Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Một số biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 1 thông qua môn Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.04 MB, 30 trang )


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU...................................................................................................1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI......................................................................................1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.............................................................................2
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU...............................................................................2
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU............................................................................2
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................................2
VI. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................3
PHẦN II. NỘI DUNG.............................................................................................4
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU.......................................................................................................................4
1. Cơ sở lí luận....................................................................................................4
2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................5
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ..................................................................................5
1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.........................................................................5
2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng....................................................................8
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH LỚP 1 THÔNG QUA MÔN TIẾNG VIỆT......................................10
Biện pháp 1: Hỗ trợ học sinh luyện nói tròn câu..............................................10
Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh luyện giao tiếp đúng chủ đề........................15
Biện pháp 3: Lồng ghép luyện giao tiếp thơng qua trị chơi học tập................19
Biện pháp 4: Dạy học phát triển giao tiếp phù hợp với khả năng của
học sinh.............................................................................................................22
III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.........................................23
PHẦN III. KẾT LUẬN.........................................................................................25
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM..............................................................................25
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT..................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................27



PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Tiếng Việt là bộ mơn quan trọng trong chương trình Tiểu học và cũng là một
mơn học bắt buộc trong chương trình tiểu học. Đặc biệt trong chương trình giáo
dục phổ thơng mới 2018 bên cạnh mục tiêu hình thành và phát triển các năng lực
đặc thù (năng lực ngôn ngữ), Môn Tiếng Việt lớp 1 cịn có mục tiêu góp phần phát
triển các năng lực chung theo quy định của chương trình như: năng lực tự chủ và tự
học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Phát
triển năng lực giao tiếp chính là một trong những yêu cầu cần đạt của việc dạy học
môn Tiếng Việt lớp 1.
Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần
đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của con
người. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thơng tin đến các đối tượng cần
giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động giao tiếp. Giao tiếp tạo
nên sự tích cực trong hoạt động xã hội, trong hình thành và phát triển nhân cách,
tạo lập các mối quan hệ tốt trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp còn giúp cho các
em học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong cuộc sống hàng ngày,
giúp các em nói những điều các em muốn nói, làm những việc nên làm, đồng thời
biết lắng nghe và thấu hiểu người khác, mang đến cho các em một cuộc sống tốt
đẹp trong tương lai. Và giao tiếp chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường, gia
đình, xã hội, mơi trường giáo dục. Giao tiếp đặc biệt quan trọng trong các mối
quan hệ xã hội và cũng đặc biệt quan trọng đối với việc hợp tác tích cực trong
học tập.
Ở Tiểu học, việc rèn luyện cho trẻ khả năng giao tiếp và hợp tác tích cực
được bắt đầu từ lớp 1. Giai đoạn này, vốn ngơn ngữ của các em cịn ít; sự tiếp xúc
giao lưu với mơi trường xung quanh cịn hạn chế. Cho nên với học sinh lớp 1, các
em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời, chưa có ý thức trong việc sử
dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay,
đại dịch covid đang lan tràn khắp toàn cầu. Nhiều quốc gia, địa phương chịu ảnh

hưởng nghiêm trọng từ dịch bệnh. Dẫn đến học sinh không được đến trường,
không được giao lưu trực tiếp mà phải học tập trực tuyến, kĩ năng giao tiếp giữa
các học sinh bị hạn chế rất nhiều. Trong điều kiện đó giáo viên đóng vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc thúc đẩy các em phát triển năng lực giao tiếp.
Qua quá trình giảng dạy ở những năm học vừa qua tôi nhận thấy học sinh
của các lớp 1 mà tơi đã chủ nhiệm cịn rất nhiều em trong quá trình giao tiếp khi trả
lời câu hỏi, lúc diễn đạt chưa rõ ràng, nói cịn rụt rè, nhút nhát không tự nhiên khi
đưa ra lời nhận xét hay đánh giá trước lớp. Các em tìm tiếng, tìm từ cịn chậm, nói
khơng thành câu, nói khơng rõ lời, chưa phát âm chuẩn, nhiều học sinh nói cịn kéo
dài, chưa trơi chảy, chưa lưu lốt, chưa biểu cảm.
Với lý do trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra và áp dụng “Một số biện pháp phát
1


triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 1 thơng qua mơn Tiếng Việt”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh. Bước đầu giúp học sinh biết làm
việc nhóm; giao tiếp thân thiện, hợp tác với bạn cùng nhóm, cùng lớp, cùng lứa
tuổi trong học tập, lao động, vui chơi; biết chia sẻ những điều đã học được với
người thân.
- Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngơn ngữ khi giao tiếp, rèn
cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng,
có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình.
- Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy
bén, lễ phép, thơng minh hơn.
- Qua q trình tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng để đưa ra một số biện
pháp nâng cao phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 1 một cách hiệu quả.
- Giúp bản thân và đồng nghiệp có được tài liệu hệ thống và tính khả thi cao
về các biện pháp dạy học phát triển năng lực giao tiếp trong môn Tiếng Việt 1 cho

học sinh.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Học sinh lớp 1 tại trường tôi công tác. Ở lứa tuổi này học sinh có rất nhiều
thay đổi về tâm sinh lý, dễ bị ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài.
- Về thời gian: Nghiên cứu trong năm học 2020 - 2021 và năm học
2021 - 2022.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đã tự xác định cho mình những nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
a. Nghiên cứu cơ sở lý thuyết của đề tài.
b. Tìm hiểu thực trạng năng lực giao tiếp học sinh lớp 1 tôi trực tiếp giảng
dạy và chủ nhiệm, nguyên nhân dẫn đến thực trạng để giúp các em phát triển năng
lực giao tiếp tốt nhất.
c. Đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả phát triển năng lực giao tiếp
cho học sinh.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Đọc, phân tích các tài liệu, sách giáo khoa Tiếng Việt có liên quan về vấn
đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Điều tra thực trạng trong công tác
dạy học phát triển năng lực giao tiếp thông qua môn Tiếng Việt 1 cho học sinh. Lấy
ý kiến của giáo viên và học sinh để thu thập thông tin nghiên cứu.
2


- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với giáo viên, học sinh để
tìm hiểu nhận thức như thế nào về vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực giao
tiếp cho học sinh.

- Phương pháp quan sát: Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên nhằm đúc
rút kinh nghiệm cho bản thân để tìm giải pháp khắc phục những tồn tại trong quá
trình dạy học phát triển năng lực giao tiếp môn Tiếng Việt 1. Quan sát cử chỉ, thái
độ, hành động, sự biểu hiện khả năng giao tiếp thông qua các tiết học Tiếng Việt 1
trên lớp. Quan sát các hoạt động ngoại khóa trên sân trường, hoạt động tập thể
ngoài giờ lên lớp,… để từ đó có biện pháp phát triển năng lực giao tiếp phù hợp
cho học sinh.
- Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp: Gặp trực tiếp những giáo viên có
kinh nghiệm, các nhà quản lý xin ý kiến, trao đổi về những vấn đề có liên quan đến
đề tài.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu đã điều tra được.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khoa học, tính khả thi của
các biện pháp đã đề xuất.
VI. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

- Sự nhạy bén, linh hoạt trong kết hợp các phương pháp dạy học ở các hình
thức dạy học trực tuyến cũng như trực tiếp nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho
học sinh thông qua mơn Tiếng Việt 1.
- Tận dụng ưu thế hình thức dạy học trực tuyến để chia nhóm cho học sinh
thảo luận, trình bày trước lớp trong zoom, sử dụng hình ảnh phong phú đa dạng.
- Dựa vào mục đích yêu cầu của chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt đã
rất chú trọng đến việc dạy học 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học.
Trong quá trình dạy học ln ln linh hoạt tạo ra cho trẻ những sân chơi, những
môi trường hoạt động để trẻ tự chiếm lĩnh kiến thức phong phú, đảm bảo rèn luyện
để phát triển năng lực giao tiếp.
- Chú trọng dạy học phát triển năng lực giao tiếp trong môn Tiếng Việt 1.
Thực sự xem phát triển năng lực giao tiếp là một trong những yêu cầu cần đạt của
mỗi tiết dạy học Tiếng Việt.
- Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý
tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát triển

nhân cách tồn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở
thành người có ích cho xã hội.
- Giáo viên quan tâm và giúp đỡ học sinh phát triển đúng hướng, từng bước
một trong suốt chiều dài phát triển nhân cách của học sinh.
- Xuất phát từ vấn đề tâm lý, giáo viên phải thực sự là người mẹ, người cha
và người bạn biết lắng nghe và chia sẻ.
3


PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở lí luận
Trong xu thế hội nhập và phát triển, giáo dục cần phải hướng tới các mục
tiêu: “Học để biết, học để làm và học để chung sống” và đặt ra vấn đề là: kỹ năng
nào cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công việc và cuộc sống? Một
trong 3 kỹ năng tồn cầu địi hỏi ở một con người hoàn thiện là kỹ năng giao tiếp.
Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, nhờ có kỹ năng giao tiếp
mà con người có thể chung sống và hòa nhập trong một xã hội không ngừng biến
đổi. Thực tế đã chứng minh con người hoạt động thành công và hiệu quả nhờ kỹ
năng giao tiếp chiếm 60%. Đối với học sinh tiểu học, giao tiếp giúp cho các em
trao đổi tri thức, thông tin trong học tập, rèn luyện, chia sẻ các vấn đề trong cuộc
sống hoạt động và vui chơi. Nhờ có giao tiếp học sinh biết cách bày tỏ thái độ và
quan điểm của mình trong quan hệ gia đình, nhà trường và xã hội.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học của bộ mơn Tiếng Việt 1 là phát
huy tính tích cực chủ động của học sinh, tạo cơ hội để có thể tăng cường rèn luyện
cho học sinh cả 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Người giáo viên cần có những biện
pháp huy động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích luỹ, rèn tập được có liên
quan đến nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế
chủ động cho học sinh trong việc tiếp thu bài mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ

chức các hoạt động học tập cho học sinh như: quan sát và thực hành theo mẫu,
thực hành giao tiếp, thảo luận, tranh luận, thuyết trình, đưa ra kết luận, v.v... để
khám phá kiến thức mới, thơng qua đó mà rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe,
nói. Quan điểm dạy học theo xu thế hiện nay là dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. Ứng với quan điểm này sẽ có một hệ thống các
phương pháp dạy học cụ thể, có thể gọi là các phương pháp dạy học tích cực. Lựa
chọn phương pháp dạy học nào, phối hợp các phương pháp dạy học nào đối với
mỗi bài học người giáo viên cần dựa vào đặc điểm, yêu cầu của mỗi kiểu bài học,
năng lực học sinh trong lớp và điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể của từng
trường, từng địa phương. Chính vì vậy, để thực hiện các mục tiêu giáo dục cho học
sinh tiểu học thì điều cần thiết là phải hình thành và phát triển ở các em năng lực
giao tiếp. Dạy cho các em biết cách giao tiếp có hiệu quả chính là dạy cho các em
biết cách nhận thức đúng đắn về mình, nhận biết về đối tượng giao tiếp, biết cách
tiếp cận với đối tượng giao tiếp và biết bày tỏ thái độ, quan điểm của mình bằng lời
nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả những việc làm khi cần thiết. Phát triển
giao tiếp giúp cho học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong cuộc sống
hàng ngày, giúp các em nói những điều muốn nói, làm những việc nên làm, đồng
thời biết lắng nghe và thấu hiểu người khác. Mặt khác phát triển năng lực giao tiếp
nó khơng tồn tại độc lập mà nó có quan hệ mật thiết với năng lực tự nhận thức và
các năng lực khác, thế nên phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh cũng chính là
rèn luyện kỹ năng sống cho các em. Nói tóm lại yêu cầu cần đạt đối với phát triển
4


năng lực giao tiếp ở học sinh lớp 1 chính là học sinh biết giao tiếp thân thiện, biết
chia sẻ những điều đã học với người thân, bạn bè.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công
nghệ thông tin, ngơn ngữ nói được thay bằng ngơn ngữ viết qua máy tính ( gửi
emall, chát, nhắn tin… trên mạng). Trong thực tế cho thấy, một số người có trình

độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi
trình bày ý kiến trước đám đơng lại gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy, việc rèn
luyện bồi dưỡng phát triển năng lực giao tiếp cần được chú trọng và quan tâm
đúng mức.
Những năm gần đây, chương trình dạy học tiếng Việt có nhiều đổi mới đáng
kể. Nội dung dạy học khơng cịn q thiên về cung cấp tri thức Việt ngữ học nữa
mà đã chú ý đến phát triển năng lực giao tiếp thơng qua rèn kĩ năng sử dụng ngơn
ngữ. Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học đã thể hiện sự phát triển năng lực
giao tiếp từ việc rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học. Ở các lớp có sự lặp lại và
nâng cao trong từng kĩ năng nói thể hiện tính hệ thống trong nội dung học tập, giúp
học sinh từng bước nâng cao kĩ năng nói của mình qua từng năm học.
Qua tìm hiểu tơi nhận thấy nội dung dạy học trong sách giáo khoa Tiếng Việt
tiểu học thực hiện quan điểm dạy giao tiếp theo hướng tích hợp nội dung và kỹ
năng, với yêu cầu tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Yêu cầu luyện nói
là một điểm mới của sách giáo khoa mới, có mục đích giúp phát triển ngơn ngữ
của trẻ, rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở, tự tin. Đây là điều
kiện thuận lợi để giúp học sinh tiểu học được rèn luyện giao tiếp và phát triển kỹ
năng ngôn ngữ.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ

1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
- Trong những năm học gần đây trường tôi tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao
ý thức trách nhiệm của người học sinh, chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh,
định hướng dần cho học sinh về lí tưởng và kĩ năng nhằm hình thành nhân cách
cho học sinh, thực hiện các hoạt động theo chủ đề “Tuổi trẻ với Bác Hồ” tập trung
nâng cao ý thức tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ứng xử văn minh, lịch sự;
hành vi giao tiếp đúng mực. Tuy nhiên, trong q trình dạy học mơn Tiếng Việt 1
nhiều giáo viên vẫn chưa chú trọng phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh.
Trong dạy Tiếng Việt giáo viên còn quan tâm nhiều đến luyện đọc, luyện viết. Việc
luyện nói theo chủ đề, kể chuyện theo tranh, đàm thoại hỏi đáp cịn ít. Những em

học yếu lại ít được luyện nói trong tiết học. Giáo viên chưa kịp thời sửa sai cho học
sinh khi các em nói chưa rõ ràng, chưa trịn câu. Giờ dạy có vẻ như hoạt động thầy
- trò song phương nhưng thật ra chỉ là hoạt động thầy hỏi - trò đáp lặp đi, lặp lại
một cách nhàm chán và rốt cuộc vẫn thầy nói nhiều hơn trị, trị nếu được nói cũng
chỉ là câu trả lời theo khuôn mẫu. Rõ ràng cách dạy như thế học sinh khơng có cơ
5


hội để bày tỏ ý kiến riêng của mình, khơng được tranh luận với bạn bè, đặc biệt là
những cảm nhận riêng của các em khơng được chia sẻ. Vì thế cho nên kỹ năng
giao tiếp của các em chưa được rèn luyện chu đáo.
1.1. Thuận lợi
+ Nhà trường, Giáo viên:
- Tất cả giáo viên đều được đào tạo qua các trường sư phạm, có kĩ năng sư
phạm tương đối tốt.
- Môi trường sống và làm việc lành mạnh, rất “sư phạm”; giáo viên tự tin, tự
trọng trước học sinh và phụ huynh.
- Năng lực cá nhân của các giáo viên có khác nhau đơi chút nhưng nhìn
chung đều có kĩ năng giao tiếp tốt.
- Công nghệ thông tin phát triển nên sự học hỏi nâng cao khả năng giao tiếp
của giáo viên thông qua đa phương tiện.
- Đa số giáo viên hàng năm đều được tham gia tập huấn chuyên môn, cập
nhật thường xuyên các thông tin, đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng tương
đối linh hoạt phương pháp dạy học mới.
+ Phụ huynh, học sinh:
- Ở độ 6-7 tuổi của học sinh lớp 1. Các em đa số cịn rất ngoan, dễ vâng lời,
nghe lời cơ giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen
thưởng v.v..
- Mơi trường giao tiếp trong gia đình của các em tương đối thuận lợi. Số
đông phụ huynh đã quan tâm đến việc giáo dục con thơng qua rèn luyện giao tiếp

một cách tích cực.
- Môi trường giao tiếp của các em tương đối rộng và thông qua nhiều
hoạt động.
- Số đông học sinh tự tin trong giao tiếp với mọi người xung quanh. Một số
em có óc tị mị biết đặt câu hỏi để tìm hiểu những vẫn đề mình đang thắc mắc.
1.2. Khó khăn
- Ở giai đoạn 6-7 tuổi, khả năng tập trung chú ý của các em chưa cao, tư duy
cụ thể là chủ yếu. Ý thức về không gian chưa đầy đủ, các em chỉ quan tâm tới tổng
thể mà chưa thực sự chú ý tới quy trình, vẫn có sự nhầm lẫn về vị trí các chữ cái.
- Những hiểu biết về Tiếng Việt và năng lực sử dụng lời nói của học sinh lớp
1 khơng đồng đều.
- Các em ở độ tuổi lớp 1 cịn nói câu chưa gọn rõ hoặc chưa thành câu; kĩ
năng giao tiếp, nhận xét, đánh giá còn nhiều hạn chế.
- Vốn từ của các em chưa nhiều, sử dụng từ ngữ đôi lúc chưa hợp nghĩa.
6


- Một số trẻ thụ động, thiếu tự tin, còn rụt rè khi giao tiếp, khi tham gia hoạt
động tập thể.
- Một số giáo viên chưa tạo được môi trường phong phú để hỗ trợ rèn luyện
kĩ năng giao tiếp cho trẻ, chưa thường xuyên theo dõi, điều chỉnh việc sử dụng
ngôn ngữ giao tiếp của trẻ sao cho lịch sự, phù hợp lứa tuổi, phù hợp hoàn cảnh
giao tiếp.
- Một số em có mơi trường gia đình khơng được thuận lợi, trong gia đình
cịn có hiện tượng người lớn khơng gương mẫu, hay cãi cọ, có hành động, nói năng
khiếm nhã,… làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến thói quen giao tiếp của trẻ.
- Các anh chị đội viên phụ trách sinh hoạt Sao ở lứa tuổi lớp 4; 5 cịn q ít
kinh nghiệm và hạn chế về thời gian nên chưa làm được động lực tiếp sức thêm
việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em.
- Việc tổ chức hoạt động lớn, các “sân chơi” cho các em còn nhiều hạn chế,

trẻ ở độ tuổi lớp 1 khả năng tương tác hỗ trợ nhau chưa cao.
Qua quá trình giảng dạy ở những năm học vừa qua tôi nhận thấy học sinh
của các lớp 1 mà tôi đã chủ nhiệm cịn có nhiều có một số em trong giao tiếp với
bạn bè cịn thiếu hồ nhã, các hành vi ứng xử đôi lúc chưa thật sự văn minh, lịch
sự. em học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và
sinh hoạt chung.
Năm học 2021-2022 tôi được giao nhiệm vụ phụ trách lớp 1C - lớp gồm 37
học sinh (trong đó có 16 nữ, 22 nam). Phần lớn các em chăm ngoan, biết nghe lời,
chào hỏi người lớn, diễn đạt khá tốt. Sau khi nghiên cứu và khảo sát các mẫu của
phiếu điều tra, trong q trình tiếp xúc với các em, tơi đã xác định được một số em
còn hạn chế về năng lực giao tiếp. Đó là nhóm các em sau:
1. Lê Ngọc Cường, Nguyễn Thạc Duy Bảo, Trần Thị Yến Nhi, Nguyễn
Thị Phương Uyên khi gặp thầy cô giáo hoặc người khác còn lúng túng, chưa biết
chào hỏi, còn nhút nhát, ngại giao tiếp, nói cịn rụt rè, khơng tự nhiên khi đưa ra lời
nhận xét hay đánh giá trước lớp, trả lời câu hỏi chưa rõ ràng, cộc lốc, không có chủ
ngữ, vị ngữ.
2. Nguyễn Gia Vinh, Nguyễn Minh Anh, Lê bảo An, Nguyễn Thảo My,
Đàm Nguyên Khôi hành vi ứng xử, giao tiếp chưa đúng mực, ứng xử còn mang
tính tùy tiện như em
3. Phan Hồng Nam, Bùi Thị Phương Anh, Nguyễn Hải Nam được sự
nuông chiều của gia đình, được gia đình phục vụ, đáp ứng mọi yêu cầu, chỉ biết
học nên khả năng giao tiếp còn nhiều hạn chế, thụ động trong học tập.
- Một số phụ huynh chưa thực sự bên con, chưa dành thời gian cho con trong
quá trình hình thành và phát triển các kĩ năng của trẻ; chưa quan tâm đến cảm xúc
của trẻ.

7


- Bên cạnh đó, gia đình chưa thực sự quan tâm đến lời nói của các em trong

giao tiếp mà mới chỉ quan tâm đến việc đọc, viết và làm tốn của các em. Khơng
phát hiện được những điểm yếu của con em mình, nên chưa tạo điều kiện cho các
em luyện nói, giao tiếp hàng ngày.
Thống kê kết quả khảo sát về năng lực phẩm chất cuối năm học 2021 - 2022
(kết quả năm học lớp 1) của lớp như sau:
Bảng số liệu đánh giá mức độ năng lực giao tiếp của học sinh
Số học sinh
giao tiếp tốt
Tổng
Năm học

Tháng 10/2021

Lớp

1C

số
học
sinh

36

(Nói thành
câu, thành
đoạn)

Số học sinh
giao tiếp đạt
yêu cầu

(Nói đủ câu, lưu
lốt, đúng chủ
đề)

Số HS giao
tiếp chưa đạt
u cầu
(Nói chưa đủ
câu, nói chưa
lưu lốt, chưa
đúng chủ đề)

Số
lượn
g

Tỷ lệ
%

Số
lượng

Tỷ lệ
%

Số
lượng

Tỷ lệ
%


4

11

15

42

17

47

2. Ngun nhân dẫn đến thực trạng
Tôi đã thống kê Số Học sinh còn hạn chế về năng lực giao tiếp và phân
loại được nguyên nhân dẫn đến các em giao tiếp chưa tốt do các nguyên nhân sau:
2.1. Nguyên nhân khách quan
a. Ngun nhân về phía gia đình
Địa bàn phường tơi cơng tác đa số gia đình học sinh sống bằng nghề lao
động tự do như buôn bán ở chợ hoặc làm ruộng, điều kiện kinh tế cịn nhiều khó
khăn, chật vật, trình độ học vấn của phụ huynh cịn hạn chế, cách quan tâm uốn
nắn kĩ năng giao tiếp cho các em của nhiều gia đình chưa đúng, chưa thực sự quan
tâm tới con, việc rèn luyện giao tiếp còn thả lỏng nên học sinh thường cư xử tùy
tiện, nói cộc lốc, khơng có chủ ngữ, vị ngữ khơng dạ, thưa với người lớn.
- Một số em có hồn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bươn chải kiếm tiền để
ni con, song vì gánh nặng cơm áo gạo tiền, không để ý đến việc giáo dục dạy dỗ
con cái, không quan tâm đến việc học hành, rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giao
tiếp cho con.
- Một số gia đình khá giả nhưng bố mẹ mải làm ăn khơng quan tâm đến
việc giáo dục con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu khơng chính đáng của

8


con cái. Chính vì q nng chiều con như vậy đã vơ tình tạo cho trẻ tính lười
biếng thói ỷ lại vào bố mẹ, khơng chịu rèn luyện. Từ đó các em có những thói hư
tật xấu. Một vài em được sự nng chiều của gia đình, được gia đình phục vụ,
đáp ứng mọi yêu cầu, chỉ biết học nên khả năng giao tiếp còn nhiều hạn chế, thụ
động trong học tập.
- Một số bố mẹ học sinh hoàn cảnh khó khăn như bố mẹ ly hơn, kinh tế khó
khăn, bố mẹ đi làm ăn xa hoặc đi nước ngoài phải ở với ông bà, thiếu sự quan tâm,
quản lý chặt chẽ nên dễ sinh hư. Giáo viên cũng khó có thể gặp được bố mẹ các
em, trong các cuộc họp phụ huynh thường kì thì thường có ơng bà hoặc chú bác đi
họp hộ. Hoặc có những bạn thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hịa,
cách cư xử của cha mẹ thơ bạo, rượu chè bê tha. Điều này đã tạo ấn tượng không
tốt dẫn đến tình trạng các em lầm lì, ít nói, có bạn dần nhiễm những thói quen hành
vi giao tiếp khơng tốt với mọi người.
- Bên cạnh đó, gia đình chưa thực sự quan tâm đến lời nói của các em trong
giao tiếp mà mới chỉ quan tâm đến việc đọc, viết và làm tốn của các em. Khơng
phát hiện được những điểm yếu của con em mình, nên chưa tạo điều kiện cho các
em luyện nói, giao tiếp hàng ngày.
b. Ngun nhân về phía nhà trường
- Nhà trường là ngơi nhà thứ hai của các em, nơi để bố mẹ gửi gắm niềm tin
vào việc giáo dục con cái mình. Từ đây, các em được học tập, được hiểu biết, được
lớn lên về mọi mặt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những giáo viên chưa nhiệt tình,
chưa thực sự u nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên thường bỏ bê, ít quan
tâm tới học sinh.
- Một vài thầy cô do đặt nặng việc truyền thụ kiến thức mà xem nhẹ việc
phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. Chính điều này đã dẫn đến khả năng
giao tiếp cịn nhiều hạn chế từ phía học sinh. Theo quan niệm của các đồng chí này
việc phát triển năng lực giao tiếp không liên quan nhiều, rõ rệt đến chất lượng đại

trà cho nên thời gian đầu tư cho việc dạy học phát triển năng lực giao tiếp của các
đồng chí cịn ít. Giáo viên sử dụng đơn điệu các phương pháp chủ yếu là thuyết
trình, giảng giải, dạy học chưa đi đơi với hành khiến học sinh chưa nói lên được
suy nghĩ của mình bằng ngơn ngữ của bản thân nên kĩ năng giao tiếp của học sinh
còn chưa tốt.
- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường
sống của học sinh, chưa thật sự thơng cảm với những khó khăn mà học sinh gặp
phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả
lời. Khơng mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngơn ngữ, vì sợ
gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vơ tình giáo viên
đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
9


- Lớp học có sĩ số khá đơng giáo viên không thể quan tâm sâu sắc đến từng
em. Nếu chúng ta khơng quan tâm đến trẻ thì trẻ rất thụ động, dễ lơ là qua chuyện
khi giao tiếp với người khác.
- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi
dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đơi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
c. Ngun nhân về phía mơi trường xã hội
Hiện nay do sự phát triển của kinh tế - xã hội, sự du nhập của nhiều loại hình
văn hóa khác nhau đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến lớp trẻ nói chung, lứa tuổi học
sinh tiểu học nói riêng. Sự phát triển của mạng lưới thông tin làm xâm nhập những
luồng thông tin phiến diện, đa chiều tác động lớn đến lối sống, tâm lý, tình cảm của
các em. Nhiều chương trình, phim ảnh nhảm nhí tràn lan trên kênh youtobe nó đã
thu hút khá đơng trẻ nhỏ, khiến các em học tập bắt chước những hành vi, lời nói
khơng tốt từ đó các em có biểu hiện lệch lạc trong giao tiếp.
2.2. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân học sinh
Một số em do không may mắn có hạn chế về sức khỏe như nói ngọng, chậm
chạp, hơi tăng động, năng lực học tập bị hạn chế dẫn đến sự lười biếng, chán nản

rồi dần dần các em mặc cảm, không phấn đấu rèn luyện kĩ năng giao tiếp.
Một số em do tuổi còn nhỏ chưa nhận thức được thế nào là tốt - xấu, đúng sai dẫn đến ăn nói tùy tiện, bướng bỉnh, tự cho mình là đúng khơng thỏa hiệp để
sửa sai. Nhiều em cịn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu
trả lời hay cho chính mình.
Trong q trình giao tiếp đó các em thường nói không đủ câu, không đủ ý và
không được ai giúp đỡ chỉnh sửa cách giao tiếp cho phù hợp. Khi đến lớp các em
thường nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
Xuất phát từ thực trạng khó khăn trên của nhà trường, tơi ln trăn trở và
tìm ra một số biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 1 thông qua
môn Tiếng Việt như sau:
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH LỚP 1 THÔNG QUA MÔN TIẾNG VIỆT

Biện pháp 1: Hỗ trợ học sinh luyện nói trịn câu
a. Mục đích
Nâng cao kỹ năng nói cho học sinh, làm giàu vốn ngôn ngữ và trang bị cho
học sinh kỹ năng giao tiếp tự nhiên hơn. Đồng thời kỹ năng nói trịn câu cịn trang
bị cho học sinh cách giao tiếp thể hiện được lời nói lịch sự, tế nhị của mối quan hệ
giữa bạn bè trong trường, gia đình, xã hội. Nói trịn câu là một vấn đề rất quan
trọng trong q trình giao tiếp. Khi ta nói trịn câu thì người nghe mới hiểu được ý
10


mình muốn nói gì. Ngồi ra nói trịn câu cịn thể hiện được là người lịch sự văn
minh. Hướng dẫn học sinh nói trịn câu, đủ ý, có đầy đủ bộ phận theo mẫu để diễn
đạt đúng mục đích giao tiếp, giúp cuộc giao tiếp diễn ra nhẹ nhàng, ấn tượng.
b. Cách thực hiện
Trên thực tế học sinh lớp 1, khi trả lời giáo viên hoặc trả lời các câu hỏi bài
tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt lủn, nói trống khơng, khơng đầy
đủ câu. Mặt khác qua nhiều lần dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi nhận thấy

khi học sinh trả lời như vậy rất ít giáo viên ý thức sửa câu trả lời cho học sinh. Vì
vậy để giúp các em nói trịn câu đủ ý tơi áp dụng sửa lỗi ngay trong quá trình các
em trả lời các câu hỏi và trong quá trình dạy phần học vần cũng như kể chuyện.
Ví dụ: Khi dạy bài 5 phần học vần về dấu hỏi. Giáo viên đưa tranh bụi cỏ
hỏi: Tranh vẽ gì? Thay vì phải trả lời: “Thưa cơ, tranh vẽ bụi cỏ ạ”. Thì học sinh
thường chỉ trả lời: “bụi cỏ”. Hay: Trong tiếng “cỏ” có dấu gì? học sinh thường trả
lời: “dấu hỏi”, chứ không phải là: “Thưa cô, trong tiếng cỏ có dấu hỏi”. Bởi lẽ do
thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả năng nhớ nội dung câu hỏi của học
sinh còn hạn chế. Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu bước chân vào lớp 1, với 11 bài
học đầu tiên về âm và dấu thanh. Đồng thời áp dụng với tất cả các tiết học khác
như: toán, tự nhiên xã hội, đạo đức… Tôi bắt đầu tập trung rèn luyện cho học sinh
kỹ năng nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 8 phần học vần: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan
sát và hỏi: Tranh vẽ quả gì? (cho học sinh trả lời)
- Nếu học sinh trả lời “quả lê” hoặc khơng biết cách trả lời thì giáo viên
hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời phải
kèm theo lời thưa cô (thầy) như sau: Thưa cô, tranh vẽ quả lê. Sau đó cho học sinh
nhắc lại.
- Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại
câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đôi khi cho học sinh đọc câu trả lời
đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần hình
thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy đủ câu.
Quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất kỳ môn học
nào, sau vài lần sửa các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu.
Trong q trình dạy kể chuyện tơi nhận thấy các em kể các câu chuyện cịn
lộn xộn, chưa rõ ràng, diễn đạt chưa trơi chảy vì thế để giúp các em nói trịn câu đủ
ý tơi thường yêu cầu các em nói lại từng câu có đầy đủ các bộ phận câu, hướng cho
các em nói theo các mẫu câu: “ai (cái gì, con gì) làm gì/thế nào/là gì?”. Việc làm
này cũng giúp các em có nền tảng để học lên lớp 2. Bên cạnh đó tơi thường khuyến
khích học sinh về nhà kể lại cho người thân nghe những câu chuyện vừa học trên

lớp, quay video kể câu chuyện gửi lại cho giáo viên. Phối hợp với phụ huynh uốn
11


nắn, chỉnh sửa câu, từ chính xác cho các em.
Mặt khác học sinh lớp 1 các em còn rất ngây thơ, trong tâm trí các em cơ
giáo ln là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Chính vì vậy mà mỗi lời nói, cử chỉ của cơ
giáo ln là tấm gương để học sinh bắt chước. Vì vậy trong quá trình dạy học, tôi
thường chọn lọc từ ngữ, suy nghĩ kĩ trước khi nói, ln nói câu có đầy đủ các bộ
phận câu. Bởi vậy ơng cha ta mới có câu tục ngữ:
“Lời nói khơng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”
Bên cạnh cách làm trên tơi cũng kết hợp dạy cho học sinh hiểu đúng nghĩa
các từ ngữ mà sách giáo khoa cung cấp, bởi việc hiểu đúng nghĩa của từ ngữ giúp
các em có lượng vốn từ ngày càng phong phú để hỗ trợ nói trịn câu đủ ý.
Cách làm này được tôi áp dụng ngay trong phần dạy và học mở rộng vốn từ
Tiếng Việt lớp 1.
- Khi dạy phần mở rộng vốn từ ở hầu hết các bài học trong môn Tiếng Việt
tôi cho học sinh xem thêm một số hình ảnh, video ngồi kênh hình của sách giáo
khoa để học sinh hiểu hơn về nghĩa của từ đó.
Ví dụ: Khi dạy phần mở rộng vốn từ bài 22 có tiếng “nghệ” tơi cho học sinh
xem thêm một số hình ảnh và tác dụng của cây nghệ.

12


Hình ảnh minh họa các lợi ích của cây nghệ
Ví dụ: Khi dạy phần mở rộng vốn từ bài 28 có từ “thợ mỏ” và tiếng “tạ” tơi
cho học sinh xem thêm video nói về cơng việc của người thợ mỏ, video hướng dẫn
tập tạ.


Hình ảnh trích từ video sử dụng để giải nghĩa từ ngữ: thợ mỏ, tạ
- Trong phần dạy học mở rộng vốn từ sau khi khai thác hình ảnh, tiếng, từ
ngữ. Tơi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đơi để tìm những tiếng chứa vần
theo yêu cầu của bài tập. Quá trình thảo luận nhóm đơi nhằm rèn luyện cho học
sinh cách diễn đạt, trình bày bài làm, kết quả thảo luận một cách rành mạch, các
em được luyện nói trịn câu đủ ý trong lúc thảo luận và khi trình bày trước lớp. Khi
luyện giao tiếp theo nhóm đơi tơi thường ghép những em diễn đạt tốt để kèm cặp
những em diễn đạt kém.

13


Hình ảnh thảo luận nhóm đơi khi học trực tuyến qua zoom

14


Hình ảnh minh họa bài tập tìm tiếng chứa vần mới học
Khi dạy đến phần mở rộng vốn từ tôi cũng thường u cầu học sinh ngồi
tìm tiếng chứa âm, vần mới theo sách giáo khoa tơi cịn đặt ra u cầu và hỗ trợ
các học sinh tìm từ, nói câu có tiếng chứa âm, vần mới. Từ đó uốn nắn, sửa lỗi khi
các em sắp xếp trật tự các từ trong câu chưa đúng ý.
Ví dụ: Khi dạy bài 31 “ua-ưa” đến phần mở rộng vốn từ có em đã đặt câu
chứa âm “ua” như sau:
“Bác nông dân cày lúa” tôi bám sát sửa sai cho học sinh đặt lại câu đúng
nghĩa là “Bác nông dân gặt lúa”.
Luôn bám sát, sửa lỗi khi các em phát biểu, đọc bài. trong mọi tình huống tơi
ln chú ý uốn nắn các em. Ngồi việc nói trịn câu, đủ ý, tơi cịn đặc biệt quan
tâm nhắc nhở các em nói phải kèm dạ, thưa.

Giáo viên khuyến khích học sinh trả lời theo suy nghĩ của mình. Giáo viên
có thể đặt câu hỏi để các em nghĩ kĩ hơn nhưng không nên đánh giá đúng, sai chủ
yếu để khơi gợi suy nghĩ, và bằng vốn kinh nghiệm đã có của học sinh để hướng
vào đề tài của bài học ngày hơm đó.
Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh luyện giao tiếp đúng chủ đề
a. Mục đích
Mỗi chủ điểm của Tiếng Việt 1 ln gắn liền với cuộc sống, môi trường
quen thuộc, gần gũi với sự hiểu biết của các em. Đặc biệt ở mỗi chủ điểm sẽ có chủ
đề nói tương ứng. Chính vì vậy mà giáo viên cần xác định rõ, đúng mục tiêu của
chủ đề luyện nói để hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề. Thơng qua rèn
luyện kĩ năng nói ở mỗi chủ đề giúp học sinh phát triển tốt năng lực giao tiếp đúng
mục đích. Việc giao tiếp đúng chủ đề cũng góp phần giúp cuộc giao tiếp diễn ra
trơi chảy, khơng khó chịu, khơng mất thời gian, giúp người nghe hiểu nội dung
giao tiếp tránh tình trạng “ơng nói gà, bà nói vịt”.
b.Cách thực hiện
Khi dạy học chủ đề luyện nói, giáo viên chú ý hướng dẫn các em nói đủ 2
nội dung: nhận biết về chủ đề và cảm xúc của các em trước chủ đề đó. Trọng tâm
15


khi dạy luyện nói cho học sinh, tơi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói
thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên,
chân thành.
Sau khi rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi
ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Khi học sinh đã quen và đây cũng là lúc mà các em
trải qua các bài học âm vần, tập đọc bắt đầu có các chủ đề luyện nói tương ứng với
mỗi chủ điểm học tập. Giáo viên bắt đầu tiếp tục rèn cho học sinh cách trình bày
các chủ đề luyện nói thành câu, thành đoạn, đúng chủ đề luyện nói. Ở dạng hoạt
động này thường nêu ra vấn đề giao tiếp liên quan đến nội dung kiến thức đang học
hay một nội dung có ý nghĩa xã hội.

- Trước hết tôi xác định rõ yêu cầu cần đạt của bài học sau khi học sinh học
xong chủ đề.
- Tiếp theo tơi dặn dị học sinh chuẩn bị đồ dùng học tập chu đáo cho bài học
luyện nói, luyện giao tiếp. Chính đồ vật các em chuẩn bị có khi là sở thích của các
em, các em hiểu rõ về chúng hơn. Bởi vậy sẽ tạo cho trẻ niềm vui, hứng thú khi
các em được nói, chia sẻ về chúng với bạn bè của mình. Điều đó cũng góp phần
giúp nội dung luyện nói, luyện giao tiếp của học sinh đạt hiệu quả...
Ví dụ: Chủ đề gia đình tơi dặn học sinh về nhà chuẩn bị cho tiết Góc sáng
tạo, đọc bài Bưu thiếp “Lời yêu thương” (sách giáo khoa, tr.87, 88), trưng bày bưu
thiếp; nghĩ về người thân trong gia đình em sẽ tặng bưu thiếp; chuẩn bị giấy màu,
bút chì màu, bút dạ, hồ dán, kéo, tranh ảnh người thân,… để làm bưu thiếp. Sau khi
thực hành làm bưu thiếp để phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh tôi đã mời
một số em giới thiệu bưu thiếp của mình: hình dáng, trang trí, đọc lời trên bưu
thiếp. Cho cả lớp nhận xét.
- Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp cho mỗi chủ đề. Tơi tổ chức
cho các em nói theo từng cặp, trong đó có em nói, diễn đạt tốt, có em diễn đạt chưa
được. Trong giờ học tổ chức cho từng cặp lần lượt hỏi và trả lời, đưa ra nhận xét và
sửa sai cho nhau. Các em có thể nói theo tranh (hay vật thật). Ngồi phân mơn học
vần các em cần luyện nói ở các phân mơn khác. Dùng biện pháp này cùng lúc
luyện nói được nhiều em, trong giờ học các em sẽ tự kiểm tra, trao đổi. Từ đó giúp
các em nhút nhát sẽ có điều kiện nói và mạnh dạn hơn trước lớp. Với cách học này
tơi phát hiện được những em khá giỏi. Từ đó tôi quan sát và quản lý tốt các em kịp
thời giúp đỡ các em còn rụt rè, chưa tự tin qua từng tiết học để ngày càng tự tin
hơn.
Đối với dạng bài tập đọc ở phần luyện tập tổng hợp, tơi vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm hoặc nhóm tranh luận để tạo khơng khí sơi nổi, gây hứng thú
giao tiếp với học sinh và mang tính ứng dụng cao. Mục tiêu của tranh luận không
phải nhằm “đánh bại” những ý kiến khác với mình mà nhằm phát triển kĩ năng
tranh luận, đồng thời giúp các em cùng xem xét một vấn đề với cái nhìn tồn diện,
sâu sắc hơn.

16


Cách tổ chức nhóm tranh luận như sau:
+ Trước hết, các thành viên trịn lớp được chia thành các nhóm theo những
quan điểm đối lập nhau về một vấn đề được bàn thảo. Việc chia nhóm có thể theo
nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc theo nguyện vọng của các thành viên muốn đứng
trong nhóm ủng hộ hay phản đối.
+ Từng nhóm trao đổi, lập luận để bảo vệ quan điểm của nhóm mình.
+ Mỗi nhóm lần lượt cử đại diện trình bày lập luận của mình và phản bác
quan điểm của nhóm khác.
+ Sau cùng cả lớp thảo luận chung, đi đến đánh giá và kết luận.
Ví dụ: “Bài Kiến em đi học” chủ đề luyện giao tiếp mà tôi xây dựng cho học
sinh là “Giúp Kiến em hết buồn”. Có các câu hỏi sau bài học:
1. Vì sao từ trường trở về, kiến em rất buồn?
2. Nếu em là kiến anh, em sẽ làm gì? Chọn ý trả lời em thích:
a. Nói vơi mẹ xin chuyển kiến em sang lớp của thầy kiến.
b. Khuyên em đừng buồn vì thầy là voi thì khơng đọc được chữ của kiến.
c. Ý kiến khác.
Tơi tiến hành tổ chức nhóm tranh luận ở câu hỏi 2 như sau:
+ Học sinh đọc và giải thích yêu cầu của bài tập: Mỗi người có thể đưa ra
cách giải quyết của mình. Cần trao đổi, tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình, đồng
thời thuyết phục nhau, làm sáng tỏ vấn đề.
+ Hình thành các nhóm theo 3 gợi ý của sách giáo khoa: nhóm đề nghị
chuyển kiến em đến một lớp phù hợp hơn, nhóm an ủi kiến em, nhóm có ý kiến
khác. Có thể áp dụng cách tập hợp nhóm như sau: một học sinh: một học sinh giơ
tấm biển ghi ý kiến (Ví dụ: Chuyển lớp, An ủi hay Ý kiến khác), học sinh tán thành
ý kiến nào thì ngồi vào nhóm ấy.
+ Các nhóm trao đổi, lập luận để bảo vệ ý kiến của nhóm mình, phản bác lại
ý kiến của nhóm bạn. Giáo viên tôn trọng quan điểm riêng của học sinh, hướng dẫn

và giúp đỡ từng nhóm.
+ Các nhóm cử đại diện tham gia tranh luận. Trước hết đại diện mỗi nhóm
trình bày ý kiến của nhóm mình. Đại diện của nhóm có ý kiến khác biệt tranh luận.
+ Sau mỗi cuộc tranh luận, cả lớp cùng giáo viên nhận xét, đánh giá. Giáo
viên quan tâm phát hiện, biểu dương những ý kiến hay của học sinh để khuyến
khích các em phát huy sự tự tin và năng lực lập luận.

17


Hình ảnh thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi bài tập đọc “Chuột con đáng u”

Hình ảnh các nhóm tranh luận trả lời câu hỏi bài tập đọc “Chuột con đáng
yêu”
- Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp để học sinh chuẩn bị tốt bài luyện nói
về chủ đề được học. Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý sách giáo
khoa qua hình vẽ hay gợi ý ở sách giáo viên rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình
ảnh khơng diễn tả hết nội dung chủ đề, bởi vậy nếu người giáo viên chỉ làm theo
sách giáo khoa, sách giáo viên khơng mở rộng thêm thì học sinh khó có thể nói
được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở sách giáo
khoa để giúp các em tập trung những hiểu biết vốn có trong cuộc sống đề nói về
chủ đề thơng qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên. Vì vậy giáo viên phải đầu
tư trong bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý
đối với các đối tượng học sinh yếu... thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức
thực tế của trẻ trong tiết học.
Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề trên, trước hết tôi
hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu hỏi gợi ý giáo viên đưa ra. Ví dụ
khi học sinh trình bày về chủ đề gia đình tơi hướng dẫn học sinh luyện nói theo hệ
thống câu hỏi sau: Tranh vẽ gì? Bố (mẹ) làm nghề gì? Bố (mẹ) làm gì cho em,...
18



Kết hợp với các câu hỏi làm điểm tựa để các em trả lời, khi hướng dẫn học
sinh luyện nói tơi thường xun chú ý cách trình bày, sửa cho các em câu, từ, cách
dùng từ ngữ để diễn đạt. Khuyến khích động viên để tất cả học sinh đều làm việc,
mạnh dạn thể hiện mình. Tơi bám sát sửa sai cho học sinh. Có như vậy mới hình
thành cho học sinh nền nếp, thói quen trình bày một vấn đề nào đó phải có sự lơ
gíc. Đây cũng là tiền đề để học sinh có khả năng viết văn ở các lớp học tiếp theo.
- Khi dạy những chủ đề về “thiên nhiên”… để không dễ lẫn sang dạy tự
nhiên xã hội. Trong q trình dạy, tơi cố gắng giúp học sinh hiểu rõ nội dung chủ
đề luyện nói bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề, khơng sa vào tìm
hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,…
Cho học sinh xem 1 số tranh ảnh (rừng, suối, đèo, thung lũng;…) liên quan
đến các hiện tượng đó, học sinh sẽ nêu được tên của các sự vật trên, giúp học sinh
có thể cảm nhận, hiểu được nội dung chủ đề luyện nói. Sau đó, giáo viên chỉ cần
nêu câu hỏi gợi ý để các em cùng thảo luận với nhau về các hiện tượng thiên nhiên
và tác hại của chúng.
Khi dạy về động vật: Giáo viên có thể cho các em sắm vai tên của các con
vật trong chủ đề cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của em về chúng (Em thích,
khơng thích con vật nào đó? Nói lên cảm nhận của mình: tại sao em lại thích,
khơng thích con vật đó?).
Chẳng hạn như: với các chủ đề nói về: cây cối, hoa trái… (giáo viên có thể
đưa những vật thật hoặc tranh ảnh để học quan sát lấy điểm tựa để luyện nói…).
Ở những bài chỉ có 1- 2 câu gợi ý sách giáo viên, giáo viên có thể ứng dụng
công nghệ thông tin trong một phần nội dung của tiết học (ở phần luyện nói theo
chủ đề) để giúp học sinh có cơ hội được xem, được thấy những gì có liên quan đến
chủ đề mình đang học qua đó có thể hiểu và nói tốt hơn.
Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý sách giáo khoa qua hình
vẽ hay gợi ý ở sách giáo viên rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh khơng
diễn tả hết nội dung chủ đề, bởi vậy nếu người giáo viên chỉ làm theo sách giáo

khoa, sách giáo viên không mở rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo
viên chuẩn bị và đưa ra hệ thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở sách giáo khoa để
giúp các em tập trung những hiểu biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề
thơng qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên. Vì vậy giáo viên phải đầu tư trong
bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các
đối tượng học sinh yếu... thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của
trẻ trong tiết học.
Bên cạnh đó, tơi tìm hiểu và nắm bắt được nội dung từng chủ đề. Tôi chuẩn
bị dự kiến nhiều tình huống có thể xảy ra và hướng giải quyết các tình huống đó.
Mỗi tình huống đặt ra tơi giải thích thật cặn kẽ để học sinh hiểu và tự tin hơn khi
nhận xét và đánh giá.
19


Biện pháp này nhằm phát huy tính tích cực, tự tin của các em trong khi
diễn đạt lời nói hay nhận xét đánh giá của mình. Do vậy trong tiết học tôi tăng
cường sự giao tiếp đối thoại giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học
sinh để các em ngày càng mạnh dạn và tự tin hơn. Dùng biện pháp này thì tất cả
các em học sinh trong lớp đều được luyện nói so với những tiết chỉ tập trung
nhiều vào những em học sinh khá giỏi thì học sinh yếu ít có cơ hội để trình bày ý
kiến của mình trước lớp.
Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới thiệu
khác nhau tạo cho giờ học sinh động, gây hứng thú cho học sinh. Trong khi dạy
luyện nói cho học sinh lớp 1, giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức,
phương pháp, đồ dùng dạy học hỗ trợ, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh chóng và
hiệu quả hơn. Các em sẽ thấy hứng thú hơn khi thực hành luyện nói. Bởi đây là
giai đoạn tâm lí lứa tuổi của các em thích mới lạ nhưng cũng rất nhanh chán. Nếu
rập khn một cách máy móc một hình thức hướng dẫn học sinh luyện nói dễ làm
cho học sinh nhàm chán, không hứng thú với hoạt động luyện nói.
Biện pháp 3: Lồng ghép luyện giao tiếp thơng qua trị chơi học tập

a. Mục đích
Việc tổ chức trị chơi nhằm tạo hứng thú từ đó thúc đẩy học sinh tích cực
tham gia phát biểu, thơng qua đó rèn sự tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cho hoc
sinh. Việc chơi trò chơi giúp các em được vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh
táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. Thông qua trò chơi, học
sinh cảm thấy vui vẻ, hứng thú hơn trong học tập Tiếng Việt nhằm củng cố kiến
thức, kĩ năng đã học và hình thành kiến thức, kĩ năng mới và từ đó hiệu quả giáo
dục được nâng cao. Trong q trình tham gia chơi trị chơi cá nhân học sinh được
giao lưu với bạn bè, trao đổi bày tỏ ý kiến, đưa ra lựa chọn phù hợp, thơng qua trị
chơi thúc đẩy học sinh tích cực phát biểu, nêu cao tinh thần hợp tác từ đó rèn sự tự
tin, mạnh dạn trong giao tiếp cho học sinh. Thơng qua các trị chơi sẽ giúp học sinh
giao tiếp tốt hơn trong học tập và cả cuộc sống hằng ngày của các em.
b. Cách thực hiện
Trong khi dạy luyện nói tơi xen kẽ trị chơi để kích thích sự hứng thú cho
học sinh học tập cũng chính là đang tổ chức luyện nói cho học sinh theo chủ đề và
tơi áp dụng như sau:
- Nêu tên trị chơi.
- Phổ biến luật chơi và cách chơi để các em nắm rõ trước khi chơi.
- Hướng dẫn học sinh tiến hành chơi.
- Tổng kết trò chơi.
Các trò chơi được thiết kế với giao diện đẹp mắt, dễ chơi như hái táo, vòng
20


quay may mắn, vượt chướng ngại vật, giải cứu rừng xanh, quizz,… để dạy học
phần khởi động trong môn Tiếng Việt lớp 1 với những tiếng từ quen thuộc có nghĩa
dễ nhớ, dễ đọc. Bên cạnh đó trị chơi cũng được tôi sử dụng trong những tiết ôn tập
để giúp các em củng cố lại những âm, vần đã được học. Trong khi dạy phát triển
năng lực giao tiếp, tôi xen kẽ trị chơi để kích thích sự hứng thú cho học sinh học
tập cũng chính là đang tổ chức luyện nói, luyện giao tiếp cho học sinh.

Trong giờ học vần, tơi hay lồng ghép các trị chơi nhỏ để cả lớp cùng
tham gia.
Ví dụ: Trị chơi Đọc nhanh - Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn
nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường
hay chọn các học sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng
đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh - Chỉ đúng
Tơi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh khá, giỏi) đọc cho
hai học sinh yếu chỉ vào âm, vần, tiếng, từ. Trị chơi này học sinh rất thích và lớp
học cũng sôi nổi.
Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến hết sức căng thẳng lớp tơi cũng
như tồn trường phải học trực tuyến. Trong quá trình dạy trực tuyến ở phần khởi
động trong phân môn học vần tôi áp dụng phương pháp trị chơi thì thu hút được
học sinh luyện nói nhiều hơn hứng thú hơn. Bản thân khi tổ chức trị chơi ln
khuyến khích những em nhút nhát tham gia để giúp các em được thể hiện lời nói
của mình trước lớp. Từ đó tăng khả năng mạnh dạn trong giao tiếp cho các em.
Ví dụ: Dạy Bài 53 “m”, tơi đã sử dụng trị chơi này ơ cửa bí mật vào phần
khởi động ơn bài cũ “um-up”.

Hình ảnh minh họa trích từ trị chơi ơ cửa bí mật hỏi bài cũ“um-up”
21


Ví dụ: Dạy Bài 41 “em, ep”, tơi đã sử dụng trò chơi hái táo vào phần khởi
động hỏi bài cũ “âm-âp”.

Hình ảnh minh họa trích từ trị chơi hái táo hỏi bài cũ“âm-âp”
Ví dụ: Dạy Bài 64 “in, it”, tơi đã sử dụng trị chơi lật mảnh ghép các nhân
vật trong truyện tranh Đô-rê-mon vào phần khởi động hỏi bài cũ “ên-êt”, đồng

thời dẫn dắt học sinh tìm hiểu mục bài được đặt ngay dưới các mảnh ghép.

Hình ảnh minh họa trích từ trị chơi Đơ-rê-mon hỏi bài cũ“ên-êt”
Biện pháp 4: Dạy học phát triển giao tiếp phù hợp
với khả năng của học sinh
a. Mục đích
Việc dạy học phát triển năng lực giao tiếp theo nhóm đối tượng sẽ giúp cho
tất cả học sinh đều tích cực nỗ lực rèn luyện khả năng giao tiếp. Từ đó đạt được
chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực giao tiếp của
từng học sinh. Dạy học phù hợp với khả năng học sinh sẽ giúp chúng ta khai thác
tối đa năng lực của học sinh khá giỏi, phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu kém tiến bộ
trong giao tiếp. Dạy học phát triển giao tiếp phù hợp với khả năng học sinh là
phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá nhân) hoặc nhóm
người học. Ở tiểu học, Dạy học giao tiếp phù hợp với khả năng học sinh thường
được thể hiện ở việc lấy chuẩn kĩ năng làm nền cơ bản nhằm đưa học sinh yếu kém
giao tiếp đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển
22


năng lực giao tiếp ở mức cao hơn.
Ngay khi bắt đầu năm học được một tháng tôi tiến hành khảo sát phân loại
đối tượng học sinh trong lớp thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Nhóm các em nói, diễn đạt trơi chảy, đủ ý, thành câu, nói, diễn
đạt trơi chảy, đủ ý, thành câu.
- Nhóm 2: Nhóm các em nói, diễn đạt chưa trơi chảy, chưa
thành câu, thành đoạn.
- Nhóm 3: Nhóm các em chưa biết diễn đạt câu.
Sau khi khảo sát xong, trong các tiết học, đặc biệt là các tiết 2 của tiết học
vần, tập đọc có hoạt động luyện nói. Tơi tiến hành lựa chọn các hình thức, phương
pháp, đồ dùng dạy học cho phù hợp, dạy học theo các biện pháp mình lựa chọn cho

phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Hướng dẫn học sinh dần dần, hình
thành cho học sinh kỹ năng, thói quen giao tiếp tự nhiên, lưu lốt…
* Đối với nhóm thứ nhất: Ngoài việc yêu cầu các em thực hiện nói đủ u
cầu theo chuẩn kiến thức, kỹ năng thì tơi cịn gợi ý để các em có thể phát triển bài
nói rộng ra và biểu lộ được cảm xúc trong cách nói của các em.
* Đối với các em ở nhóm 2: Tơi tập trung rèn để các em nói thành câu, thành
đoạn theo các câu hỏi gợi ý của giáo viên.
* Đối với các em ở nhóm thứ 3: Đây là nhóm các em học sinh yếu nên tôi
dành thời gian để hướng dẫn các em cụ thể hơn và chỉ yêu cầu các em nói được 1-2
câu theo gọi ý của giáo viên.
Căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp để lựa chọn cách hướng dẫn HS có
thể luyện nói một cách có hiệu quả.
- Trong khi hướng dẫn học sinh luyện nói giáo viên cũng cần chú trọng đến
việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp. Tùy từng đối tượng học sinh mà có
cách sử dụng câu hỏi gợi ý.
Đối với học sinh yếu, nói năng cịn rụt rè, khi nói diễn đạt câu không hết ý
hay không diễn đạt được chủ đề luyện nói thì giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi
để gợi ý, hướng dẫn học sinh trả lời theo các gợi ý một cách đầy đủ, có hệ thống
theo chủ đề. Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt
những câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói.
Ví dụ: Khi học những chủ đề quen thuộc như: chủ đề "Thiên nhiên" - bài
"Em yêu thiên nhiên" giáo viên có thể khuyến khích học sinh sưu tầm hình ảnh, vật
thật mang đến lớp để quan sát, thảo luận cùng nhau qua đó có thể cùng nhau luyện
nói. Chính đồ vật các em chuẩn bị có khi là sở thích của các em, các em hiểu rõ về
23


×