Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở thành phố nam định, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.46 KB, 97 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề có tính phổ biến khắp nơi trên thế giới, nó
xâm hại tới thể chất, tinh thần, đối với các nạn nhân, gia đình và cộng đồng,
gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. Bạo lực gia
đình đang có quy mơ của một đại dịch và là một trở ngại lớn đối với sự bình
đẳng, là sự vi phạm thơ bạo các quyền con người.
Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo
lực gia đình tại Việt Nam đã được thể chế hóa thành luật, được đặt dưới sự
kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở Việt Nam,
vấn đề phịng chống bạo lực gia đình được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Điều này được thể hiện trong các chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước như: Luật Hơn nhân gia đình, Bộ Luật Hình sự, Luật Bình đẳng
giới, Luật Phịng chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều cố gắng trong việc phịng chống bạo lực gia đình để các quy định pháp
luật về phịng, chống bạo lực gia đình được thực thi trong đời sống xã hội
nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo lực gia
đình vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu
quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân
phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm
pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình cịn làm xói mịn đạo đức, mất tính
dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu
cho thấy nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi
cịn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây tan
vỡ, suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngồi hậu quả về xã hội,
đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia
đình cịn gây ra những hậu quả về kinh tế- xã hội.



2
Điều này địi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và cơ quan
thực thi, bảo vệ pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế
và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho phụ nữ, trẻ nhỏ
giúp họ thốt khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với
các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ra sự ổn định và phát
triển cho xã hội.
Thành phố Nam Định nằm ở phía Bắc của tỉnh Nam Định, thuộc trung
tâm khu vực phía Nam Đồng bằng Sơng Hồng. Thành phố Nam Định có tiềm
năng phát triển đa dạng, là trung tâm kinh tế-chính trị-văn hóa của tỉnh, có vị trí
quan trọng và thuận lợi của vùng tam giác kinh tế. Đây là nơi tiếp giáp với nhiều
đầu mối giao thông trong và ngồi tỉnh, cách thủ đơ Hà Nội 50km về phía Tây
Bắc, cách cảng Hải Phịng 80km về phía Đơng Bắc và được bao quanh một số
tỉnh khác như Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình. Thành phố nằm trong vùng ảnh
hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm các tỉnh phía bắc gồm Hà Nội, Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phịng và Quảng Ninh. Thành phố Nam
Định có diện tích 46,4km2, dân số 247.064 người (theo số liệu điều tra dân số
năm 2012), thành phố hiện tại có 20 phường và 5 xã ngoại thành. Là một thành
phố nhỏ nhưng Nam Định vốn có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và hiếu
học. Sau giải phóng, Nam Định được biết đến là thành phố lớn thứ ba của miền
Bắc sau Hà Nội, Hải Phịng; là cái nơi của ngành công nghiệp dệt may Việt nam.
Ngày nay cùng với cả nước đi lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thành phố Nam Định cũng đang từng bước chuyển mình khởi sắc trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đảng
bộ và nhân dân thành phố còn phải đối mặt với khơng ít khó khăn thử thách nhất
là trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường. Đó là sự chậm chạp trong
phát triển kinh tế, nạn thất nghiệp nghiệp ngày càng nhiều dẫn đến tình hình vi
phạm pháp luật gia tăng gây mất an ninh chính trị trật tự an tồn xã hội ảnh
hưởng đến cuộc sống yên bình của người dân.



3
Với những đặc điểm địa lý, dân số và sự đa dạng về văn hóa, việc quản
lý và điều hành đời sống xã hội thành phố Nam Định trên cơ sở luật pháp là
điều hết sức cần thiết. Ý thức chấp hành pháp luật của cộng đồng dân cư sẽ
đóng góp vào sự phát triển tồn diện của thành phố. Những hành vi vi phạm
pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình nói
riêng là những trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
một địa phương giàu văn hiến như thành phố Nam Định. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ vi phạm pháp
luật về bạo lực gia đình trong đời sống xã hội là một việc làm cần thiết. Đề tài
“Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Định” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, phịng chống bạo lực gia đình khơng cịn là vấn đề mới và
được quy định cụ thể ở Hiến pháp và pháp luật. Điều 20 Hiến pháp1992 quy
định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khỏe danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phậm danh dự nhân phẩm.” Điều 107, Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000 quy định: "Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau" gần đây, Luật Bình đẳng giới và Luật
Phịng, chống bạo lực gia đình đã ban hành. Trên thực tế, đã có nhiều cơng
trình khoa học nghiên cứu về bạo lực gia đình, pháp luật phịng, chống bạo
lực gia đình.
Các cơng trình nghiên cứu về bạo lực gia đình trên nhiều khía cạnh
khác nhau, có thể chia ra thành các nhóm cơ bản sau đây:
* Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện
pháp luật về PC BLGĐ:



4
- Ban Dân vận Trung ương (2006), Những điều cần biết về cơng ước
CEDAW: Bình đẳng giới và chống bạo lực gia đình.
- Bùi Văn Thịnh, Cần có biện pháp hữu hiệu để phịng, chống bạo lực
gia đình, Tạp chí Kiểm sát, số 07/2009.
- Nguyễn Cảnh Quý (2010), Pháp luật bảo vệ phụ nữ, trẻ em nhằm
phòng, chống bạo lực gia đình, Viện Nhà nước pháp luật, số 06(206), 2010.
- Nguyễn Thị Kim Phụng (2009), Tổng quan về bạo lực và pháp luật
PCBLGĐ đối với phụ nữ và trẻ em, Tạp chí Luật học, số 02/2009.
- Lê Lan Chi (2011) Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành
chính các hành vi BLGĐ ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 01/2001.
- Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ (2009) Tìm hiểu và thực hiện
Luật phịng chống bạo lực gia đình, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2009.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến bạo lực gia đình:
- TS. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh (1999), "Bạo lực
trên cơ sở giới".
- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2001), "Bạo lực gia đình đối với phụ
nữ ở Việt Nam".
- Viện Nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), "Phịng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng, vấn đề và giải pháp".
Các cơng trình nêu trên đã đi vào nghiên cứu về bạo lực gia đình
trên các bình diện khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống
về vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình ở nước ta đến nay
vẫn cịn rất ít. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phịng, chống
bạo lực gia đình diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy
hiểm ngày càng cao, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Do vậy địi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, một



5
bộ máy và con người cùng với những giải pháp cụ thể, hiệu quả là vấn đề
cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phịng, chống bạo lực gia đình hiện nay.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phòng chống
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phịng, chống bạo lực gia đình ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về và chỉ ra được các
đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phịng, chống
bạo lực gia đình ở thành phố Nam Định,tỉnh Nam Định. Trên cơ sở phân tích
và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật
trong phòng, chống bạo lực gia đình để có bức tranh về thực trạng vi phạm
pháp luật một cách cơ bản nhất trong phịng, chống bạo lực gia đình. Từ đó
phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của vi phạm pháp luật
phịng, chống bạo lực gia đình.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để góp phần
hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình trong xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là vi phạm pháp luật phòng,
chống BLGĐ trên cơ sở lý luận về Nhà nước- pháp luật và hệ thống pháp luật
thực định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu


6
Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phịng, chống
bạo lực gia đình trên địa bàn thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng và Nhà nước, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng,
lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp và điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Xây dựng hệ thống lý luận về vi phạm pháp luật phịng, chống BLGĐ
- Hệ thống hố, phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ
- Đề xuất những giải pháp nhằm đấu tranh, hạn chế, tiến tới đẩy lùi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở thành phố
Nam Định hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về
vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình và góp thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
PHỊNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VI PHẠM PHÁP LUẬT PHỊNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH

1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
* Khái niệm vi phạm pháp luật
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta hiện nay, pháp luật với vai trò và giá trị xã hội của mình đã phát huy
hiệu quả trong công tác điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phịng... đặc biệt là
trong việc bảo đảm và phát huy quyền con người, quyền cơng dân. Ngồi mục
đích cơ bản là điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội đảm bảo trật tự xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cơng dân, pháp luật cịn nhằm duy
trì và bảo vệ những giá trị đạo đức xã hội, truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, gia đình Việt Nam, con người Việt Nam.
Trong đời sống xã hội, hành vi nào của con người được pháp luật quy
định và điều chỉnh thì được xem là hành vi pháp luật. Do vậy hành vi pháp
luật luôn gắn liền với các quy định của pháp luật. Chủ thể của hành vi pháp
luật phải là người có năng lực chủ thể tức là phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi. Điều này có nghĩa là chủ thể đó phải có khả năng nhận thức
và kiểm sốt được hành động của bản thân. Khả năng này do pháp luật quy
định phụ thuộc vào độ tuổi và năng lực lý trí của chủ thể.
Để pháp luật được tơn trọng và thực hiện nghiêm minh, cơng tác đấu
tranh phịng và chống vi phạm pháp luật dặc biệt đối với tội phạm là rất quan
trọng. Để đẩy lùi được các hành vi vi phạm pháp luật trước hết chúng ta phải
nhận diện được bản chất, đặc điểm dặc trưng của chúng rồi tìm cách loại bỏ



8
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh ra chúng. Do vậy nghiên cứu vấn đề vi
phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc đề ra các giải pháp hữu hiệu để
đấu tranh, phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội. Vi phạm pháp luật
là căn cứ duy nhất làm phát sinh trách nhiệm pháp lý.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về vi phạm
pháp luật: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do người có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, bởi lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm hại tới các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ.
* Khái niệm gia đình
Đã có nhiều học giả cho rằng "gia đình” là một trong những khái niệm
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên cho đến nay đã tồn tại rất
nhiều khái niệm khác nhau về gia đình song có một điểm chung nhất là các khái
niệm này đều xác định gia đình dựa trên các tiêu chí: Đó là một nhóm người hay
nói cách khác là một tập hợp người (có ít nhất từ hai người trở lên) có quan hệ
với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng; các thành viên
trong gia đình có đặc trưng giới tính trong quan hệ hơn nhân, họ cùng chung
sống và cùng có ngân sách chung. Trong các mối quan hệ này hôn nhân và huyết
thống được coi là quan hệ cơ bản đặc trưng nhất để nhận diện một gia đình.
Luật Hơn nhân gia đình Việt Nam 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010) đã
xác định tại điều 8: "Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các
nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này” [24].
Như vậy ta có thể hiểu gia đình là sự chung sống giữa các cá nhân
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm lý, tình dục và các nhu cầu sinh hoạt cá
nhân khác.
* Khái niệm bạo lực
Trước hết ta cần hiểu bạo lực là một hiện tượng xã hội. Theo Đại từ
điển Tiếng việt năm 2000 đã định nghĩa: "Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp,



9
chống lại lực lượng đối lập hay lật đổ chính quyền” [21]. Từ điển Tiếng việt
2003 lại cho rằng: "Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp hoặc lật đổ” [36].
Như vậy bạo lực là hành vi của con người, nó tồn tại cùng với lịch sử
phát triển của nhân loại. Thực tế cho thấy vì rất nhiều lý do khác nhau mà các
chủ thể có thể dùng bạo lực để giải quyết một bất hòa trong quan hệ xã hội
nhằm dành lấy quyền lợi cho mình. Chính vì lẽ đó mà trong xã hội tồn tại
nhiều hình thức bạo lực. Trong một số trường hợp nhất định, bạo lực có thể có
vai trị tích cực trong xã hội .Tuy nhiên nó cũng có thể trở thành tiêu cực nếu
nó làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội khi được sử dụng sai mục đích
đặc biệt trong những trường hợp cấm sử dụng bạo lực. Có thể thấy trong xã
hội hiện đại hành vi bạo lực phần lớn là hành vi tiêu cực do đó nó phải được
lên án, ngăn chặn và đẩy lùi bởi bạo lực chính là một phương thức hành xử
tiêu cực trong các mối quan hệ xã hội đặc biệt là trong quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình. Bạo lực gia đình là hành vi lệch chuẩn xã hội, là một
trong những yếu tố làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển lành mạnh của gia
đình và xã hội. Do vậy bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật được
quy định và điều chỉnh bởi pháp luật phòng chống bạo lực gia đình.
* Khái niệm Bạo lực gia đình
Với mỗi chúng ta, gia đình được coi là tổ ấm là nơi có những người gần
gũi và thương yêu nhất ln quan tâm, chăm sóc và chở che cho mỗi con
người. Hơn nữa gia đình cịn được ví như là cái nôi, tế bào của xã hội. Bác Hồ
đã từng dạy:"Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình" [ 18].
Tuy nhiên hiện nay khơng chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới bạo lực gia
đình đang trở thành vấn nạn có chiều hướng gia tăng và gây ra những hậu quả
nghiêm trọng cho con người, gia đình và xã hội. Nó phá vỡ hạnh phúc và đe
dọa tính bền vững, ổn định của gia đình, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các
thành viên trong gia đình; đặc biệt nó chính là ngun nhân sâu xa đẩy trẻ em



10
vào môi trường xung đột, thiếu hạnh phúc đồng thời bạo lực gia đình cũng
ảnh hưởng đến sự an tồn lành mạnh của cộng đồng và trật tự xã hội.
Bạo lực gia đình hay cịn gọi là bạo hành gia đình. Việc nhận thức rõ và
thống nhất về khái niệm bạo lực gia đình sẽ là điều kiện để hiểu rõ bản chất
của bạo lực để từ đó có những giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình
ra khỏi đời sống gia đình và xã hội. Ngày nay bạo lực gia đình đang được sự
quan tâm của nhiều quốc gia, tổ chức và các chuyên gia nghiên cứu.
Theo luật mẫu về BLGĐ của Uỷ ban nhân quyền của LHQ ngày 02/
02/ 1996: BLGĐ là tất cả các hành vi lạm dụng thể chất, tinh thần, tình dục
dựa trên cơ sở giới đối với một thành viên, một người phụ nữ trong gia đình
từ hành vi đánh đập giản đơn đến gây thương tích nặng, bắt cóc, đe dọa, dọa
dẫm, cưỡng bức, quấy rối, lăng nhục bằng lời nói, dùng vũ lực để vào nhà trái
pháp luật, phóng hỏa, hủy hoại tài sản, bạo lực tình dục, hiếp dâm trong hôn
nhân, bạo lực liên quan đến thách cưới hoặc của hồi môn, cắt bộ phận sinh
dục nữ, bạo lực liên quan đến bóc lột mại dâm, bạo lực đối với người giúp
việc trong gia đình [34].
Như vậy BLGĐ là hành vi tấn công của một người đối với người khác
có quan hệ tình cảm với họ bằng cách dùng vũ lực để kiểm sốt người khác.
Người có hành vi bạo lực thường kiểm sốt cả về tài chính và các quan hệ xã
hội của người là đối tượng của hành vi bạo lực.
Trước những hệ quả nghiêm trọng do BLGĐ gây ra, có thể thấy BLGĐ
đã và đang trở thành một vấn đề xã hội nhức nhối cần được quan tâm giải
quyết. Do đó việc đấu tranh phịng chống BLGĐ là vấn đề có tính chất chiến
lược, là mục tiêu quan trọng được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan
tâm. Điều đó được khẳng định trong các văn kiện của Đảng và ngày càng
hoàn thiện hơn qua các kỳ đại hội.
Ngoài ra, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về PC BLGĐ còn được

thể hiện trong các văn bản khác như Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/2/2005 của


11
Ban bí thư TW Đảng về "xây dựng gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa”; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của bộ Chính trị "Về cơng
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, pháp luật Việt Nam ngày càng
hoàn thiện các quy định về quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cơng dân chống lại mọi hành vi bạo lực trong đó có
BLGĐ. Điều này được ghi nhận trong các bản hiến pháp: Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa trong
các văn bản luật như Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục Trẻ em năm 2004, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật Bình
đẳng giới năm 2006 và đặc biệt Luật Phịng chống Bạo lực gia đình được
Quốc hội thơng qua ngày 21/11/2007 có hiệu lực từ ngày 01/7/2008.
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) khẳng định tại điều 20,
điều 26 như sau:
Điều 20 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự nhân phẩm”.
Điều 26 quy định: “Cơng dân nam nữ có quyền bình đẳng mọi mặt.
Nhà nước có chính sách đảm bảo cơ hội, quyền bình đẳng giới” [22].
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại chương
XII đã quy định về: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người. Chương này có nhiều điều khoản liên quan đến bạo lực về
thể chất và tinh thần. Hình thức cao nhất của bạo lực thể chất là tội giết người
(có 8 điều nói đến tội này: Từ điều 93 đến điều 100). Bộ luật Hình sự cũng
quy định hình phạt đối với hành vi bạo lực tình dục từ điều 111 đến điều 116.

Đặc biệt đối với vấn đề bạo lực gia đình, tại điều 151 bộ luật Hình sự quy
định: Người nào có hành vi ngược đãi, hành hạ ơng bà cha mẹ, vợ chồng, con,


12
cháu… gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính thì
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng
đến 3 năm [23].
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có rất nhiều quy định về mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình, nghiêm cấm các hành vi liên quan đến
bạo lực gia đình. Điểm 3 khoản 2 điều 4 luật Hôn nhân và Gia đình quy định:
Cấm ngược đãi, hành hạ ơng, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em
và các thành viên khác trong gia đình. Khoản 1 điều 2 quy định: Hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Điều 19 quy định:
“Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình”. Điều 21: “Vợ, chồng tơn trọng và giữ gìn danh dự, nhân
phẩm uy tín cho nhau. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau”. Điều 35 cũng quy định:
“Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ” [24].
Đặc biệt, ngày 21/11/2007 Quốc hội đã thơng qua Luật phịng chống
bạo lực gia đình có hiệu lực từ ngày 01/7/2008. Quy định về phịng ngừa bạo
lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, trách nhiệm của cá
nhân, của gia đình, cơ quan, tổ chức trong phịng chống bạo lực gia đình và
xử lý vi phạm pháp luật về phịng chống bạo lực gia đình. Mặc dù BLGĐ là
vấn đề nhạy cảm và khó nhận diện nhưng cần phải hiểu về hành vi bạo lực để
từ đó có biện pháp phịng chống hiệu quả.
Theo khoản 2 điều 1 Luật phịng chống BLGĐ thì: “BLGĐ là hành vi
cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.” Như vậy có
thể thấy BLGĐ là những hành vi bạo lực xảy ra trong phạm vi gia đình. Đó là

sự xúc phạm và ngược đãi về thân thể hay tinh thần, tình cảm hay tình dục
giữa các thành viên trong gia đình.
Ở góc độ khái qt, chúng ta có thể nhận biết bạo lực gia đình thường
được thể hiện dưới các hình thức chính như sau:


13
Bạo lực thân thể: Là những hành vi bạo lực mà người gây ra bạo lực
thường sử dụng sức mạnh cơ bắp (tay, chân) hoặc công cụ gây nên sự đau đớn
về thân thể cho nạn nhân. Những hình thức phổ biến của bạo lực thể chất
thường thấy là: đánh, đạp, tát, đấm, đá. Hành vi bạo lực này thường để lại trên
thân thể nạn nhân những dấu vết thương tích cụ thể dễ nhận thấy. Bên cạnh đó
bạo lực thân thể còn bao gồm cả những hành vi ngăn cấm hoặc hạn chế những
nhu cầu thiết yếu (ăn, uống, ngủ...) của nạn nhân.
Bạo lực tình dục: Thể hiện ở việc cưỡng hiếp hay ép buộc nạn nhân
làm tình hay xem phim, ảnh khiêu dâm dù họ không muốn, không có nhu cầu,
hoặc khi đang bị đau ốm, thậm chí một số phụ nữ cịn bị ép quan hệ tình dục
sau khi đã bị đánh đập, cố tình gây đau đớn hoặc tổn hại cho họ trong qúa
trình quan hệ sinh lý mà nạn nhân khơng có quyền từ chối.
Bạo lực về tâm lý: Thể hiện ở việc bắt nạn nhân sống trong bầu khơng
khí sợ hãi, khủng bố nạn nhân đến hoảng loạn tâm thần, nhục mạ nạn nhân
trước người thân hoặc công chúng ... điều này đôi khi làm cho người bị bạo
lực ngộ nhận về bản thân họ. Hoặc nạn nhân bị gây ức chế tâm lý bằng việc bị
cắt đứt mối quan hệ của nạn nhân và mối quan hệ của nạn nhân với người
thân trong gia đình, bạn bè; cơ lập nạn nhân bằng cách nhốt trong nhà, cắt
điện thoại, không cho đi đâu hay không cho giao tiếp với bất cứ ai...
Bạo lực về kinh tế: Thể hiện ở việc bao vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc,
bắt nạn nhân phụ thuộc về tiền bạc, không cho giữ tiền và đi làm, bắt phải hỏi
xin tiền và chứng minh mọi mua sắm, chi tiêu dù lớn hay nhỏ...
Cách phân chia các hình thức bạo lực như trên chỉ nhằm mục đích phân

loại trên các cơ sở cịn trên thực tế, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi các
kiểu bạo lực như vậy. Các hành vi bạo lực gia đình thường có sự kết hợp của
nhiều hành vi bạo lực. Có những hành động bạo lực thuộc về một loại hình
bạo lực, nhưng cũng có hành động bạo lực thường kết hợp từ hai hay nhiều
hình thức bạo lực. Thực tế các trường hợp bạo lực trong xã hội cho chúng ta


14
thấy hành động đánh đập (bạo lực thể chất) thường đi kèm với hành động
chửi mắng, nhiếc móc, nhục mạ (bạo lực tinh thần) hoặc trường hợp bạo lực
tình dục thường kết hợp cả hai hình thức bạo lực thể chất (dùng vũ lực cưỡng
bức - trường hợp cưỡng dâm, hiếp dâm) và bạo lực tinh thần, tình cảm (làm
nạn nhân xấu hổ, nhục nhã, đau khổ). Các hành vi bạo lực gia đình ln tạo ra
bầu khơng khí ảm đạm, buồn đau trong gia đình, làm mất điều kiện phát triển
tốt của trẻ em trong gia đình.
* Khái niệm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình
Phịng, chống bạo lực gia đình là một cơng việc khó khăn và lâu dài.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình việc
phịng, chống bạo lực gia đình cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Phịng, chống bạo lực gia đình đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật
của nước ta như: Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013), Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010), Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ
luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự
2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi…
Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định về phịng, chống
bạo lực gia đình. Để cơng tác phịng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả hơn
nữa, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội khoá XII của nước Cộng hồ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã thơng qua Luật Phịng, chống bạo lực gia đình.
Gần đây nhất Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực anh ninh trật tự, an tồn xã hội; phịng
chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa cháy; phịng chống bạo lực gia đình
cũng đã được ban hành.
Luật phịng, chống bạo lực gia đình ra đời là một bước tiến tích cực, có
ý nghĩa rất lớn để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phịng,
chống bạo lực gia đình, bảo vệ quyền con người, tiếp tục sự nghiệp giải


15
phóng con người, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật phịng, chống bạo
lực gia đình như sau: Pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình là hệ thống
các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội về phịng, chống bạo lực gia đình và các lĩnh vực
khác có liên quan.
* Khái niệm vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình.
Trước tình trạng nạn bạo hành đang tấn công ồ ạt vào mỗi quốc gia,
mỗi địa phương và từng gia đình thì nhiều người cịn mơ hồ về khái niệm
"bạo hành gia đình", vì thế khơng nhận thức được hành vi bạo hành gia đình
là hành vi vi phạm pháp luật. Nhiều người đã cho rằng, trong gia đình, mâu
thuẫn giữa vợ và chồng là chuyện bình thường khơng thể tránh khỏi trong
cuộc sống và đó là chuyện riêng của mỗi gia đình. Vì vậy, chồng có đánh vợ
cũng là chuyện bình thường nhất là khi người vợ thấy mình có lỗi. Thậm chí,
nhiều người phụ nữ bị đánh đập thường xuyên nhưng vẫn không nghĩ rằng
mình đã bị xâm hại đến quyền con người và mình là đối tượng được pháp luật
bảo vệ. Vì thế họ vẫn cắn răng chịu đựng rồi dần dần thành quen. Hơn nữa, do
ảnh hưởng trong một thời gian dài tư tưởng "trọng nam khinh nữ" nên trong
xã hội nhiều ông chồng ngang nhiên đánh vợ, coi vợ như vật sở hữu của
mình, cho vợ làm gì thì vợ mới được làm và họ coi đó là việc hiển nhiên, là

quyền "được dạy vợ" của mình. Những hành động dạy vợ có thể để lại những
thương tích trên cơ thể, có những hành động khơng để lại những vết thương
trên cơ thể nhưng lại làm cho người phụ nữ tê liệt về tinh thần, bị trầm cảm
kéo dài, tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần và thể xác.
Cho đến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp luật điều
chỉnh về bạo lực gia đình. Lần đầu tiên, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình
được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Tuy


16
nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình vẫn
khơng giảm bởi vì người trong cuộc cam chịu và không nhận thức được thế
nào là hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình hoặc có ý thức
coi thường pháp luật. Người ngồi cuộc thì làm ngơ vì cho rằng mâu thuẫn
cha con, vợ chồng là chuyện riêng của mỗi gia đình phải tự giải quyết. Chính
vì vậy, chỉ khi nào các vụ việc xảy ra quá nghiêm trọng như gây thương tích
nặng hay chết người lúc đó các cơ quan có thẩm quyền mới phát hiện ra và có
các biện pháp can thiệp cần thiết.
Phịng, chống bạo lực gia đình đã được Luật hố. Vì vậy, bạo lực gia
đình là vi phạm pháp luật xâm hại đến các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Từ những phân tích trên, vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia
đình được hiểu là những hành vi trái pháp luật phịng, chống bạo lực gia
đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình.
1.1.2. Đặc điểm vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình
Từ sự phân tích trên có thể rút ra được các đặc điểm (dấu hiệu) về vi
phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình như sau:
Thứ nhất, vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình là hành vi

xác định của con người.
Cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác, vi phạm pháp luật
phịng, chống bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cụ thể của con người.
Suy nghĩ của con người dù xấu đến mức độ nào đi chăng nữa nhưng khơng
biểu hiện ra bên ngồi bằng hành vi cụ thể thì khơng thể coi là vi phạm pháp
luật phịng chống bạo lực gia đình. Pháp luật điều chỉnh các chủ thể trong xã
hội thông qua hành vi của các chủ thể đó được thể hiện ra bên ngồi. Thơng


17
qua hành vi cụ thể của chủ thể mới có thể quy kết chủ thể đó đúng pháp luật
hay vi phạm pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia
đình phải được thể hiện, tồn tại dưới hình thức là hành động, như hành vi
đánh đập, hành hạ vợ (chồng) của mình hoặc khơng hành động; bỏ mặc, thờ
ơ, khơng nói chuyện, khơng về nhà làm cho người vợ (chồng) bị tổn thương
tinh thần. Hành vi vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình cịn có
thể là hành động bao che, dung túng, xử lý không đúng hoặc không xử lý
hành vi bạo lực của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc phát
hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình.
Điều này có nghĩa vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình ln ln
là hành vi xác định, nó được thực hiện bởi hai loại chủ thể là người trực tiếp
thực hiện hành vi bạo lực và cá nhân tổ chức có thẩm quyền giải quyết trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Như vậy vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình phải thể hiện
ra bên ngồi bằng hành vi bởi pháp luật phịng chống bạo lực gia đình không
điều chỉnh suy nghĩ của con người.
Thứ hai, vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình là hành vi trái
pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình.
Trái pháp luật là dấu hiệu cơ bản và quan trọng để xác định vi phạm
pháp luật. Một hành vi vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật. Vi

phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình phải là hành vi trái với các quy
định trong luật phòng chống bạo lực gia đình hoặc các văn bản quy phạm
pháp luật khác điều chỉnh các mối quan hệ thuộc lĩnh vực phịng chống bạo
lực gia đình như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự
2003, Bộ luật Dân sự 2005.. Trái pháp luật phòng chống bạo lực gia đình là
cơ sở pháp lý để xác định vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình và
xác định trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm đó.


18
Hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được thể hiện
dưới một trong các hình thức như chủ thể thực hiện hành vi cấm, ví dụ như tại
khoản 2, điều 8 luật phòng chống bạo lực gia đình cấm hành vi cưỡng ép quan
hệ tình dục giữa vợ với chồng hoặc hành vi thực hiện không đúng, không đầy
đủ theo quy định, không thực hiện những hành vi cụ thể theo yêu cầu của luật
phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan điều chỉnh lĩnh vực bạo lực gia đình. Hành vi trái pháp luật cũng có thể
là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chức năng thẩm quyền
của cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền quản lý trong lĩnh vực phòng
chống bạo lực gia đình đã được pháp luật quy định.
Như vậy chỉ những hành vi trái pháp luật phòng chống bạo lực gia đình
hoặc các hành vi trái với các quy định trong hệ phống pháp luật phịng chống
bạo lực gia đình mới là vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây
là điểm khác biệt giữa vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình với vi
phạm pháp luật khác.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành
vi chứa đựng lỗi của chủ thể thực hiện hành vi.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành vi có lỗi.
Đây là dấu hiệu quan trọng không thể thiếu ở bất kỳ vi phạm pháp luật nào.
Lỗi là sự phản ánh nhận thức chủ quan của chủ thể đối với hành vi trái pháp

luật mà chủ thể đã thực hiện hay nói cách khác lỗi là trạng thái tâm lý của một
chủ thể đối với hành vi trái pháp luật do chủ thể đó gây ra và đối với hậu quả
của hành vi đó. Một chủ thể được xác định là có lỗi nếu tại thời điểm thực
hiện hành vi trái pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình họ được xác định là
người có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển (làm chủ) được hành vi
của mình, nghĩa là họ hồn tồn có khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của
mình phù hợp với yêu cầu của pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình nhưng
họ lại lựa chọn cách xử sự ngược lại với yêu cầu địi hỏi đó. Ví dụ giữa vợ với


19
chồng, người chồng (vợ) hồn tồn có đủ điều kiện nhận thức hành vi đánh
đập vợ (chồng) là hành vi mà pháp luật cấm và bản thân họ có thể lựa chọn
hành vi xử xự khác phù hợp là không đánh đập vợ (chồng) nhưng họ lại lựa
chọn hành vi đánh đập vợ (chồng) của mình. Do vậy họ hồn tồn có lỗi đối
với hành vi đó.
Chủ thể vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình ln mang lỗi
cố ý. Đây là điểm khác biệt với những vi phạm pháp luật khác.
Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phịng, chống bạo lực
gia đình phải là người có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Năng lực trách nhiệm được hiểu là khả năng của chủ thể có thể tự mình
gánh chịu những hậu quả pháp lý từ phía nhà nước khi họ thực hiện hành vi
trái pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình. Một người được xác định có
năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ là người có khă năng nhận thức, khả
năng điều khiển được hành vi của mình. Hay nói cách khác chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải đạt đủ độ tuổi
nhất định, không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi.
Trong thực tế có nhiều trường hợp do say rượu hoặc say do dùng các
chất kích thích khác mà người chồng (vợ) có hành vi đánh đập, hành hạ vợ

(chồng) của mình, mặc dù tại thời điểm thực hiện hành vi chủ thể khơng có
khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng vẫn bị coi là vi phạm
pháp luật và vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với những hậu quả do
hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Chủ thể thực hiện hành vi vẫn có lỗi vì
họ đã tự đặt mình vào tình trạng say đó.
Trong mỗi trường hợp vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình
khác nhau thì chủ thể vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình là
khác nhau: có những chủ thể thực hiện hành vi bạo lực phải là những người


20
trong gia đình như hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục giữa vợ với chồng
nhưng cũng có trường hợp chủ thể là người có nhiệm vụ, quyền hạn như:
người có thẩm quyền khơng xử lý người có hành vi bạo lực. Tùy theo tính
chất, hành vi vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình mà chủ thể vi
phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý khác nhau từ phía nhà nước. Họ có nguy cơ bị nhà nước áp dụng các
biện pháp chế tài khác nhau được quy định trong hệ thống pháp luật phịng
chống bạo lực gia đình.
Từ những phân tích trên ta thấy, khi xem xét vi phạm pháp luật phịng,
chống bạo lực gia đình phải căn cứ vào bốn dấu hiệu kể trên. Các dấu hiệu
trên là tiêu chí để phân biệt giữa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phịng
chống bạo lực gia đình với các loại vi phạm pháp trong các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VI PHẠM PHÁP LUẬT PHỊNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Cấu thành vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình là tổng thể
những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho một loại vi phạm pháp luật
được quy định cụ thể trong luật phịng, chống bạo lực gia đình. Cấu thành vi

phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình là cơ sở pháp lý để áp dụng
trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực
gia đình. Vi pham pháp luật được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
1.2.1. Chủ thể vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình
Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lý nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu
trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó. Ở
mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng và chung sẽ được xem
xét tỉ mỉ ở các ngành khoa học pháp lý cụ thể.


21
Chủ thể của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được xác
định gồm hai loại:
Loại chủ thể thứ nhất được coi là chủ thể phổ biến và chủ yếu đó là cá
nhân. Chủ thể này có những đặc thù nhất định. Thứ nhất trong mối quan hệ
với nạn nhân, chủ thể thực hiện hành vi bạo lực và nạn nhân là người trong
cùng một gia đình có sự liên hệ mật thiết thông qua mối quan hệ huyết thống,
hôn nhân hoặc nuôi dưỡng. Đây là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi bạo lực
đối với nạn nhân và nạn nhân thường là người có sự lệ thuộc vào chủ thể. Tuy
nhiên không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi bạo lực đều trở thành chủ thể
của vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình bởi chủ thể của vi phạm
pháp luật phải thỏa mãn được hai điều kiện là độ tuổi và khả năng nhận thức.
Độ tuổi của chủ thể được xác định tùy theo tính chất, mức độ gây thiệt hại của
hành vi và hình thức trách nhiệm pháp lý do vậy độ tuổi có thể từ đủ 14 tuổi
trở lên. Về khả năng nhận thức chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình
phải là người khơng mắc bệnh tâm thần hoặc các chứng bệnh khác làm mất
khả năng năng nhận thức.
Loại chủ thể thứ hai là cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm, thẩm

quyền trong việc xử lý, giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình. Đây là những chủ thể được nhà nước trao quyền
nhưng đã không thực hiện đúng chức năng thẩm quyền của mình để hành vi
bạo lực gia đình nảy sinh, gây hậu quả xấu cho con người, gia đình và xã hội.
1.2.2. Khách thể vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội
khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau. Do vậy tính chất và
tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy
hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật phòng chống


22
bạo lực gia đình trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm
phạm đồng thời chà đạp lên những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, gây
mất an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội. Chính vì vậy khách thể của
vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình chính là những quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản cũng như sự ổn định của trật tự xã hội được Nhà nước
và pháp luật xác lập và bảo vệ.
1.2.3. Mặt chủ quan vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình
được hiểu là tồn bộ những biểu hiện, diễn biến tâm lý bên trong của chủ thể
vi phạm. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình
bao gồm những yếu tố sau:
* Lỗi của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phịng chống bạo
lực gia đình. Lỗi là trạng thái tâm lý, thái độ chủ quan của chủ thể đối với
hành vi vi phạm của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi của

chủ thể vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ln là lỗi cố ý. Lỗi
cố ý có hai hình thức: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia
đình nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ
xã hội dược pháp luật phòng chống bạo lực gia đình bảo vệ, thấy trước hậu
quả do hành vi của mình gây ra cho nạn nhân, cho xã hội và mong muốn hậu
quả xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia
đình nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ
xã hội được pháp luật phòng chống bạo lực gia đình bảo vệ, thấy trước hậu


23
quả do hành vi của mình gây ra cho nạn nhân, cho xã hội không mong muốn
hậu quả xẩy ra nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
* Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình. Thơng
thường khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chủ thể thường được thúc đẩy
bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn.
* Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả mà chủ
thể vi phạm đạt được trong thực tế cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi
phạm momg muốn đạt được. Trong mặt chủ quan của cấu thành vi phạm pháp
luật phòng chống bạo lực gia đình lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, xác định
đúng lỗi sẽ giúp xác định chính xác động cơ, mục đích và tính chất nghiêm
trọng của hành vi vi phạm.
1.2.4. Mặt khách quan vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình

Mặt khách quan của vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình là
tồn bộ những biểu hiện, diễn biến, tình huống diễn ra bên ngồi của vi phạm
pháp luật phịng, chống bạo lực gia đình. Nó bao gồm những yếu tố sau:
* Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ một vi phạm pháp luật phòng chống
bạo lực gia đình nào cũng được cấu thành bởi hành vi trái pháp luật phịng
chống bạo lực gia đình, nghĩa là nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái
pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức cụ thể nào đó
thì khơng có vi phạm pháp luật xảy ra.
Hành vi vi phạm pháp luật phịng chống bạo lực gia đình gồm hai loại:


24
Loại thứ nhất, hành vi bạo lực gia đình. Hành vi này được thực hiện bởi
chủ thể là các thành viên trong gia đình thường được thực hiện bởi người đàn
ơng, người cha, người chồng trong gia đình. Tại điều 2 luật phịng chống bạo
lực gia đình Việt Nam đã xác định các hành vi bạo lực gia đình cụ thể:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến
sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ơng,
bà và cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng
tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các
thành viên trong gia đình;
- Cưỡng ép thành viên trong gia đình lao động q sức, đóng góp tài

chính q khả năng của họ; kiểm sốt thu nhập của thành viên gia đình nhằm
tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Loại thứ hai, hành vi vi phạm khác được thực hiện bởi người trong gia
đình hoặc ngồi gia đình ; hoặc là người có thẩm quyền xử lý về vi phạm
pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ; cơ quan, người có chức năng quản
lý nhà nước trong lĩnh vực phịng chống bạo lực gia đình nhưng đã khơng làm
đúng chức năng của mình…được quy định tại điều 8 luật phịng, chống bạo
lực gia đình:


25
- Cưỡng bức, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi BLGĐ.
- Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh để kích động bạo lực gia đình.
- Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người
phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
- Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
- Lợi dụng hoạt động phịng, chống baọ lực gia đình để trục lợi hoặc
thực hiện hoạt động trái pháp luật.
- Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của
pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
Những hành vi vi phạm đó khơng trực tiếp mà gián tiếp gây thiệt hại tới
tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của nạn nhân bị bạo hành.
Như vậy, bên cạnh việc quy định các hành vi bạo lực gia đình, Luật
Phịng, chống bạo lực gia đình cịn quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong
hoạt động phịng, chống bạo lực gia đình. Điều này cho chúng ta thấy, ngoài
các chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với thành viên trong gia
đình mình cịn có các chủ thể khác ngồi gia đình vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực phịng, chống bạo lực gia đình. Điều này giúp ta phân biệt chủ thể

của bạo lực gia đình với chủ thể vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo lực
gia đình nói chung.
* Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi vi phạm pháp luật phịng chống bạo
lực gia đình luật gây ra cho nạn nhân bị bạo hành, cho xã hội. Hành vi trái
pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật. Vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng, đau lịng khơng chỉ cho bản thân người bị bạo lực, cho gia đình của họ
mà cịn ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội và cản trở sự phát triển của xã hội. Cụ
thể, hậu quả vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để lại như sau:


×