Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Bài giảng Liên minh Châu Âu (EU)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.85 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU
Nội dung kiến thức liên quan đến Liên minh EU rất rộng, trong chuyên đề này, với
thời lượng 2 tín chỉ, chúng tơi chủ yếu khái qt về Lịch sử hình thành và phát triển, các
thể chế, các kế hoạch tổng quát và các chính sách của Liên minh châu Âu (EU) với châu
Á. Bên cạnh đó, chuyên đề cũng bước đầu phân tích quan hệ giữa Liên minh châu Âu
(EU) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Qua đó, chuyên đề Một số vấn đề về Liên minh châu Âu (EU) cung cấp cho người
học kiến thức chuyên sâu về:
+ Quá trình thành lập, hoạt động, vai trò của Liên minh châu Âu (EU).
+ Quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á
(ASEAN).
+ Q trình xác lập quan hệ giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam.
Từ đó sẽ giúp cho sinh viên hứng thú hơn với những vấn đề lịch sử thế giới, đặc biệt
qua chuyên đề sẽ hình thành cho sinh viên nhận thức đúng đắn và đánh giá khách quan
những vấn đề liên quan đến Liên minh châu Âu (EU) cũng như vai trò về chính trị và kinh tế
của tổ chức này đối với thế giới.

1


Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ.
Trước 1/11/1993 gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC).
Số nước thành viên: Tới 1/1/1995, EU có 15 nước thành viên gồm: Pháp, Đức,
Italia, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Ailen, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Áo, Thuỵ Điển và Phần Lan. Kể từ tháng 1/5/2004, EU đã chính thức kết nạp thêm
10 thành viên mới là Cộng hoà Czech, Hungaria, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva,
Latvia, Estonia, Malta, Síp.Hiện nay, EU có diện tích: 4.000.000 km2; Dân số: 455 triệu
người; GDP/đầu người: 21.100 USD/năm.
Đến nay, EU có 28 nước thành viên (Hiện tại nước Anh đang chuẩn bị rời khỏi EU,
nếu Anh rời EU, thì Liên minh này chỉ cịn lại 27 nước).
CHƯƠNG 1


Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH CHÂU
ÂU
Mục tiêu chương 1. Nội dung của chương chủ yêu tập trung định hướng để
người học khai thác, nắm rõ được quá trình hình thành và phát triển của Liên minh
châu Âu. Từ đó, người học sẽ nhận thức rõ được vai trị, mục đích của Liên minh
châu Âu đối với châu Âu.
1.1. Hiệp ước Pari và sự thiết lập ECSC:
Từ trước khi Liên minh Châu Âu ra đời, những ý tưởng về một Châu Âu
thống nhất đã dần được hình thành trong lịch sử. Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế
La Mã (Thế kỷ VIII – Sau công nguyên) những mơ tưởng về thống nhất Châu Âu đã
được hình thành. Tuy nhiên trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc
về một vài nhà chính trị, qn sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà tri thức.
Đại bộ phận Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí khơng hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù
Châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất:
- Hồng đế Napoleon của nước Pháp là một minh chứng điển hình cho ý đồ
muốn thực hiện thống nhất Châu Âu bằng vũ lực. Ông đã từng nghĩ đến một Châu Âu
2


thống nhất với “một bộ luật Châu Âu một đồng tiền chung Châu Âu, các đơn vị đo lường,
các qui tắc Châu Âu”. Tuy nhiên Napoleon đã thất bại trong việc thực hiện giấc mơ thống
nhất Châu Âu bằng sử dụng vũ lực.
- Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, năm 1923, Bá Tước người Áo –
Condenhve Kalerg đã đề nghị thành lập một liên minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang
1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh
Châu Âu, ông đề xuất trước Đại Hội đồng Hội Quốc Liên ý tưởng cụ thể về việc thành
lập một liên hiệp Châu Âu mang thể chế liên bang. Nhưng ý kiến này không gây được
tiếng vang và chưa kịp có những bàn bạc cụ thể thì chiến tranh thế giới lần thứ hai ập đến
như là hậu quả của một ý tưởng ngông cuồng muốn thống nhất Châu Âu bằng bạo lực
dưới sự cai quản của một quốc gia - dân tộc tự coi mình là thượng đẳng - Đức quốc xã.

- Những năm 40 của thế kỷ XX, sau khi thế chiến thứ 2 kết thúc, xuất hiện
một phong trào lành mạnh ủng hộ việc tạo dựng một Châu Âu nhất thể hoá. Mặc dù vậy,
chỉ sau khi vấn đề nước Đức được đặt ra sau chiến tranh thế giới thứ hai cùng với nguyện
vọng gìn giữ hồ bình Châu Âu và sự căng thẳng trong quan hệ Pháp - Đức gây trở ngại
cho tiến trình thống nhất Châu Âu thì ý tưởng liên kết hố Châu Âu mới được thúc đẩy
để sau đó được thực hiện trong thực tế:
+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế.
So với năm 1937 sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31%, Italia 64%, Anh 96%. Trong khi
đó nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc, sức mạnh kinh tế của Mỹ còn
lớn hơn sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây Âu gộp lại. Mặt khác, sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ tồn cầu của
Mỹ. Chính bối cảnh ấy, buộc các quốc gia Tây Âu phải tăng cường hợp tác để thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, thoát khỏi sự tháo túng của Mỹ và cũng là làm dịu đi bầu
khơng khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu, đặc biệt là quan hệ giữa Pháp và Đức.

3


+ Sau chiến tranh thế giới thứ 2, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên
ở các nước thuộc địa và để đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu – các quốc gia Tây
Âu không cịn sự lựa chọn nào khác ngồi con đường hồ bình, hợp tác với nhau .
- Ngày 9/5/1950 Ngoại trưởng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng kiến
mới khởi đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu. Ơng đề nghị “Đặt toàn bộ việc sản xuất
than và thép của Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối cao chung trong một tổ
chức mở cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia”.
Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951, tại Paris, 6 quốc gia Tây Âu gồm:
Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Luych Xăm Bua đã ký Hiệp ước thành lập cộng đồng than
thép Châu Âu (có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương mới trong lịch sử quan
hệ giữa các nước Tây Âu. Sự ra đời của “Cộng đồng than và thép Châu Âu” (ECSC)

ngày 18 tháng 4 năm 1951 với sáu nước thành viên nêu trên là cột mốc đầu tiên đánh dấu
Châu Âu bắt đầu tập hợp lại một cách lành mạnh về tổ chức. Là tiền đề quan trọng cho
việc thành lập Liên minh Châu Âu sau này.
Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris năm 1952.
Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than, sắt, thép cho sáu nước
đã hình thành. Ngành luyện kim đạt một bước phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển
cả nền kinh tế sáu nước. Thành tích kinh tế của ECSC là to lớn, song còn một kết quả
quan trọng khác mà cộng đồng than thép Châu Âu mang lại đó là tác động tâm lý đối tới
người Tây Âu. Lần đầu tiên họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể thống nhất
được Châu Âu và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia.
1.2.

Hiệp ước Roma và sự thiết lập EURATOM, EEC:

Sự thành lập ECSC là khởi đầu cho việc tiến tới một Châu Âu thống nhất. Tuy
nhiên tiến trình liên kết Châu Âu chỉ thực sự bắt đầu khi đại diện sáu nước thành viên
ECSC ký các Hiệp ước Roma.
Hiệp ước Roma gồm có 2 Hiệp ước được 6 nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và
Luxembourg ký kết ngày 25/3/1957 tại Roma, Ý: Hiệp ước thứ nhất thiết lập Cộng đồng
4


Kinh tế châu Âu (EEC) và Hiệp ước thứ hai thiết lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử
châu Âu (EAEC hoặc Euratom).
Đây là các tổ chức quốc tế đầu tiên dựa trên chủ nghĩa siêu quốc gia, sau Cộng đồng
Than Thép châu Âu (ECSC) được thành lập trước đó ít năm.
Các hiệp ước này có hiệu lực từ ngày 1/1/1958. Hiệp ước Cộng đồng Kinh tế châu
Âu đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần; Từ "Hiệp ước thành lập Cộng đồng Kinh tế châu
Âu", hiệp ước này được đặt tên lại là Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên,
hiệp ước Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu chỉ được sửa đổi rất ít, do e ngại các

cử tri của các nước thành viên sẽ phản đối năng lượng nguyên tử.
“Cộng đồng kinh tế Châu Âu” (EEC) và “Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu
Âu” (EURATOM) với tư tưởng trung tâm là hình thành một thị trường rộng lớn ở Châu
Âu coi như một công cụ phối hợp và hồ nhập các chính sách kinh tế của các nước thành
viên.
Theo Hiệp ước Roma, mỗi tổ chức trên đều có một chức năng, nhiệm vụ riêng:
- EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc tạo lập một
thị trường chung, trong đó khơng cịn sự ngăn cản vận động của hàng hoá, tư bản, sức lao
động … giữa các nước Tây Âu với nhau:
+ Hiệp ước về việc thành tập Công đồng kinh tế châu Âu quy định hợp tác trong
lĩnh vực kinh tế, khoa học và kỹ thuật, trong đó có việc xây dựng thị trường chung và
định ra các hình thức xích lại gần nhau, thống nhất chính sách kinh tế của các nước thành
viên. Hiệp ước này nhằm giảm dần các rào cản thuế quan giữa các quốc gia thành viên
trong vòng 12 năm (tức đến năm 1969) theo ba giai đoạn, cũng như việc chấp nhận biểu
thuế quan duy nhất và thực hiện chính sách thương mại thống nhất đối với các nước thứ
ba. Những nước tham gia “thị trường chung” cam kết cố gắng dỡ bỏ những rào cản để có
thể luân chuyển sức lao động nguồn vốn và các dịch vụ giữa họ. Các nước thỏa thuận tiến
hành chính sách chung trong lĩnh vực nơng nghiệp và giao thông, đạt sự gắn kết về luật

5


pháp kinh tế và góp phần tiêu chuẩn hóa các thủ tục soạn thảo và thông qua những quyết
định đã đạt được trong các vấn đề thực hiện chính sách kinh tế của mỗi nước thành viên.
+ Lao động và vốn được phép di chuyển tự do trong phạm vi ranh giới của EEC.
- Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu (EURATOM) quan tâm đến việc
nghiên cứu phổ biến kiến thức, bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên các nguyên liệu
hạt nhân thúc đẩy đầu tư, thiết lập các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân chung, lập ra
thị trường nguyên tử chung giữa các nước. Hiệp ước về Euratom ấn định sự hội nhập của
các nước châu Âu trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hịa bình. Các

nước châu Âu coi đây là công cụ quan trọng nhất và triển vọng nhất để giải quyết vấn đề
năng lượng ở Tây Âu. Bằng cách đó, Tây Âu mới có thể giải quyết được sự trầm trọng
của khủng hoảng năng lượng kinh niên mà trước tiên là Pháp và các quốc gia Tây Âu nhỏ
phải chịu đựng.
EEC, ECSC, và Euratom có chung một hội đồng bộ trưởng, một nghị viện đại diện,
và một tòa án công lý. Cộng đồng kinh tế châu Âu và cộng đồng nguyên tử châu Âu có
cơ sở vững chắc từ sự thành công của cộng đồng than thép châu Âu. Chính từ thành cơng
của EEC đã chứng tỏ sức mạnh của hợp tác liên kết kinh tế quốc tế và thúc đẩy mở rộng
hợp tác không chỉ trong hai mặt hàng, trong hoạt động thương mại mà còn hợp tác trong
các chính sách kinh tế, cần có sự hợp tác, thống nhất chính sách kinh tế của tồn khối.
Đây chính là nội dung hoạt động chủ yếu của EEC. Từ các kết quả đạt được của EEC đã
thu hút đơng đảo các nước bên ngồi xin gia nhập. Năm 1961 các nước Anh, Đan Mạch,
ireland lần lượt làm đơn xin gia nhập EEC. Các nước này tham gia vào EEC với các mục
đích khác nhau. Chẳng hạn với Anh, để có thể phát triển nền cơng nghiệp phải tham gia
vào EEC thì mới thâm nhập được vào thị trường giàu có này. Đan Mạch tham gia với
mong muốn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và tạo điều kiện phát triển nền công
nghiệp….
1.3. Sự ra đời của Cộng đồng châu Âu (EC):

6


Sau 10 năm hoạt động, EEC đã đạt được những kết quả đáng kể, đã tạo điều kiện
cho các nước thành viên có thể hợp tác, liên kết ở mức độ cao hơn, đồng thời EEC cũng
bắt đầu tỏ ra tương xứng với thực lực của cộng đồng do vậy đã khiến các quan chức châu
Âu đi đến hợp nhất cộng đồng thành Cộng đồng châu Âu (EC).
Ngày 1/7/1967, EC chính thức ra đời dựa trên sự hợp nhất của cộng đồng than thép
châu Âu, cộng đồng nguyên tử châu Âu và cộng đồng kinh tế châu Âu. Tất cả các thành
viên của cộng đồng EEC đều tham gia vào EC. Mục đích chính để thành lập EC là tạo ra
sự hợp tác, liên kết ở một mức độ cao hơn, mở rộng phạm vi liên kết khơng chỉ bó hẹp

trong liên kết kinh tế. Nội dung hoạt động của EC là hợp tác về chính sách thuế, chính
sách nơng nghiệp như thành lập đồng minh thuế quan 7/1968, xây dựng kế hoạch
Manshall về nơng nghiệp bên cạnh đó là các hoạt động hợp tác kinh tế và tiền tệ, thi hành
nâng đỡ tiền tệ ngắn hạn, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực tài chính...
Nhìn thấy các kết quả đạt được của Cộng đồng châu Âu, nhiều nước làm đơn xin gia
nhập EC. Anh, Đan Mạch và Ireland sau nhiều lần đàm phán thất bại, năm 1973 được kết
nạp và đưa tổng số thành viên từ 6 lên 9 nước.
Năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10. Tiếp đó Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha lần lượt trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu vào năm 1986, đã đưa tổng số
thành viên lên tới 12. Aó, Thụy Điển và Phần Lan là thành viên của Hiệp hội mậu dịch tự
do châu Âu (EFTA). Sau khi ba thành viên khác của EFTA: Anh, Đan Mạch và Ireland đã
gia nhập EC, đồng thời do quan hệ kinh tế giữa EC và EFTA được xúc tiến mạnh mẽ, 3
nước Áo, Thụy Điển và Phần Lan tích cực xin gia nhập và lần lượt trở thành thành viên
thứ 13, 14, 15 của EC vào năm 1989, 1991 và 1992.
1.4.

Hiệp ước Maaxtrich và sự ra đời của liên minh châu Âu (EU)

Hiệp ước Maaxtrich được soạn thảo vào năm1991 bởi các đại biểu tại cuộc họp của
EC ở Maaxtrich, Hà Lan và được ký vào năm 1992. Nội dung Hiệp ước kêu gọi việc
thành lập một nghị viên châu Âu mạnh hơn, một ngân hàng trung ương Châu Âu và

7


những chính sách đối ngọai, an ninh tập thể. Hiệp ước cũng đặt nền móng cho việc thành
lập một đồng tiền chung châu Âu:
- Qua các lần mở rộng, do số thành viên tham gia ngày càng nhiều hơn, Cộng đồng
châu Âu lớn mạnh dần lên về quy mô. Tuy nhiên, càng mở rộng nhiều thành viên hơn,
quá trình tham khảo ý kiến, phối hợp sẽ phức tạp hơn và nhiều vấn đề về lợi ích sẽ khó

dung hồ hơn. Vì vậy cần có một bộ máy quản lý mới để Cộng đồng Châu Âu vận hành
tốt hơn, điều này đã thôi thúc châu Âu đi tới Hội nghị Maastrich tháng 12/1991. Hội nghị
này đã chuẩn y hiệp ước thống nhất châu Âu, mở đầu cho sự thống nhất về kinh tế chính
trị, tiền tệ ở châu Âu. Theo hiệp ước Maastrich ký ngày 7/2/1992 Cộng đồng châu Âu đổi
tên thành liên minh châu Âu (EU) và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/11/1993.
+ EU gồm 15 thành viên, mục đích chính của EU là tạo ra sự hợp tác thống nhất
cao, tạo điều kiện phát triển kinh tế các nước thành viên củng cố sức mạnh toàn khối, tiến
tới thành lập khu vực tiền tệ (tạo sự liên kết thống nhất ở mức độ cao từ kinh tế đến tiền
tệ) để EU có đủ sức mạnh cạnh tranh và hợp tác có hiệu quả với các nước, các khối liên
minh khác.
+ Mục tiêu lâu dài liên minh châu Âu là nhằm thống nhất châu Âu bằng con đường
hoà bình, bằng sức mạnh của hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế.
- Trên thực tế, liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hố và dịch vụ, đã
có sự liên kết hợp tác trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Song để thị trường chung thực sự
trở nên thống nhất thì các rào cản tiền tệ phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều này chỉ có
được khi có duy nhất một đồng tiền chung được lưu hành và được điều hành thống nhất
bằng một chính sách tiền tệ chung. Chính vì vậy mà liên minh tiền tệ châu Âu (EMU)
được ra đời mà nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành đồng tiền chung trong
toàn khối.
+ Hiệp ước hiệp ước Maaxtrich (ký ngày 7/2/1992) đã khẳng định, công việc chuẩn
bị cho sự ra đời đồng tiền chung duy nhất trong khuôn khổ xây dựng liên minh tiền tệ với

8


3 giai đoạn và 5 tiêu thức gia nhập làm căn cứ cho tất cả các nước mong muốn và có đủ
điều kiện gia nhập khối đồng tiền chung (khối EURO):
* Giai đoạn 1 từ 1/7/1990 đến 31/12/1993, nhiệm vụ của giai đoạn này là phối hợp
chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế giữa các nước, giúp các nước đạt được các chỉ
tiêu để gia nhập khu vực đồng EURO, cụ thể, hoàn chỉnh thị trường chung châu Âu đặc

biệt là hồn chỉnh q trình lưu thơng và tự do vốn, đặt nền kinh tế quốc gia dưới sự giám
rất nhiều bên, phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước trong phạm vi "uỷ ban thống đốc
của ngân hàng trung ương để ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền".
* Giai đoạn 2: từ 1/1/1994 đến 1/1/1999, nhiệm vụ của giai đoạn này là tiếp tục phối
hợp chính sách kinh tế, tiền tệ nhưng ở mức cao hơn, để chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời
của đồng EURO. Trong giai đoạn, này các tiêu thức gia nhập EMU sẽ được rà soát lại
một cách kỹ lưỡng giữa các nước để đến cuối giai đoạn này có thể quyết định cụ thể nước
nào sẽ gia nhập EMU. Đồng thời thành lập viện tiền tệ châu Âu, với nhiệm vụ thực hiện
một số chính sách tiền tệ chung để ổn định giá cả tạo điều kiện chuẩn bị cho sự ra đời và
vận hành đồng EURO. Đây là bước chuyển tiếp để đưa ngân hàng trung ương châu Âu
ECB và hoạt động ở cuối giai đoạn này.
* Giai đoạn 3: từ 1/1/1999 đến 30/6/2002, với nội dung cho ra đời đồng EURO,
cơng bố tỷ giá chuyển đổi chính thức giữa đồng EURO và các đồng tiền quốc gia. Thứ ba
là ECB chính thức vận hành và chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ của liên
minh.
- Các tiêu thức gia nhập khối EURO.
Theo hiệp ước Maaxtrich, để tham gia EMU, các thành viên phải thoả mãn các tiêu
chuẩn sau:
Một là, Tiêu chuẩn lạm phát: tỷ lện lạm phát khơng vượt q mức 1,5% mức lạm
phát bình qn của 3 nước có chỉ số lạm phát thấp nhất.
Hai là, Tiêu chuẩn về lãi suất dài hạn: Mức lãi suất dài hạn không được vượt quá
2% mức lãi suất dài hạn trung bình của ba nước có mức lãi suất dài hạn thấp nhất.
9


Ba là, Tiêu chuẩn về thâm hụt ngân sách: Mức bội chi ngân sách khơng được vượt
q 3% GDP (có tính đến các trường hợp sau đây: Mức thâm hụt đang ở trong xu hướng
được cải thiện để đạt tới tỷ lệ quy định, mức thâm hụt vượt quá 3% GDP chỉ mang tính
chất tạm thời khơng đáng kể và không phải mức bội chi cơ cấu).
Bốn là, tiêu chuẩn về tỷ giá: Đồng tiền quốc gia phải là thành viên của cơ chế tỷ giá

châu Âu (ERM) hai năm trước khi gia nhập liên minh kinh tế tiền tệ và không được phá
giá tiền tệ so với các đồng tiền khác.
Theo các tiêu thức trên, đến tháng 5/1998 đã có 13 trong 15 thành viên EU đạt tiêu
chuẩn. Hai nước không đạt tiêu chuẩn là Hy Lạp và Anh do có mức lạm phát cao và chu
kỳ kinh tế suy giảm. Hai nước Thụy Điển và Đan Mạch, mặc dù đủ tiêu chuẩn tham gia
song chưa sẵn sàng tham gia khu vực đồng tiền chung này. Tuy nhiên các nước này dự
định sẽ tham gia vào khu vực đồng tiền chung trong những năm tới.
Ngày 2/5/1998, Uỷ ban châu Âu đã quyết định xem xét các quốc gia đủ tiêu chuẩn
và sẵn sàng tham gia vào khu vực EURO lần đầu danh sách được xếp theo quy mô GDP
như sau: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ, áo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, ireland,
Lucxambua. Khu vực đồng EURO cịn có thể mở rộng sang các thành viên Đơng và Bắc
Âu như: Thụy Sĩ và Na Uy.
1.5.

Q trình mở rộng EU và Hiệp ước Lisbon:
1.5.1. Quá trình mở rộng EU:

Từ 6 nước ban đầu, trải qua 6 lần mở rộng liên tiếp, trong đó đợt mở rộng lớn
nhất diễn ra ngày 1/5/2004, khi 10 nước được gia nhập. Hiện nay Liên minh châu
Âu gồm có 21 nước cộng hịa, 6 vương quốc và 1 đại cơng quốc. Croatia là hội
viên mới nhất, gia nhập ngày 1/07/2013. Các cuộc thương thuyết cũng đang diễn ra
với một số nước khác.
Trước khi được phép gia nhập Liên minh châu Âu, một nước phải hồn tất các
điều kiện chính trị và kinh tế. Các yêu cầu cơ bản này mà một nước ứng viên phải
10


có là một chế độ dân chủ thế tục, cùng với các quyền tự do và thể chế tương ứng,
cũng như tôn trọng luật pháp. Trong điều kiện của Hiệp ước Maastricht, việc mở
rộng Liên minh phụ thuộc vào sự đồng ý của mỗi quốc gia hội viên cũng như

được Nghị viện châu Âu chấp thuận.
Liên minh được thành lập bởi "6 nước bên trong", các nước này sẵn lòng dẫn
đầu Cộng đồng trong khi các nước khác vẫn hoài nghi. Chỉ một thập kỷ trước khi
các nước đầu tiên thay đổi chính sách và tìm cách gia nhập Liên minh, thì điều đó
dẫn tới chủ trương hồi nghi đầu tiên về việc mở rộng Liên minh. Tổng
thống Pháp lúc đã phủ quyết việc gia nhập của Anh. Chỉ sau khi tổng thống Pháp
Charles de Gaulle rời bỏ chức vụ và sau một cuộc nói chuyện 12-giờ giữa thủ
tướng Anh Edward Heath và tổng thống Pháp kế nhiệm sau đó thì đơn xin gia nhập
lần thứ ba của Anh mới được chấp nhận.
Cùng xin gia nhập với Anh là Ireland, Đan Mạch và Na Uy. Tuy nhiên, trong
cuộc bỏ phiếu đầu tiên, các cử tri Na Uy đã bác bỏ việc gia nhập chỉ còn lại Đan
Mạch và Ireland gia nhập cùng với Vương quốc Anh.
Năm 1987, dự án mở rộng địa lý đã được thử nghiệm khi Maroc xin gia nhập,
và bị bác bỏ vì khơng được coi là một nước châu Âu.
Năm 1990 cuộc Chiến tranh lạnh đi tới kết thúc và Đông Đức được hoan
nghênh trong Cộng đồng như một phần của nước Đức thống nhất. Ngay sau đó các
nước trước kia trung lập là Áo, Phần Lan và Thụy Điển đã gia nhập Liên minh
châu Âu mới, tuy nhiên Thụy Sĩ, xin gia nhập năm 2002, đã ngưng xin gia nhập do
các cử tri bỏ phiếu phản đối trong khi Na Uy, xin gia nhập một lần nữa, nhưng
cũng lại bị các cử tri bỏ phiếu bác bỏ. Trong khi đó, các nước thành viên của khối
Đông Âu cũ và Nam Tư đều bắt đầu tiến hành việc xin gia nhập Liên minh châu
Âu.

11


Mười nước trong số đó đã được gia nhập trong đợt mở rộng ngày 1/5/2004,
tượng trưng cho sự thống nhất giữa Đông và Tây Âu trong Liên minh châu Âu.
Năm 2007, có các nước hội viên mới gia nhập là Bulgaria và Roamania. Liên
minh đã dành ưu tiên cho các nước phía tây vùng Balkan. Croatia, Macedonia và

Thổ Nhĩ Kỳ đều là các ứng viên chính thức được cơng nhận Thổ Nhĩ Kỳ, xin gia
nhập từ thập niên 1980, là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, nhưng đã đi vào thương
thuyết năm 2004. Hiện nay chưa có kế hoạch ngưng việc mở rộng; theo các tiêu
chuẩn của Liên minh châu Âu, chức hội viên Liên minh châu Âu mở ngỏ cho bất
cứ quốc gia châu Âu nào ổn định, có thị trường tự do, có nền dân chủ tự do, tôn
trọng luật pháp và nhân quyền. Hơn nữa, phải sẵn lòng chấp nhận mọi nghĩa vụ
của một hội viên, như chấp nhận thi hành mọi luật lệ sẵn có và sẵn sàng gia nhập
đồng euro.
Từ ngày 1/7/2013 đến tháng 12/2019, danh sách các nước thành viên EU gồm
có 28 nước như sau:
T

Tên

T

thơng

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11


thường
Áo
Bỉ
Bulgaria
Croatia
Síp
Cộng hịa Séc
Đan Mạch
Estonia
Phần Lan
Pháp
Đức

12

nước Tên chính thức

Năm gia
nhập

Cộng hòa Áo
Vương quốc Bỉ
Cộng hòa Bulgaria
Cộng hòa Croatia
Cộng Hòa Síp
Cộng hịa Séc
Cộng hịa Đang Mạch
Cộng hịa Estonia
Cộng hịa Phần Lan
Cộng hòa Pháp

Cộng hòa Liên bang Đức

1-1-1995
25-3-1957
1-1-2007
1-7-2013
1-5-2004
1-5-2004
1-1-1973
1-5-2004
1-1-1995
25-3-1957
25-3-1957


12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

27
28

Hy Lạp
Hungari
Irelanh
Ý
Latvia
Litva
Luxmbourg
Malta
Hà Lan
Ba Lan
Bồ Đào Nha
România
Slovakia
Slovenia
Tây Ban Nha
Thụy Điển
Anh Quốc

Cộng hòa Hy Lạp
Cộng hòa Hungari
Cộng hòa Irelanh
Cộng hòa Ý
Cộng hòa Latvia
Cộng hịa Litva
Đại cơng quốc Luxembourg
Cộng hịa Malta
Vương quốc Hà Lan

Cộng hòa Ba Lan
Cộng hòa Bồ Đào Nha
Cộng hòa România
Cộng hòa Slovakia
Cộng hòa Slovenia
Vương quốc Tây Ban Nha
Vương quốc Thụy Điển
Vương quốc Liên hiệp Anh bắc Irelanh (chuẩn

1-1-1981
1-5-2004
1-1-1973
25-3-1957
1-5-2004
1-5-2004
25-3-1957
1-5-2004
25-3-1957
1-5-2004
1-1-1986
1-1-2007
1-5-2004
1-5-2004
1-1-1986
1-1-1995
1-1-1973

bị rời khỏi EU sau cuộc trưng cầu dân ý năm
24-6-2016)
1.5.2. Hiệp ước Lisbon:

Mặc dù không phải là văn bản đánh dấu thành lập Liên minh châu Âu (EU),
nhưng Hiệp ước Lisbon (Lisbon Treaty) là văn bản có đóng góp quan trọng trong
quá trình nhất thể hóa châu Âu.
* Hồn cảnh ra đời hiệp ước Lisbon
Song song với quá trình hoạt động và mở rộng của EU, quy chế hoạt động
được quy định trong Hiệp ước Maastricht đã ngày càng lỗi thời, nhất là trong trụ
cột ngoại giao và an ninh chung cùng đối nội và tư pháp.

13


Để đẩy nhanh q trình nhất thể hóa châu Âu, EU đã bổ sung Hiệp ước
Maastrich bằng nhiều hiệp ước khác như Hiệp ước Amsterdam (1999), Hiệp ước
Nice (2003) và đặc biệt là Hiệp ước về thành lập một hiến pháp cho châu Âu
(Treaty establishing a Constitution for Europe, 2004).
Tuy nhiên, Hiệp ước về thành lập một hiến pháp cho châu Âu đã không
được người dân Pháp và Hà Lan chấp nhận. Trong trưng cầu ý dân năm 2005,
54,8% người dân Pháp và 61,6% người dân Hà Lan đã bỏ phiếu phản đối. Vì vậy,
đến năm 2005, quá trình nhất thể hóa châu Âu vẫn gặp nhiều khó khăn.
Để thay thế cho Hiệp ước về thành lập một hiến pháp cho châu Âu bị thất
bại, các lãnh đạo EU đã rất cố gắng để đạt được một văn bản pháp lý cho toàn EU.
Tại Hội nghị thượng đỉnh Lisbon năm 2007, chiến lược đạt được tại Hội
nghị Lisbon năm 2005 đã được bổ sung và lấy tên là Hiệp ước Lisbon (Lisbon
Treaty). Đến tháng 10/2007, các lãnh đạo EU về cơ bản đã thống nhất về hiệp ước
này.
Tháng 12/2007, lãnh đạo 27 nước thành viên đã ký vào Hiệp ước Lisbon.
Hiệp ước sau đó phải điều chỉnh lại một số nội dung, vượt qua cuộc trưng cầu ý
dân tại Ireland năm 2008 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/12/2009.Tháng
12./2007, lãnh đạo 27 nước thành viên đã ký vào Hiệp ước Lisbon.
Hiệp ước Lisbon đã bổ sung những thiếu sót của các hiệp ước trước và hiện

đại hóa các cơ cấu của EU cho phù hợp với quy mô hoạt động của tổ chức đã có 27
nước thành viên này (Croatia đến năm 2014 mới gia nhập EU). Vì vậy, Hiệp ước
Lisbon được đánh giá là "một hiệp ước cải cách".
* Nội dung Hiệp ước Lisbon

14


Về cấu trúc, Hiệp ước Lisbon được chia làm hai phần. Phần một là Hiệp ước
về Liên minh châu Âu (Treaty on European Union) và phần hai là Hiệp ước về
chức năng của Liên minh châu Âu (Treaty on the Functioning of the European
Union).
Phần một đề cập đến những quy định chung về EU, trong đó có những quy
định về quan hệ đối ngoại. Một số điều quan trọng trong phần này gồm có điều 18
(Những đại diện cấp cao về ngoại giao và chính sách an ninh của EU), điều 21
(Những hoạt động đối ngoại, bao gồm cả hợp tác kinh tế) và điều 50 (Rời khỏi
EU).
Phần hai của Hiệp ước Lisbon đưa ra những mục tiêu cụ thể cho từng chính
sách trên các lĩnh vực. Các quy định cụ thể làm cơ sở cho hoạt động đối ngoại của
EU cũng được đưa ra trong tiểu phần 5 của phần này.
Về nội dung: Hiệp ước Lisbon đã đưa ra những thay đổi quan trọng, bao
gồm:
+ Cải tổ cơ chế vận hành theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu quả hơn,
xóa bỏ các cơ cấu riêng của 3 trụ cột, phân định rõ ràng và cụ thể thẩm quyền của
EU trên các lĩnh vực chính sách.
+ Lập ra chức chủ tịch Hội đồng châu Âu (European Council) và đại diện
cao cấp của EU về ngoại giao và an ninh (là phó chủ tịch Hội đồng châu Âu).
+ Áp dụng chế độ bầu cử mới. Kể từ năm 2009, Nghị viện châu Âu chỉ còn
751 nghị sĩ, mọi nghị quyết của EU phải có 55% nước thành viên với tổng số 65%
dân số ủng hộ mới được thông qua.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ƠN TẬP
1. Trình bày q trình ra đời của Liên minh châu Âu?
15


2. Làm rõ quá trình mở rộng của Liên minh châu Âu và nội dung của Hiệp
ước Lisbon
3. Nội dung của Hiệp ước Maaxtrich. Hiệp ước này được ký nhằm mục đích
gì?
4. Tại sao Hiệp ước Lisbon được xem là hiệp ước quan trognj đánh dấu quá
trình tiến tới nhất thể hóa Châu Âu.
CHƯƠNG 2
CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ TIỀM NĂNG KINH TẾ, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
Mục tiêu chương 2. Chương này nhằm làm rõ các vấn đề sau:
- Về cơ cấu tổ chức của Liên minh EU
- Phân tích đề người học nhận thức rõ về một số tiềm năng lớn của EU về kinh tế,
khoa và cơng nghệ.
- Qua đó, người học nhận thức được vai trò về kinh tế, khoa học và coogn nghệ
của EU đối với Châu Âu và thế giới
2.1. Cơ cấu tổ chức
Liên minh châu Âu có 7 thể chế chính trị chính đó là: Nghị viện Châu Âu,
Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu, Ngân hàng Trung ương
Châu Âu, Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu và Tịa án kiểm tốn châu Âu:
Về thẩm quyền xem xét và sửa đổi hệ thống luật pháp của Liên minh châu
Âu: quyền lập pháp thuộc về Nghị viện châu Âu và Hội đồng Bộ trưởng; Quyền
hành pháp được giao cho Ủy ban châu Âu và một bộ phẩn nhỏ thuộc về Hội đồng
châu Âu.

16



Chính sách tiền tệ của khu vực đồng tiền chung châu Âu được quyết định
bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Việc giải thích và áp dụng luật của Liên minh
châu Âu và các điều ước quốc tế có liên quan - quyền tư pháp - được thực thi bởi
Tòa án Cơng lý Liên minh châu Âu.
Ngồi ra cịn có một số cơ quan nhỏ khác phụ trách tư vấn cho Liên minh
châu Âu hoặc hoạt động riêng biệt trong các lĩnh vực đặc thù.
2.1.1. Hội đồng châu Âu
Hội đồng châu Âu phụ trách điều hành Liên minh châu Âu và có nhiệm vụ
nhóm họp ít nhất 4 lần trong năm. Hội đồng châu Âu bao gồm Chủ tịch Hội đồng
châu Âu, Chủ tịch của Ủy ban châu Âu và một đại diện của mỗi quốc gia thành
viên Liên minh châu Âu, có thể là người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ của
quốc gia thành viên đó. Hội đồng châu Âu được xem là cơ quan lãnh đạo tối cao
của Liên minh châu Âu. Hội đồng châu Âu chủ động xem xét những thay đổi trong
các hiệp ước điều chỉnh hoạt động Liên minh châu Âu cũng như xác định chương
trình nghị sự và chiến lược cho Liên minh châu Âu.
Hội đồng châu Âu sử dụng vai trò lãnh đạo của mình để dàn xếp các tranh
chấp giữa các quốc gia thành viên và các thể chế chính trị của Liên minh châu Âu
cũng như giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị và bất đồng trong những vấn
đề và chính sách gây nhiều tranh cãi. Về đối ngoại, hoạt động của Hội đồng châu
Âu có thể ví với một nguyên thủ của tập thể các nguyên thủ quốc gia để kí kết, phê
chuẩn các thỏa thuận và điều ước quốc tế quan trọng giữa Liên minh châu Âu và
các quốc gia khác trên thế giới.
Chủ trì Hội đồng châu Âu là Chủ tịch:
+ Chủ tịch Hội đồng châu Âu chịu trách nhiệm đại diện đối ngoại cho Liên
minh châu Âu, giải quyết mâu thuẫn nảy sinh giữa các quốc gia thành viên để
17



hướng tới sự đồng thuận trong các hội nghị của Hội đồng châu Âu cũng như trong
các giai đoạn chuyển tiếp giữa các hội nghị đó.
+ Ngài Herman Van Rompuy đã được chỉ định làm chủ tịch thường trực của
Hội đồng châu Âu. Van Rompuy nhậm chức khi Hiệp ước Lisbon có hiệu lực vào
ngày 1 tháng 12 năm 2009 với thời hạn kéo dài đến ngày 31 tháng 5 năm 2012.
Nhiệm kỳ của ơng sau đó được kéo dài với giai đoạn thứ hai kết thúc vào ngày 30
tháng 11 năm 2014.
+ Ngài chủ tịch thứ hai là cựu thủ tướng Ba Lan Donald Tusk. Ban đầu, ông
được bầu để phục vụ một nhiệm kỳ từ ngày 1 tháng 12 năm 2014 đến ngày 31
tháng 5 năm 2017 và sau đó được chọn lại vào ngày 9 tháng 3 năm 2017 đến
nhiệm kỳ thứ hai bắt đầu từ ngày 1 tháng 6 năm 2017 đến ngày 30 tháng 11 năm
2019.
+ Từ ngày 1-12-2019, ngài Charles Michel là chủ tịch Hội đồng châu Âu.
Ông sinh ngày 21 tháng 12 năm 1975, là một chính khách, người đang là thủ tướng
vương quốc Bỉ.
2.1.2. Hội đồng Bộ trưởng
Hội đồng Liên minh châu Âu thường được gọi là Hội đồng Bộ trưởng (tiếng
Anh, "Council of Ministers") là một trong hai bộ phận lập pháp của Liên minh
châu Âu (bộ phận còn lại là sự kết hợp của Ủy ban châu Âu và Nghị viện châu Âu)
chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU, bao gồm các Bộ trưởng
đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm Chủ tịch với nhiệm kỳ 6
tháng. Giúp việc cho Hội đồng có Uỷ ban Thường vụ và Ban Thư ký. Tuy nhiên,
dù cơ cấu tổ chức phức tạp nhưng Hội đồng Bộ trưởng vẫn được xem là một trong
các thể chế chính trị chính thức của Liên minh châu Âu.

18


Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước, hoặc đứng đầu chính phủ, các
ngoại trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu có các cuộc họp thường

kỳ để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội đồng châu
Âu hay Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Âu.
2.1.3. Nghị viện Châu Âu
Nghị viện châu Âu là một nghị viện với các nghị sĩ được bầu cử trực tiếp
của Liên minh châu Âu. Cùng với Hội đồng Liên minh châu Âu, nó tạo thành
lưỡng viện cơ quan lập pháp của các thể chế của Liên minh và được mô tả là một
trong những cơ quan lập pháp quyền lực nhất thế giới
Nghị viện Châu Âu gồm 751 nghị sỹ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu từ tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu
Âu. Trong Nghị viện châu Âu các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau,
khơng theo quốc tịch.
Nhiệm vụ của Nghị viện châu Âu là phối hợp với Hội đồng Châu Âu thông
qua đề xuất lập pháp của Ủy ban châu Âu trong hầu hết các lĩnh vực. Nghị viện
châu Âu cịn có thẩm quyền thơng qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các chính sách của Liên minh châu Âu. Ủy ban châu Âu chịu trách nhiệm trước
Nghị viện châu Âu, đối với mọi hoạt động phải có sự chấp thuận của Nghị viện
châu Âu, báo cáo kết quả công tác trước Nghị viện châu Âu để đánh giá, phê bình
và rút kinh nghiệm. Chủ tịch Nghị viện châu Âu, được bầu bởi các nghị sĩ với
nhiệm kì 2 năm rưỡi, đồng thời phải phụ trách vai trị người phát ngơn trong và
ngồi nghị viện. Chủ tịch Nghị viện Châu Âu chủ trì các cuộc tranh luận và hoạt
động của Nghị viện Châu Âu. Họ cũng đại diện cho Nghị viện trong EU và quốc
tế. Chữ ký của chủ tịch nghị viện là cần thiết để ban hành hầu hết các luật của EU
và ngân sách EU. Các tổng thống phục vụ nhiệm kỳ 2,5 năm, thường được phân
chia giữa hai đảng chính trị lớn. Cho đến năm 2018, đã có ba mươi tổng thống kể
19


từ khi Nghị viện được thành lập năm 1952, 15 trong số đó đã phục vụ kể từ cuộc
bầu cử Quốc hội đầu tiên năm 1979. Hai tổng thống là phụ nữ và hầu hết đều đến
từ các quốc gia thành viên lớn tuổi. Chủ tịch hiện tại là Antonio Tajani đến từ Ý.

Nghị viện châu Âu có hai địa điểm họp, đó là Immeuble Louise Weiss ở
Strasbourg, Pháp, dành cho các phiên họp toàn thể và là trụ sở chính thức của Nghị
viện và tổ hợp Espace Léopold/Leopoldwijk ở Brussel, Bỉ, là tòa nhà nhỏ hơn,
phục vụ cho các cuộc họp trù bị và bổ sung, khơng tồn thể. Ban thư ký Nghị viện
châu Âu, cơ quan hành chính của Nghị viện, đóng ở Luxembourg
Từ 1979 đến nay, đã có 9 lần bầu cử Nghị viện châu Âu. Cuộc bầu
cử vào Nghị viện châu Âu gần nhất đã được tổ chức từ ngày 23 đến 26 tháng 5
năm 2019. Trước 2019, tổng cộng số nghị sỹ trong nghị viện châu Âu được bầu là
751, đại diện cho hơn 512 triệu người từ 28 các quốc gia thành viên. Vào tháng 2
năm 2018, Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu giảm số lượng thành viên của Nghị
viện từ 751 xuống 705, nếu Anh đã rút khỏi EU vào ngày 29 tháng 3 năm
2019. Tuy nhiên, Anh đã tham gia cùng với các quốc gia thành viên EU khác sau
khi gia hạn theo Điều 50 đến ngày 31 tháng 10 năm 2019.
Ngày 26 tháng 5 năm 2019, Nhà lãnh đạo Đảng nhân dân châu Âu
Manfed đã giành được nhiều ghế nhất trong Nghị viện Châu Âu, biến Weber trở
thành ứng cử viên hàng đầu để trở thành Chủ tịch ủy ban Châu Âu.
2.1.4. Ủy ban châu Âu
Ủy ban châu Âu (tên chính thức Ủy ban các cộng đồng châu Âu) là cơ quan
cao nhất ngành hành pháp của Liên minh châu Âu. Ủy ban này chịu trách nhiệm
về đề nghị lập pháp, thi hành các quyết định, duy trì các hiệp ước Liên minh châu
Âu và điều hành công việc chung hàng ngày của Liên minh.

20


Ủy ban hoạt động theo phương pháp một nội các chính phủ, với 27 ủy viên
châu Âu (từ 2014 là 28 ủy viên). Mỗi nước thành viên trong Liên minh có một ủy
viên, tuy nhiên các ủy viên này buộc phải đại diện cho các quyền lợi của toàn Liên
minh, hơn là quyền lợi của nước mình.
Ủy ban có cơ sở chủ yếu ở Bruxelles, với văn phòng của chủ tịch và phòng

họp của ủy ban ở tầng lầu 13 trong tòa nhà Berlaymont. Ủy ban cũng hoạt động tại
các trụ sở bên ngoài thành phố Bruxelles và ở thành phố Luxembourg Khi Nghị
viện châu Âu họp ở Strasbourg, các ủy viên Ủy ban châu Âu cũng tới đây họp tại
trụ sở của Nghị viện trong tòa nhà gọi là tòa nhà Winston Churchill để dự các cuộc
thảo luận của Nghị viện. Ủy ban chia thành các ban như Nha tổng giám đốc, có thể
giống như các Nha hoặc Bộ. Mỗi Nha phụ trách một lãnh vực chính sách riêng,
chẳng hạn Quan hệ đối ngoại, và do Tổng giám đốc đứng đầu, chịu trách nhiệm
trước ủy viên Ủy ban châu Âu. Một Bộ của một ủy viên có thể được nhiều Nha
Tổng giám đốc trợ giúp. Các Nha này chuẩn bị các đề nghị cho ủy viên và nếu
được chấp thuận, thì sẽ đệ trình lên Nghị viện và Hội đồng để cứu xét.
Ngày 25-11-2019, các thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã nhất trí thành
lập Ủy ban châu Âu gồm 27 thành viên mà khơng có đại diện từ Anh.
2.1.5. Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu
Có thẩm quyền tư pháp đối với các vấn đề liên quan đến luật pháp của Liên
minh châu Âu. Tòa án Công lý Liên minh châu Âu đặt trụ sở tại Luxembourg, gồm
3 cấp theo thứ tự giảm dần đó là “Tịa án cơng lí châu Âu” ", “Tịa án sơ thẩm châu
Âu” " và “Tòa án dịch vụ dân sự Liên minh châu Âu”.
Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu được thành lập vào năm 1952 với tên
gọi "Tòa án Công lý Cộng đồng than thép châu Âu" (sau đó đổi tên thành "Tịa án

21


Công lý Cộng đồng châu Âu"). Khi hiệp ước Lisbon có hiệu lực vào năm 2009, thể
chế chính trị này có tên như hiện nay.
Nhiệm vụ của Tịa án Cơng lý Liên minh châu Âu đó là đảm bảo luật pháp
được theo dõi sát sao khi giải thích và áp dụng các hiệp ước đã ký kết giữa các
quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. Tịa có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp
của các văn bản quy phạm pháp luật của các thể chế khác của Liên minh châu Âu
và đảm bảo rằng các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu phải tuân thủ các

nghĩa vụ theo đúng quy định của các hiệp ước có hiệu lực. Khi các tòa án của quốc
gia thành viên yêu cầu, Tịa có trách nhiệm giải thích các vấn đề liên quan đến luật
pháp Liên minh châu Âu. Tịa án Cơng lý châu Âu bao gồm 28 thẩm phán, đại diện
cho 28 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu. Phụ thuộc vào tính chất quan
trọng của từng vụ việc mà hội đồng xét xử sẽ có từ 3, 5 đến 13 thẩm phán.
Chủ tịch của Tịa án Cơng lý châu Âu được bầu bởi các thẩm phán với
nhiệm kì 3 năm có thể tái bổ nhiệm. Ngài chủ tịch chịu trách nhiệm điều khiển các
phiên xét xử cũng như các cuộc thảo luận (ví dụ, lên thời gian biểu cho các cơng
việc của Tịa án Cơng lý châu Âu và các hội đồng xét xử lớn). Ngài chủ tịch đồng
thời chỉ định các vụ việc cần xem xét cho các phòng ban đặc trách và thẩm phán
chịu trách nhiệm báo cáo lại vụ việc. Hội đồng liên minh châu Âu có thể chỉ định
một phụ tá báo cáo vụ việc để hỗ trợ ngài chủ tịch trong các vấn đề liên quan đến
các biện pháp tạm thời cũng như hỗ trợ các thẩm phán báo cáo vụ việc hoàn thành
cơng tác.
- Hội đồng xét xử:
+ Tịa án Cơng lý châu Âu có thể tổ chức các phiên họp tồn thể dưới hình
thức một hội đồng xét xử lớn gồm 13 thẩm phán hoặc các hội đồng xét xử nhỏ hơn
gồm 3 hoặc 5 thẩm phán. Các phiên họp toàn thể rất hiếm khi diễn ra và phần lớn
hội đồng xét xử chỉ gồm 3 hoặc 5 thẩm phán. Mỗi hội đồng xét xử sẽ bầu ra chủ
22


tịch hội đồng xét xử có nhiệm kì 3 năm đối với hội đồng xét xử gồm 5 thẩm phán
hoặc 1 năm đối với hội đồng xét xử có 3 thẩm phán.
+ Chỉ trong những vụ việc có tính chất đặc biệt được quy định trong các hiệp
ước, Tòa án Công lý châu Âu mới tổ chức hội đồng xét xử gồm tất cả các thẩm
phán. Tính chất đặc biệt của một vụ việc, ngoài những quy định trong các hiệp
ước, cịn có thể do chính Tịa án Cơng lý châu Âu tự đánh giá và quyết định. Thơng
thường, Tịa chỉ tổ chức các hội đồng xét xử lớn khi một bên trong vụ việc là quốc
gia thành viên hoặc một trong các thể chế chính trị của Liên minh châu Âu u cầu

hoặc Tịa xét thấy đó là những vụ việc phức tạp và quan trọng.
+ Tịa án Cơng lý châu Âu hoạt động trên nguyên tắc thống nhất ý kiến,
nghĩa là phán quyết của tịa khơng bao gồm những ý kiến thiểu số.
- Luật sư quốc gia:
+ Các thẩm phán được hỗ trợ bởi 8 luật sư quốc gia. Các luật sư quốc gia
phụ trách việc trình bày các lập luận pháp lý trong các vụ việc được giao. Các luật
sư quốc gia có thể đặt câu hỏi cho các bên liên quan và đưa ra ý kiến căn cứ theo
một giải pháp pháp lý phù hợp trước khi các thẩm phán thảo luận để đưa ra phán
quyết cuối cùng. Hình thức luật sư quốc gia nhằm mục đích cung cấp cho các bên
có liên quan những ý kiến pháp lý độc lập và vô tư liên quan đến các vụ việc mà
Tịa án Cơng lý châu Âu đang xem xét. Khơng giống như phán quyết của Tịa, ý
kiến pháp lý của các luật sư do được viết bởi một người nên nhìn chung sẽ dễ hiểu
hơn và có cách xử lý đối với các vấn đề pháp lý một cách toàn diện hơn. Ý kiến
của các luật sư quốc gia mang tính chất tư vấn và khơng thể ràng buộc Tòa phải
tuân thủ nhưng những ý kiến này rất có ảnh hưởng đến phán quyết của tịa và phần
lượng được Tòa chia sẻ trong các vụ việc. Từ năm 2003, luật sư quốc gia chỉ còn
được yêu cầu đưa ý kiến tư vấn trong các vụ việc mà Tịa án Cơng lý châu Âu xét
thấy có thể gây ra những tranh cãi trong luật Liên minh châu Âu.
23


+ 5 trong số 8 luật sư quốc gia được đề cử bởi 5 quốc gia thành viên chủ
chốt đó là: Đức, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. 3 vị trí cịn lại ln chuyển theo thứ
tự ABC trong chữ cái đầu tiên của 23 quốc gia thành viên còn lại.
- Ban Thư Ký:
+ Ban thư ký là những người quản lý hoạt động của Tịa án Cơng lý châu
Âu. Nhân viên của ban thư ký điều hành các phòng ban theo chỉ đạo của ngài chủ
tịch Tịa. Ngồi ra, Tịa án Cơng lý châu Âu cịn có thể chỉ định thêm các ban thư
ký phụ trong mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của Tòa bao gồm việc tiếp nhận,
chuyển phát cũng như sắp xếp của văn bản, cáo trạng gửi đến ngài chủ tịch Tòa.

+ Ban thư ký cũng chịu trách nhiệm giữ các con dấu cũng như sao lưu các
văn bản của tịa. Bên cạnh đó, ban thư ký cịn phụ trách vấn đề tài chính và ngân
quỹ của Tòa.
2.1.6. Ngân hàng trung ương châu Âu:
Ngân hàng Trung ương châu Âu là Ngân hàng trung ương đối với
đồng Euro và điều hành chính sách tiền tệ của Khu vực đồng Euro. Tổ chức của
ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) theo mơ hình của ngân hàng trung ương
Đức (Bundesbank) và Landesbank (Đức).
Điều hành ngân hàng là ban giám đốc, đứng đầu là Chủ tịch và hội đồng các
thống đốc bao gồm thành viên của ban giám đốc và đại diện các ngân hàng trung
ương trong thuộc hệ thống các ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB).
Ban điều hành của ECB gồm 6 người hoạch định các chiến lược cho chính
sách của ngân hàng. Họ được chỉ định bằng quyết định đồng thuận của các thành
viên khu vực đồng Euro. Như một mặc định không thành văn, bốn thành viên của
ban điều hành phải là các đại điện của ngân hàng trung ương Pháp, Đức, Ý và Tây
Ban Nha.
24


Năm 1999, Wim Duisenberg – cựu chủ tịch ngân hàng trung ương Hà Lan,
cựu bộ trưởng tài chính Hà Lan được bầu làm chủ tịch đầu tiên của Ngân hàng
trung ương châu Âu. Người thay thế ông vào tháng 11 năm 2003 là Jean-Claude
Trichet – cựu thống đốc ngân hang trung ương Pháp. Hiện nay, làm phó cho JeanClaude Trichet tại ECB là Lucas Papademos – nhà kinh tế học người Hi Lạp. Từ
nửa cuối năm 2019, chủ tịch ngân hàng châu Âu là bà Christine Lagarde.
Hệ thống các ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB) bao gồm ECB và các
ngân hàng trung ương của 28 thành viên Liên minh Châu Âu, nó bao gồm ECB và
các thống đốc của các ngân hàng quốc gia khu vực đồng Euro.
2.1.7. Tòa án kiểm tốn châu Âu:
Mặc dù tên là tịa án, nhưng cơ quan này khơng có quyền tư pháp như Tịa
án Cộng lý châu Âu. Thay vào đó, cơ quan này có quyềm kiểm tra các sổ sách kế

tốn để bảo đảm ngân sách của Liên minh được chi tiêu chính xác. Cơ quan này
lập báo cáo kiểm tốn cho mỗi năm tài chính đệ trình Hội đồng và Nghị viện, và
cho ý kiến cùng đề nghị về pháp luật tài chính, cùng các hành động chống gian lận.
Đây là cơ quan thể chế duy nhất không được đề cập tới trong các hiệp ước nguyên
thủy, và được lập ra từ năm 1975.
Ngồi ra, EU cịn có một số cơ quan khác:
- Ủy ban kinh tế và xã hội châu Âu: đại diện cho các tổ chức kinh tế và xã
hội như giới chủ, giới làm cơng, cơng đồn và tổ chức của người tiêu dùng.
- Ủy ban vùng: đại diện chính quyền vùng và địa phương.
- Thanh tra: thanh tra các khiếu nại về hành chính trong các cơ quan của
Liên minh.
- Kiểm soát bảo vệ dữ liệu châu Âu: bảo mật các thông tin cá nhân.
25


×