Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh phú thọ hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.33 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng xã hội nói chung và bình đẳng giới nói riêng khơng chỉ là vấn
đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề có tính chất tồn cầu mà nhân loại đang nỗ
lực hướng tới và phấn đấu đạt được. Công ước của Liên Hợp Quốc về xố bỏ
tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ(gọi tắt là Công ước
CEDAW) được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thơng qua ngày 18-12-1979 và
có hiệu lực từ ngày 03-9-1981 được 184 quốc gia trên thế giới ký kết, phê
chuẩn (trong đó có Việt Nam) đã chứng minh cho điều này. Đây là văn bản
pháp luật quốc tế đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến nay, đề cập toàn diện
đến các quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực chính tri, kinh tế văn hố, xã hội
và gia đình.
Ở Việt Nam, ngay trong bản Tun ngơn Độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn
những câu bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng… và trong Tun ngơn Nhân
quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do
bình đẳng về quyền lợi và phải ln được tự do, bình đẳng về quyền lợi… để
nhấn mạnh lại một lần nữa, quyền bình đẳng của con người nói chung trong
đó có quyền bình đẳng giới.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn nhất
quán quan điểm tơn trọng và bảo đảm quyền bình đẳng giới; Đảng ta ln xác
định bình đẳng giới là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan
trọng để phát huy nhân tố con người đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện
nay. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:
Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần; tạo điều kiện để
người phụ nữ thực hiện tốt vai trị người cơng dân, người lao động, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo phụ nữ để phụ nữ



2
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và
quản lý ở các cấp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và
hồn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế
độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ.
Thực hiện chủ trương này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 11NQ/TƯ về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Nghị
quyết đặt ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ
về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu
CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về
đời sống vật chất, văn hoá tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc
xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội
và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong những quốc gia có thành tựu
bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
Thể chế hoá những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng giới như: Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992, Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật lao động năm 2004, Luật hơn nhân
và gia đình năm 2000… và đặc biệt là Luật Bình đẳng giới được thơng qua
ngày 29-11-2006, có hiệu lực ngày 1-7-2007 gồm 6 chương, 44 điều. Những
văn bản trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện quyền bình
đẳng giới trong thực tiễn đời sống xã hội để bảo đảm ngày càng đầy đủ hơn,
triệt để hơn quyền bình đẳng của phụ nữ.
Với sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới ở nước ta những năm gần đây đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Việt Nam là một trong các quốc gia Đông
Nam Á có tốc độ khắc phục khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm
trở lại đây (WB,2006); Tỷ lệ cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, cơ quan dân



3
cử và tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý tăng lên ở tất cả các lĩnh vực;
vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội được đề cao. Do đó, phụ nữ
Việt Nam ngày càng góp phần to lớn vào cơng cuộc đổi mới, phát triển đất
nước và cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng của phụ nữ trên thế giới.
Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tế, việc thực hiện pháp luật bình đẳng
giới chưa nghiêm nên tình trạng bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại trên nhiều
lĩnh vực, ở nhiều nơi; nạn bạo lực gia đình có những diễn biến phức tạp. Điều
đó, địi hỏi phải có hệ thống các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật bình đẳng giới.
Phú Thọ là một tỉnh trung du, miền núi phía bắc, kinh tế chậm phát triển,
đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, trình độ dân trí khơng đồng đều… nên
việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật bình đẳng giới cũng
còn nhiều hạn chế, bất cập.
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên cũng như địi hỏi của xu thế hội nhập
quốc tế, cần phải phát huy hơn nữa nguồn lực con người đặc biệt là nguồn
nhân lực nữ vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội, tơi chọn đề tài: “Thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” để nghiên cứu
và viết luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng ta luôn khẳng định, phụ nữ là lực lượng to lớn, có vai trị quan
trọng trong gia đình và ngồi xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
của đất nước. Trong xu thế đổi mới và hội nhập hiện nay, thực hiện bình đẳng
giới, sự quan tâm tới cơng tác cán bộ nữ, coi trọng việc tăng tỷ lệ nữ tham gia
vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan Đảng và cơ quan chính
quyền nhà nước là điều kiện quan trọng để phát huy tiềm năng, nâng cao địa
vị xã hội cho phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ trong xã hội.
Chính vì vậy, vấn đề bình đẳng giới đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của
nhiều nhà khoa học, những người làm cơng tác nghiên cứu ở những khía



4
cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
vấn đề này của các cá nhân, tập thể đã được cơng bố.
2.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
- Lê Trung Quân (2004), Thực hiện pháp luật hoà giải ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Bình Thuận hiện nay. Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ
Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Tiến Long (2005), Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
ở tỉnh Bình Định hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Đình Trung (2007), Thực hiện pháp luật phịng chống ma tuý
trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Việt Nga (2007), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã,
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ
Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lưu Tích Thái Hồ (2008), Thực hiện pháp luật hơn nhân và gia đình
trong cộng đồng dân tộc Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ Luật, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Lệ Hoa (2009), Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Tú (2010), Thực hiện pháp luật về quốc tịch ở Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Hồ Thị Kim Ngân (2010), Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.



5
- Nguyễn Đức Phú (2012), Thực hiện pháp luật về quyền con người của
phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Đăng Khoa (2013), Thực hiện pháp luật trong kiểm sát thi
hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ
Luật, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Những cơng trình trên đều nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn; đưa ra những khái niệm về thực hiện pháp luật và đánh giá thực trạng
thực hiện pháp luật ở từng lĩnh vực cụ thể. Những nội dung này rất cần thiết
cho việc nghiên cứu của luận văn.
2.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến giới và thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới. Có một số cơng trình tiêu biểu:
- TS Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trị người phụ
nữ trong gia đình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Thị Q (2004-2005), Bình đẳng và hồ nhập giới trong gia đình
Việt Nam trong các cơng trình dân số và sức khoẻ sinh sản, phịng chống bạo
lực gia đình.
- Lê Thị Q (2005), Phịng chống bn bán phụ nữ và trẻ em qua biên
giới, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
- Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực tri thức nữ Việt Nam trong
sự nghiệp CNH,HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Ngọc Văn (Chủ biên) (2006), Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ
quyền, quan điểm giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Cao Quốc Việt (2006), Hồn thiện pháp luật phịng, chống bn bán
phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trịnh Đình Thể (2007), Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp
luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.



6
- Nguyễn Văn Huê (2007), Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, dân chủ và pháp luật.
- Nguyễn Văn Sỹ (2010), Thực hiện pháp luật phịng chống bạo lực gia
đình ở huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện
Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Thu Hà (2011), Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định,
Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Thuý (2013), Thực hiện pháp luật về phịng, chống bạo
lực gia đình ở tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị- Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học; các đề
án, đề tài, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết về vấn đề giới và bình đẳng giới.
Ở mức độ khác nhau, các cơng trình khoa học trên đã đề cập đến thực
hiện pháp luật ở lĩnh vực giới và bình đẳng giới. Đến nay, chưa có cơng trình
nào đề cập đến vấn đề thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ.
Mặc dù vậy, các cơng trình khoa học trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị
cho việc nghiên cứu và viết luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, tìm hiểu và đánh giá đúng
tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ, mục đích nghiên
cứu của luận văn là đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm
thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, thơng qua đó
góp phần thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong phạm vi cả nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới.



7
Thứ hai, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay, kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
Thứ ba, đề xuất và luận chứng những phương hướng và giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế và bảo đảm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về “nam, nữ bình quyền”,
bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, về nhà nước và pháp luật, mối quan
hệ giữa pháp luật với thực hiện pháp luật, thực hiện quản lý nhà nước bằng
pháp luật về bình đẳng giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là
các phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, lịch sử cụ thể. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp của
các môn khoa học khác, như luật học so sánh, khoa học thống kê.
Các phương pháp nghiên cứu trên được luận văn sử dụng cụ thể như sau:
Chương 1, chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để
nghiên cứu những vấn đề lý luận.
Chương 2, sử dụng các phương pháp lịch sử cụ thể, so sánh, thống kê,
kết hợp lý luận và thực tiễn để đảm bảo tính khách quan, tồn diện trong các
đánh giá.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối hệ thống,
toàn diện vấn đề thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ. Vì vậy,

luận văn có những đóng góp khoa học như sau:


8
- Góp phần hệ thống hố và phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận việc thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới: làm rõ các khái niệm về “giới”, “bình đẳng
giới”; “pháp luật về bình đẳng giới”, “thực hiện pháp luật về bình đẳng giới”;
nội dung pháp luật bình đẳng giới; khái niệm, đặc điểm hình thức thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới; các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật bình
đẳng giới.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ;
chỉ ra kết quả, hạn chế; làm rõ nguyên nhân và trên cơ sở đó, đề xuất những
phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả pháp luật về bình đẳng
giới ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.Thơng qua đó, góp phần nâng cao nhận
thức, tiến tới thay đổi hành vi để ngăn ngừa và xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng
ở tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật
bình đẳng giới ở một địa phương cụ thể.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
nhà hoạch định chính sách và các cơ quan chức năng trong việc xây dựng và
tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Phú Thọ; cho hoạt động
giảng dạy pháp luật bình đẳng giới ở các trường Chính trị tỉnh, trung tâm Bồi
dưỡng chính trị huyện cũng như hoạt động nghiên cứu hồn thiện pháp luật về
bình đẳng giới ở Việt Nam trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI

1.1.1. Khái niệm giới, bình đẳng giới và pháp luật về bình đẳng giới
1.1.1.1. Khái niệm giới
Giới là một khoa học nghiên cứu sự khác biệt về sinh học và mối quan
hệ xã hội giữa nam và nữ; những nguyên nhân đưa đến sự thay đổi của mối
quan hệ đó trong từng nền văn hố, từng thời đại lịch sử; những điều kiện xã
hội tạo nên và duy trì lâu dài sự bất bình đẳng nam nữ và những giải pháp để
xoá bỏ sự bất bình đẳng đó.
Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, giới và giới tính là hai khái
niệm cặp đơi, có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, để hiểu được khái niệm
giới, trước hết, phải tìm hiểu khái niệm giới tính.
Giới tính là một khái niệm ra đời từ môn sinh vật học, chỉ sự khác biệt
giữa nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá
trình tái sản xuất con người,di truyền nịi giống.
Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ như chỉ nữ
giới mới có khả năng mang thai và sinh con hoặc chỉ nam giới mới có khả
năng sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai. Về mặt sinh học, những đặc
điểm về giới tính là bẩm sinh và khơng thể thay đổi được để phân biệt người
nam giới và người nữ giới. Những đặc điểm này là chung cho mọi người nam
giới và nữ giới thuộc bất kỳ dân tộc nào, chủng tộc nào, sinh sống bất kỳ nơi nào
trên trái đất này ở mọi nền văn hoá, mọi chế độ chính trị và ở mọi thời đại.
Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học. Năm 2006, lần đầu tiên,
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xem xét, thông qua



10
Luật Bình đẳng giới trên cơ sở ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia,các
cơ quan, tổ chức hữu quan và đóng góp của nhân dân. Luật đã quy định tại
Điều 5, giới được giải thích là khái niệm “chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của
nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”.
Nói về giới là nói về vai trị, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan
niệm hay quy định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi
đó thể hiện trước hết ở sự phân cơng lao động , phân chia các nguồn của cải,
vật chất, tinh thần tức là cách thức đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã
hội. Ví dụ: Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu ở một số nước, một số
khu vực thì phụ nữ phải làm hầu hết các cơng việc trong nhà như chăm sóc
con cái, nấu ăn, phục vụ chồng… Cịn nam giới thì có trách nhiệm lao động,
sản xuất để ni gia đình và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra, con người
chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần tiếp thu và chấp nhận từ
nền nếp của gia đình , quy ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hố.
Như vậy, khi nói khái niệm giới tính là nói đến đặc điểm của con người
do tự nhiên quy định. Nó hầu như bất biến đối với nam và nữ, xét cả về không
gian và thời gian. Cịn nói đến khái niệm giới là nói đến địa vị xã hội, hành vi
ứng xử của nam giới và nữ giới do điều kiện xã hội tạo nên. Địa vị xã hội và
hành vi đó khơng bất biến mà thay đổi do sự thay đổi của điều kiện xã hội. Ví
dụ: so với cách đây hơn 60 năm về trước, đặc điểm giới tính của phụ nữ nước
ta hiện nay khơng có sự thay đổi nhưng đặc điểm về giới- tức là địa vị xã hội
so với nam giới- đã có sự thay đổi căn bản bởi vì, kể từ cách mạng tháng Tám
năm 1945, điều kiện xã hội nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc. Trước
đây, phụ nữ chỉ ở nhà làm công việc nội trợ và nuôi con. Nhưng ngày nay,
phụ nữ đã có mặt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, đạt những thành quả
được xã hội ghi nhận thậm chí nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong
bộ máy nhà nước.
Mặc dù, có nội hàm khác nhau nhưng giới tính và giới có mối liên quan

với nhau. Giới tính là tiền đề sinh học của giới; Nó là dấu hiệu đầu tiên và lâu


11
dài để phân biệt nam và nữ.Tìm hiểu những đặc điểm giới tính cho phép hiểu
rõ năng lực, sở trường cũng như nhu cầu riêng của nam và nữ; trên cơ sở đó
để phân cơng lao động phù hợp nhằm phát huy hiệu quả năng lực và đáp ứng
nhiều hơn nhu cầu riêng của nam và nữ.
1.1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều ngành khoa học khác
nhau. Trong khoa học pháp lý, bình đẳng được quan niệm là một trạng thái
pháp lý được pháp luật xác lập, giữa các chủ thể có sự ngang bằng về quyền
và nghĩa vụ, trách nhiệm mà không phụ thuộc vào sự khác biệt của các chủ
thể đó. Một trong các quyền bình đẳng quan trọng nhất là quyền bình đẳng
giữa nam và nữ.
Bình đẳng nam -nữ là vấn đề luôn thu hút được sự quan tâm sâu sắc của
các quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy,
tiến bộ của xã hội sẽ chậm lại nếu trong xã hội có một bộ phận đơng người có
quyền bị hạn chế hoặc loại trừ. Tác động tiêu cực đối với bộ phận đó sẽ ảnh
hưởng dây chuyền đến tồn xã hội. Như vậy, việc đối xử khơng bình đẳng đối
với phụ nữ khơng chỉ làm giảm thiểu sự đóng góp của phụ nữ vào sự phát
triển của xã hội mà cịn ảnh hưởng khơng tốt đến cuộc sống gia đình cũng như
việc chăm sóc, ni dưỡng và phát triển của thế hệ sau.
Có thể nói, quyền bình đẳng nam- nữ từ lâu đã được các nhà khoa học,
các nhà hoạt động chính trị- xã hội nghiên cứu; được các tổ chức quốc tế thừa
nhận trong các văn kiện quan trọng ngay khi mới thành lập. Cùng với sự phát
triển theo thời gian, quyền bình đẳng giữa nam và nữ được xác định trong nội
hàm của khái niệm “bình đẳng giới”. Hiện nay, khái niệm này cũng có những
ý kiến, quan điểm khác nhau.
Có ý kiến cho rằng: Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như

nhau của các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới, biểu đạt
sự đối xử như nhau của xã hội đối với nam giới và nữ giới; là trạng thái xã hội
trong đó nam giới và nữ giới có vi trí như nhau, có các cơ hội như nhau để


12
phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội
và được hưởng lợi từ sự phát triển của kết quả đó. Ý kiến khác cho rằng: Bình
đẳng giới được hiểu là bình đẳng về quyền cơ bản và về cơ hội phát triển cho
cả nam giới và nữ giới. Một ý kiến nữa cho rằng: Bình đẳng giới là sự thừa
nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và
nam giới.
Luật bình đẳng giới đưa ra khái niệm về bình đẳng giới như sau: “Bình
đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Nội dung bình đẳng giới được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, bình đẳng về vị trí, vai trị của nữ giới và nam giới trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Điều đó biểu biện ở sự bình đẳng về
quyền và bảo vệ các quyền của nữ giới và nam giới trong đó có quyền tự do, tự
quyết, quyền được tôn trọng danh dự và nhân phẩm, quyền được tự do lựa chọn
trong hôn nhân, trong tìm việc làm, trong việc quyết định sinh con…
Thứ hai, bình đẳng về cơ hội phát huy năng lực. Để có được điều này,
cần tạo cơ hội cho cả nam giới và nữ giới trong giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ văn hố cũng như nâng cao năng lực trong các hoạt động kinh
tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, cần gắn liền cơ hội bình đẳng với điều kiện
phù hợp để nữ giới thực hiện sự bình đẳng thực sự so với nam giới, dù những bất
lợi này có thể là do đặc điểm giới tính hay do định kiến giới tạo nên.
Thứ ba, bình đẳng trong việc ra quyết định. Nữ giới và nam giới cần
được bàn bạc, cùng quyết định việc của gia đình, cơ quan và cộng đồng. Nữ

giới cần được tham gia nhiều hơn ở các vị trí lãnh đạo và có vai trị trong việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ tư, bình đẳng trong thụ hưởng lợi ích của sự phát triển: tạo điều kiện
để nữ giới được hưởng những lợi ích vật chất như dịch vụ y tế, giáo dục… và
lợi ích tinh thần như văn hố, giải trí…


13
Ý nghĩa sâu xa của bình đẳng giới khơng chỉ là tạo cơ hội cho phụ nữ
được hội nhập đầy đủ vào đời sống xã hội vì lợi ích của bản thân họ mà còn là
điều kiện cho sự phát triển hài hồ của gia đình, sự cơng bằng, tiến bộ của xã
hội và sự đi lên của đất nước. Vì vậy, thực hiện tốt quyền phụ nữ và nâng cao
bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển của mọi
quốc gia.
1.1.1.3. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Có thể nói, bình đẳng là nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Song
nhu cầu không phải là một “cái” luôn được đáp ứng và con người có thể đạt
được mà chỉ có những nhu cầu nào được nâng lên thành “quyền” thì con
người mới có thể yêu cầu đáp ứng và đạt được điều mình mong muốn. Cơng
cụ, phương tiện để biến nhu cầu thành quyền chính là pháp luật do nhà nước
ban hành và đảm bảo thực hiện theo một trình tự nhất định nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ bình đẳng giới nói riêng. Nói cách
khác, quyền bình đẳng nam- nữ sẽ được hiện thực hoá khi chúng được thể chế
hoá bằng các quy định pháp luật và được nhà nước đảm bảo thực hiện trong
thực tế đời sống.
Bình đẳng giới là một dạng cụ thể của bình đẳng xã hội. Nó cũng cần có
sự điều chỉnh của pháp luật nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam giới và
nữ giới cũng như ở những lĩnh vực mà nữ giới đang chịu thiệt thòi, đang có vị
trí thấp kém hơn so với nam giới do nhiều nguyên nhân khác nhau bắt nguồn
từ đời sống xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam và góp

phần thúc đẩy cơng cuộc đấu tranh cho sự nghiệp bình đẳng giới trên thế giới.
Nữ giới với tư cách là một người cơng dân cũng có đầy đủ những quyền
như nam giới. Hiến pháp và các văn bản pháp luật của nhà nước ta đã ghi
nhận quyền bình đẳng nam nữ, nữ giới có những quyền như nam giới nhưng
do những định kiến coi thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề nên trên
thực tế, nữ giới cịn gặp nhiều khó khăn, trở ngại khi tham gia vào các hoạt
động chính trị, hoạt động xã hội. Vì vậy, để bảo đảm cho nữ giới thực hiện


14
được quyền bình đẳng của mình, nhà nước phải ban hành các quy định pháp
luật trong đó có cả những chế tài nghiêm khắc để xử lý những hành vi vi
phạm quyền bình đẳng nam -nữ. Như vậy, pháp luật khơng chỉ ghi nhận, cụ
thể hố quyền bình đẳng của phụ nữ mà còn quy định những thiết chế bảo
đảm thực hiện những quyền đó trong thực tế.
Từ những phân tích trên, luận văn xây dựng khái niệm “pháp luật về bình
đẳng giới” như sau: Pháp luật về bình đẳng giới là tổng thể các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa
nhận nhằm điều chỉnh về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; bảo đảm cho cơng
dân nam, nữ có vai trị, cơ hội phát triển như nhau, được hưởng thụ như nhau
những thành quả của sự phát triển, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và
nữ.
Như vậy, pháp luật về bình đẳng giới bao gồm các quy định về quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực
khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền bình đẳng của nữ giới được thực
hiện có hiệu quả trên thực tế. Những quy phạm pháp luật về bình đẳng giới
trong hệ thống pháp luật Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh tới sự bình đẳng giới
thực chất giữa nam và nữ xuất phát từ sự khác biệt khi thực hiện thiên chức
làm mẹ của nữ giới. Ví dụ: Trong pháp luật về lao động, ngồi các quy định

quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong lao động, sử
dụng lao động phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới đồng thời cũng quy
định chế độ đối với lao động nữ khi có thai, sinh con và ni con nhỏ…Có
thể nói, những quy định pháp luật về bình đẳng giới của nước ta đã góp phần
giải phóng người phụ nữ và nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội.
1.1.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bình đẳng giới
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm và tổng hợp các quy phạm trong các
văn bản pháp luật về bình đẳng giới, có thể khẳng định, pháp luật bình đẳng
giới điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực cụ


15
thể của đời sống xã hội, bao gồm những nhóm quan hệ sau:
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực chính trị.
Pháp luật về bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực
chính trị quy định rõ một số vấn đề : Thứ nhất là, cơ cấu nữ đại biểu dân cử:
“Số đại biểu Quốc hội là phụ nữ do UBTVQH dự kiến trên cơ sở đề nghị của
Đoàn Chủ tịch BCHTW Hội LHPN Việt nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại
biểu thích đáng” [32]; “Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện dự kiến cơ
cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND được bầu… trong đó bảo đảm số
lượng thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ”. Thứ hai là, quy định rõ ngun
tắc “thực hiện bình đẳng giới”, khơng phân biệt đối xử trong công tác sử dụng
và quản lý cán bộ. Thứ ba là, quy định rõ các hành vi vi phạm pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị (xem ở mục 1.2.3.1).
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực kinh
tế- lao động
Các quy định của pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ
trong lĩnh vực kinh tế thể hiện ngun tắc bình đẳng, khơng có sự phân biệt
đối xử với phụ nữ và quy định rõ: Quyền bình đẳng của vợ, chồng đối với
quyền sử dụng đất (Luật Đất đai năm 2003); Quyền bình đẳng của công dân

không phân biệt nam, nữ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh
nghiệp (Luật Doanh nghiệp năm 2005); Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng nhiều lao động nữ
(Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008); Quy định rõ các hành vi vi
phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế (xem ở mục 1.2.3.1).
Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động đã quy định cụ thể
một số vấn đề như: quyền của lao động nữ kể cả đối với nữ cán bộ, công
chức(như quyền được hưởng chế độ thai sản, được nghỉ trước và sau khi sinh
con…) nhằm bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ; quy định rõ trách
nhiệm của Nhà nước (như bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về
mọi mặt với nam giới; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước phải mở nhiều


16
loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ phù hợp với đặc điểm về cơ thể,
sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ…); quy định rõ các hành vi vi phạm
pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động (xem ở mục 1.2.3.1).
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực giáo
dục- đào tạo và khoa học- công nghệ
Pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực giáo
dục - đào tạo luôn quán triệt nguyên tắc không phân biệt nam, nữ; Quy định
rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Đồng thời, cũng quy định các
hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo
(xem ở mục 1.2.3.1).
Pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực khoa
học- cơng nghệ ln bảo đảm quyền bình đẳng đối với cá nhân (không phân
biệt nam, nữ) trong nghiên cứu khoa học; quy định trách nhiệm của nhà nước
(trọng dụng nhân tài, có chính sách khuyến khích trong đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực nữ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ); quy định rõ các

hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học- cơng
nghệ (xem ở mục 1.2.3.1).
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực y tế
Pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực y tế
nhằm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử với người bệnh, ưu tiên
khám bệnh, chữa bệnh đối với phụ nữ có thai. Quy định trách nhiệm của nhà
nước trong việc xây dựng các chính sách và biện pháp để đảm bảo cân bằng
giới tính theo quy luật sinh sản tự nhiên, điều chỉnh mức sinh nhằm tạo cơ cấu
dân số hợp lý về giới tính, loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, bảo đảm phụ
nữ và nam giới có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau trên mọi lĩnh vực. Quy định
các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế (xem ở
mục 1.2.3.1).
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực văn


17
hố, thơng tin, thể thao.
Pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực văn
hố, thơng tin, thể thao nhằm đảm bảo cho mọi người không phân biệt nam,
nữ được hưởng thụ các giá trị văn hoá để nâng cao đời sống tinh thần; được
rèn luyện thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ thể chất đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Đồng thời, pháp luật hiện hành còn quy định
các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hố, thơng
tin, thể thao ( xem ở mục 1.2.3.1).
- Nhóm quan hệ pháp luật bình đẳng giới phát sinh trong lĩnh vực gia đình
Pháp luật bình đẳng giới điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực gia
đình ln thể hiện nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (hơn
nhân tự nguyện, một vợ một chồng, không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa
con trai và con gái…); quy định quyền bình đẳng của vợ, chồng (vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia

đình…); quy định các hành vi vi phạm pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực
gia đình ( xem ở mục 1.2.3.1)
Như vậy, vấn đề bình đẳng giới có cơ sở pháp lý khá đầy đủ và toàn
diện, từ việc xác lập, ghi nhận đến việc bảo vệ, bảo đảm bằng pháp luật. có
thể nói, pháp luật Việt Nam có những quy định riêng nhưng đồng thời cũng
rất hài hoà với pháp luật quốc tế trong việc khẳng định quyền bình đẳng của
phụ nữ; đây là quyền quan trọng cần được bảo vệ trên cơ sở bình đẳng, khơng
phân biệt đối xử với trách nhiệm tích cực của quốc gia và cả cộng đồng quốc
tế vì dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Trước khi đến với khái niệm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, cần
phải hiểu khái niệm thực hiện pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà


18
nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ
xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội. Có thể nói, pháp luật là một cơng cụ sắc
bén và hữu hiệu mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội, Vì vậy, điều 12Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…” [31].
Để quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật
hồn chỉnh, đồng bộ, thống nhất và pháp luật phải được thực hiện nghiêm
minh. Như vậy, hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động thực hiện pháp
luật là hai nội dung liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa và tầm quan trọng
như nhau. Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành dù có tốt và đầy đủ
đến đâu đi chăng nữa cũng mới chỉ ở trạng thái “tĩnh” mà thôi. Để Hiến pháp

và pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những mối quan hệ pháp lý thể hiện
qua hành vi của các cá nhân, tổ chức thì các quy định của Hiến pháp và pháp
luật phải được thực hiện trên thực tế. Do đó, thực hiện pháp luật là một trong
những vấn đề lý luận cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa học
pháp lý cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý nước ta còn tồn tại nhiều quan điểm về
thực hiện pháp luật.
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của trường Đại
học Luật Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [48].
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật- Đại
học quốc gia Hà Nội đưa ra khái niệm:
Thực hiện pháp luật là hành vi(hành động hoặc không hành động)
của con người phù hợp với quy định của pháp luật. Nói cách khác,
tất cả những hành động nào của con người, của tổ chức mà thực
hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì được coi là sự thực hiện


19
thực tế các quy định pháp luật [49].
Cịn giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà
nước và pháp luật- Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh thì
đưa ra khái niệm như sau: “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc
sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của chủ thể pháp luật” [20].
Nhìn chung, các khái niệm trên đều có quan điểm tương đối đồng nhất
về nội dung, đó là: Thực hiện pháp luật là việc làm có mục đích để làm cho
những quy định của pháp luật được thực hiện trong cuộc sống. Sự khác nhau
trong các khái niệm chỉ ở chỗ: thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động

hay là hành vi. Tuy nhiên, quan điểm thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực
trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật là hợp lý hơn và chặt chẽ hơn.
Trên cơ sở những quan điểm đã trình bày ở trên về thực hiện pháp luật,
có thể xây dựng khái niệm “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới “như sau:
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là một q trình hoạt động có mục
đích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm hiện thực hoá các yêu cầu, nội
dung của quy phạm pháp luật về bình đẳng giới, bảo đảm cho bình đẳng giới
được thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia đình.
Như vậy, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là q trình hoạt động có
mục đích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các quy định của
pháp luật về bình đẳng giới. Pháp luật về bình đẳng giới quy định mỗi công
dân không phân biệt nam, nữ có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm học tập nâng
cao hiểu biết, nhận thức về giới và bình đẳng giới; thực hiện và hướng dẫn
người khác có các hành vi đúng mực về bình đẳng giới; phê phán, ngăn chặn
các hành vi phân biệt đối xử về giới; giám sát việc thực hiện và bảo đảm bình
đẳng giới của cộng đồng, cơ quan, tổ chức và công dân. Thông qua đó nhằm
thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ sự phân biệt về giới, tạo cơ hội


20
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế- xã hội và phát triển nguồn
nhân lực; tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và gia đình.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là thực hiện pháp luật ở một lĩnh
vực cụ thể. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của thực hiện pháp luật, thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới cịn có những đặc điểm mang tính đặc thù.

Điều này xuất phát từ việc tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới được
tiến hành toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; có sự tham gia,
phối hợp đồng bộ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và được thực hiện kiên
trì, từng bước theo sự phát triển chung về kinh tế xã hội của đất nước. Có thể
nói, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới có một số đặc điểm sau:
Một là, mục đích thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là nhằm xoá bỏ
sự phân biệt về giới, bảo đảm nam, nữ bình đẳng trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Hiện nay, bình đẳng giới đã trở thành vấn đề mang tính thời đại. Hầu hết
các quốc gia đều quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới bởi vì đây là một tiêu
chí để đánh giá sự tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tế cho thấy, trong một xã
hội mà nữ giới được bình đẳng cùng với nam giới tham gia vào mọi hoạt động
của đời sống, cùng thừa hưởng mọi thành quả của sự phát triển thì đó mới là
một xã hội văn minh, hạnh phúc; một xã hội tốt đẹp cho mọi người, mọi gia
đình và cho cả cộng đồng.
Ở nước ta, phụ nữ chiếm một nửa dân số, là một lực lượng quan trọng, là
người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người. Tuy nhiên, phụ nữ cũng là người chịu đựng nhiều nhất những bất công
của xã hội do quan niệm nhìn nhận mang định kiến giới từ thời phong kiến để
lại. Định kiến giới là “nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về


21
đặc điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ” [39].
Dưới thời phong kiến, các công việc xã hội chủ yếu do người nam giới
đảm nhiệm; người phụ nữ chỉ làm những việc nhỏ nhặt, chỉ là người qn
xuyến cơng việc gia đình, bếp núc. Bên cạnh đó, cịn nhiều câu tục ngữ, ca
dao mang nặng sự nhìn nhận phân biệt, coi thường phụ nữ như: “Đàn ông
nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”. Chính điều này đã
làm bản thân họ ln mặc cảm, tự ti; đó cũng là yếu tố cản trở sự tiến bộ của

phụ nữ. Vì vậy, họ là người dễ bị lạc hậu do không được học tập, được tham
gia vào công việc của xã hội; sự lạc hậu của một lực lượng chiếm nửa dân số
sẽ kéo lùi sự phát triển của xã hội.
Do đó, Đảng ta ln coi việc phát huy vai trị, tiềm năng to lớn của phụ
nữ; nâng cao địa vị của phụ nữ; thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là mục tiêu và động lực của cách mạng; thể
hiện tính ưu việt, nhân văn, tiến bộ của chế độ xã hội. Không thể nói một xã
hội tốt đẹp, cơng bằng, dân chủ, văn minh mà trong đó quyền, địa vị của phụ
nữ và bình đẳng giới khơng được thực hiện một cách đầy đủ.
Như vậy, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới nhằm mục đích, xố bỏ
sự phân biệt đối xử, bảo đảm nam, nữ bình đẳng trên mọi lĩnh vực.
Hai là, chủ thể thực hiện pháp luật bình đẳng giới phong phú, đa dạng và
mang tính xã hội sâu sắc.
Chủ thể thực hiện pháp luật bình đẳng giới phong phú và đa dạng, bao
gồm: Cơ quan nhà nước (cơ quan Đảng, cơ quan quản lý nhà nước), tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân dân, gia đình và cơng dân Việt Nam; cơ quan, tổ chức nước
ngồi, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài
cư trú tại Việt Nam cũng là chủ thể thực hiện pháp luật về bình đẳng giới (gọi
chung là cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân). Mỗi chủ thể có trách nhiệm
riêng trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, cụ thể là:
Chủ thể là cơ quan nhà nước: Có trách nhiệm là người thiết lập, tổ chức
thực hiện và bảo hộ các quyền bình đẳng của nam, nữ theo nguyên tắc bình


22
đẳng giới.
Chủ thể là các tổ chức: Có trách nhiệm tham gia xây dựng chính sách,
pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của
pháp luật; bảo đảm bình đẳng giới trong nội bộ tổ chức; tham gia giám sát

việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới; tuyên truyền, vận động hội viên, đồn
viên tổ chức mình thực hiện pháp luật bình đẳng giới.
Trong các tổ chức, Hội LHPN Việt Nam với chức năng tập hợp rộng rãi
các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của hội viên; có vai trị đặc biệt quan trọng trong tham mưu, đề xuất cũng như
tổ chức, vận động, thuyết phục hội viên thực hiện pháp luật về bình đẳng giới,
tham gia phản biện xã hội về bình đẳng giới. Hội LHPN phải là nòng cốt, chủ
động trong việc làm cho tồn xã hội có nhận thức đúng về vị trí, vai trị của
phụ nữ và quyền bình đẳng giới đặc biệt trong thời kỳ CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế hiện nay; trên cơ sở đó, mọi chủ thể thực hiện đúng và đầy đủ
pháp luật về bình đẳng giới.
Chủ thể là mỗi gia đình: có trách nhiệm tích cực trong việc giáo dục,
nâng cao nhận thức và thực hiện pháp luật bình đẳng giới cho các thành viên
của gia đình (ngay trong các mối quan hệ: vợ- chồng, bố, mẹ-các con, ông,
bà- các cháu, anh chị em ruột, họ hàng…)
Chủ thể là cá nhân công dân: Có vai trị quyết định trong việc thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới. Để đạt được bình đẳng giới thực sự, một yếu tố rất
quan trọng là bản thân người phụ nữ phải xoá bỏ tâm lý tự ti, an phận; nỗ lực học
tập, làm việc; tự giác vươn lên, mạnh dạn tham gia các hoạt động của cộng đồng.
Chỉ khi nào người phụ nữ nhận thức đúng đắn và đầy đủ giá trị của mình trong
gia đình và ngồi xã hội thì khi đó, bình đẳng giới mới được bảo đảm triệt để.
Đồng thời, người nam giới phải thay đổi nhận thức coi thường phụ nữ, thói quen
gia trưởng để chia sẻ, giúp đỡ công việc với phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ
được nghỉ ngơi, được học tập, được tham gia các hoạt động xã hội.
Bên cạnh đó, khác với chủ thể thực hiện pháp luật khác (như pháp luật


23
về thuế, pháp luật về phòng chống tham nhũng, pháp luật về dầu khí…), chủ
thể thực hiện pháp luật về bình đẳng giới mang tính xã hội sâu sắc.Đặc điểm

này thể hiện ở chỗ: thành phần chủ thể thực hiện pháp luật bình đẳng giới
rộng rãi hơn; mục đích thực hiện thống nhất và mang tính xã hội (bảo đảm
nam, nữ bình đẳng hướng tới sự tiến bộ, cơng bằng xã hội).
Ba là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới vừa mang tính phổ biến vừa
mang tính đặc thù.
Quyền bình đẳng giới là một bộ phận tất yếu của quyền con người.
Điều này đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập năm1776 của
nước Mỹ: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hố cho
họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Kế thừa chân
lý này, trong Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng thừa nhận
các quyền cơ bản của con người và khẳng định “Đó là những lẽ phải khơng
ai chối cãi được”.
Như vậy, tính phổ biến của việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới thể
hiện ở chỗ: đây là quyền thuộc về tất cả mọi người và được mọi người thụ
hưởng, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tơn giáo, giới tính, địa vị xã hội.
Quyền bình đẳng giới là chân giá trị mà tất cả mọi người phụ nữ được hưởng
dù ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời kỳ nào.
Mặc dù, quyền bình đẳng giới là giá trị có tính phổ biến nhưng việc thực
hiện nó lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội, quan điểm, truyền thống
văn hố của mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Tính đặc thù của việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cịn thể hiện
ở hình thức và phương pháp thực hiện. Pháp luật về bình đẳng giới quy định
các hành vi được làm và khơng được làm, thậm chí có những hành vi bị
“nghiêm cấm” nhằm xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của mỗi cơng dân


24

trên các lĩnh vực, khơng phân biệt giới tính. Để đưa các quy định này vào
cuộc sống, trước hết công tác tuyên truyền, PBGDPL phải đi trước một bước
với các hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với từng đối tượng.
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới địi hỏi phải gắn việc thuyết phục,
vận động (thông qua phương pháp tuyên truyền, PBGDPL nêu trên) với việc
phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị để tổ
chức, triển khai, đưa các quy định của pháp luật bình đẳng giới vào cuộc
sống. Khi cần thiết, các cơ quan quản lý nhà nước phải xử lý hành chính
những hành vi vi phạm, các cơ quan tư pháp phải xử lý những hành vi phạm
tội hình sự về bình đẳng giới đã được pháp luật quy định. Có như vậy mới bảo
vệ được những nguyên tắc, biện pháp được xác lập trong pháp luật về bình
đẳng giới.
Thực tế nhiều năm qua, mặc dù pháp luật về bình đẳng giới của Việt
Nam quy định khá đầy đủ ngun tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không được phân biệt đối xử với phụ nữ; quy định các biện pháp
xử lý các hành vi vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân khơng
phân biệt nam, nữ; đặc biệt Bộ luật Hình sự từ năm 1985 đến nay đều quy
định về Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ và Tội mua bán phụ nữ
phải bị phạt tù từ 3 tháng đến 20 năm nhưng những hành vi xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ, mua bán phụ nữ vẫn không giảm mà ngày
càng có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên gần đây, việc Quốc hội thơng qua
Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật phòng chống mua bán người năm
2010 đã tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ và hiệu quả hơn để xử lý những hành
vi vi phạm, thúc đẩy sự bình đẳng giới thực chất hơn trong gia đình và
ngồi xã hội.
1.2.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Pháp luật bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành nên hệ thống pháp
luật, vì vậy nó cũng mang những điểm chung nhất của hệ thống pháp luật. Từ



25
đó, trên thực tế, việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cũng được tiến
hành thơng qua 4 hình thức thực hiện pháp luật nói chung là: tuân thủ pháp
luật bình đẳng giới; thi hành pháp luật bình đẳng giới; sử dụng pháp luật bình
đẳng giới và áp dụng pháp luật bình đẳng giới.
1.2.3.1. Tuân thủ pháp luật bình đẳng giới
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
Tuân thủ pháp luật bình đẳng giới là một hình thức thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới, trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân kiềm chế, khơng
thực hiện những hành vi mà pháp luật bình đẳng giới ngăn cấm. Như vậy,
dưới góc độ pháp lý thì tuân thủ pháp luật bình đẳng giới là hành vi hợp pháp,
có lợi cho xã hội, cho nhà nước, cho cơng dân.
Điều 10- Luật Bình đẳng giới quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao
gồm: Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới; phân biệt đối xử về giới dưới
mọi hình thức; bạo lực trên cơ sở giới; các hành vi khác bị nghiêm cấm theo
quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Điều 40, 41- Luật Bình đẳng giới cụ
thể hố các hành vi bị nghiêm cấm trong các lĩnh vực: chính trị; kinh tế; lao
động; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn hố, thơng tin, thể
dục, thể thao; y tế và gia đình. Cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực chính trị:
- Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu HĐND, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp vì định kiến;
- Khơng thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị
quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chun mơn vì định kiên giới;
- Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các
hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ



×