đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 của Bộ luật
này”. Đó là một trong những bảo đảm quan trọng để quyết định của VKSND
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
1.1.3. Vai trò áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong xét
xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ của Viện kiểm sát nhân dân
25
Thứ nhất, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm xét xử nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013, và các văn bản pháp luật
hiện hành, VKSND có vai trị và nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Một trong những hoạt
động cơ bản của VKSND để thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó ADPL
THQCT trong XXST các vụ án hình sự nói chung, và các vụ án VPQĐ về
điều khiển PTGTĐB nói riêng. ADPL ở giai đoạn này nhằm quyết định truy
tố một người phạm tội ra trước Tòa án, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội là một yêu cầu hết sức quan trọng.
Thứ hai, ADPL THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển
PTGTĐB của VKSND có vai trị góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về giao thơng đường bộ; kích thích tư duy pháp lý mới; tạo
cho công dân sự hiểu biết và tự giác tuân thủ các quy định về điều khiển
PTGTĐB, tránh được những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Thực tế cho thấy, các QPPL nói chung, và các QPPL để ADPL
THQCT trong XXST các vụ án VPQĐ về điều khiển PTGTĐB nói riêng đều
được kiểm nghiệm qua q trình xét hỏi, thẩm vấn cơng khai tại phiên tịa sơ
thẩm, kiểm nghiệm về tính phù hợp hay khơng phù hợp, có căn cứ hay khơng
có căn cứ... là cần phải có những quy định mới, hay cần sửa đổi bổ sung
những quy định cho phù hợp. Thông qua công tác này sẽ phát hiện ra các
dạng vi phạm pháp luật mới, những dạng quan hệ xã hội mới cần phải có
những QPPL điều chỉnh kịp thời, những quy phạm đã lạc hậu, chồng chéo cần
sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế.