Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 187 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THU HƢỜNG

VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII –
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX DƢỚI GÓC ĐỘ GIỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI – 2022


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THU HƢỜNG

VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX DƢỚI GÓC ĐỘ GIỚI

Ngành

: Văn học Việt Nam

Mã số

: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.VŨ THANH

HÀ NỘI – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả trình bày trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa
học. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2022

Tác giả luận án

Vũ Thị Thu Hƣờng


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Vũ Thanh - người thầy
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tơi trong q trình học tập và nghiên cứu để tơi có
thể hồn thành luận án này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Văn học - Học viện
Khoa học xã hội, các thầy cô ở Viện Văn học đã chỉ bảo, góp ý, cung cấp cho tơi
những tài liệu quý giá trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin tỏ lịng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân,

bạn bè đã ln ủng hộ, động viên, giúp đỡ tơi hồn thành nhiệm vụ học tập và
nghiên cứu trong suốt nhiều năm qua.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Vũ Thị Thu Hƣờng

năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............... 6
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .................................................................. 6
1.1.1. Các tư liệu tiếng Việt nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới.................................................................. 6
1.1.2. Các tư liệu nước ngoài nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới ............................................................. 17
1.2. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................. 19
1.2.1. Khái niệm giới và nghiên cứu giới ......................................................... 19
1.2.2. Lý thuyết về diễn ngôn giới và diễn ngôn tính dục ................................ 20
1.2.3. Quan niệm về nam tính .......................................................................... 25
1.2.4. Quan niệm về nữ tính ............................................................................. 33
1.3. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, tƣ tƣởng hình thành diễn ngơn giới trong
văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX ....................................... 35
Tiểu kết: ................................................................................................................... 41
Chƣơng 2: QUAN NIỆM VỀ NAM GIỚI VÀ NAM TÍNH TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ......................... 42

2.1. Nam giới từ điểm nhìn tự kiến tạo, tự khắc họa ........................................... 42
2.1.1. Khắc họa hình tượng nam giới và sự duy trì cấu trúc nam tính lý
tưởng theo quan niệm Nho giáo ....................................................................... 42
2.1.2. Nam giới là chủ thể kiến tạo tri thức ...................................................... 45
2.1.3. Khắc họa chân dung bằng phương thức tự thuật .................................... 48
2.1.4. Sự chuyển dịch cấu trúc nam tính .......................................................... 54
2.2. Nam giới từ điểm nhìn nữ giới, xét lại thế giới đàn ơng bằng cái nhìn
định giá ..................................................................................................................... 72
2.2.1. Thân thể nam giới từ điểm nhìn nữ giới ................................................. 72
2.2.2. Nam giới trở thành đối tượng bị đả kích, châm biếm, giễu nhại công khai ...... 76
Tiểu kết ..................................................................................................................... 78


Chƣơng 3: QUAN NIỆM VỀ NỮ GIỚI VÀ NỮ TÍNH TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ......................... 79
3.1. Nữ giới từ điểm nhìn định vị của nam giới .................................................... 79
3.1.1. Quan niệm chính thống về nữ giới ......................................................... 79
3.1.2. Quan niệm phi chính thống .................................................................. 104
3.2. Nữ giới tự biểu đạt nhƣ một phản kháng và nhƣ một bản năng tự phát ....... 114
3.2.1. Nữ giới tự thuật và đề vịnh ................................................................... 114
3.2.2. Sự miêu tả thân thể nữ gắn với khát khao dục tính .............................. 121
Tiểu kết: ................................................................................................................. 123
Chƣơng 4: MỘT SỐ HIỆN TƢỢNG VĂN HĨA TÍNH DỤC ĐẶC BIỆT VÀ
THỦ PHÁP BIỂU ĐẠT DIỄN NGÔN GIỚI ĐẶC THÙ ...................................... 125
4.1. Một số hiện tƣợng văn hóa tính dục đặc biệt .............................................. 125
4.1.1. Nam tính mềm, đồng tính luyến ái và biến đổi giới ............................. 125
4.1.2. Quá trình tự giải và quyền tự quyết về tính dục (sexual agency) của nữ giới. ..... 140
4.2. Một số thủ pháp biểu đạt diễn ngôn giới đặc thù ........................................ 145
4.2.1. Mượn giọng như chiến lược đối phó cấm kỵ của nam giới ................. 145
4.2.2. Male gaze (nhãn quan nam giới) và sự thể hiện nhục cảm qua thân thể nữ ...... 155

Tiểu kết: ................................................................................................................. 162
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 163
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................ 166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 167


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong nhiều năm qua, vấn đề giới và quan niệm về giới tính/ phái tính đã
được nghiên cứu sâu rộng trên phạm vi tồn thế giới. Giới tính - phái tính là những
khái niệm có ý nghĩa xã hội học quan trọng, chi phối đến nhiều phương diện của đời
sống kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa... Dù lịch sử nghiên cứu lâu dài, nhưng nỗ
lực để có những khám phá và kết luận xác đáng về giới ở những bối cảnh văn hóa
lịch sử cụ thể vẫn đang là mối quan tâm của nhiều ngành khoa học. Tại Việt Nam,
đã có nhiều cơng trình tìm hiểu vấn đề giới trên góc độ xã hội học, tâm lí học, văn
hóa học... Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu này chú trọng nghiên cứu về phụ nữ, chỉ
ra thực trạng thua thiệt ở nữ giới, vấn đề bất bình đẳng giới, và trào lưu nữ quyền
trong xã hội hiện đại những năm gần đây. Trong văn học, việc ứng dụng nữ quyền
luận trong nghiên cứu, phê bình sáng tác của các cây bút nữ dần trở thành xu hướng
phổ biến. Tuy vậy, nghiên cứu về giới không đồng nhất với nghiên cứu về phụ nữ, lý
thuyết giới không chỉ là lý thuyết về nữ quyền. Do vậy, việc tìm hiểu một tác giả hay
một giai đoạn văn học từ các giác độ đa chiều của lý thuyết giới, đặc biệt từ hướng
tiếp cận diễn ngơn, là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn.
1.2. Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu XIX là một giai
đoạn văn học đặc biệt bởi đây là thời kì kết tinh thành tựu đặc sắc so với các giai
đoạn trước đó. Hình tượng người phụ nữ và tiếng nói của các tác giả nữ vốn dĩ mờ
nhạt và chiếm vị trí khiêm tốn trong văn học các giai đoạn trước thì nay, trong văn
học thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX bỗng trở thành hình tượng trung tâm, chi
phối sâu sắc đến tư tưởng chủ đạo của cả giai đoạn, để lại chủ âm cảm thương rõ nét
như một vĩ thanh suốt các giai đoạn sau này. Đó dường như là một phản đề với

dịng văn học ngơn chí đậm chất nam tính, nam quyền kéo dài trong nhiều thế kỉ
trước, làm dấy lên suy đoán về một sự hình thành nguồn mạch văn học nữ tính làm
tiền đề cho âm hưởng nữ quyền trong văn học hiện đại Việt Nam. Đây chính là cơ
sở để chúng tơi lựa chọn cách tiếp cận văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế
kỉ XIX từ góc độ giới. Sự diễn giải về giới trong văn học giai đoạn này khơng chỉ
mang tính hiện tượng, mà là sự nối tiếp và bùng nổ của một loạt các quan niệm về
giới có dịng chảy từ trước đó, trong văn hóa truyền thống và các giai đoạn lịch sử.

1


1.3. Với đề tài Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX dưới
góc độ giới, chúng tôi lựa chọn hướng tiếp cận giai đoạn văn học này từ lý thuyết
diễn ngôn. Hướng đi này sẽ góp phần đưa đến cái nhìn tồn diện và đa chiều hơn về
giới tính/ phái tính trong văn học Việt Nam giai đoạn XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX,
giúp tái hiện và lý giải quá trình hình thành quy phạm – phá vỡ quy phạm trong văn
học thời kỳ này, từ đó nhận ra q trình chồng lấn giữa tiếng nói của vùng chính
thống và ngoại biên, để xem vấn đề về con người đã được phát biểu và diễn giải
như thế nào thơng qua những mã giới tính chìm lấp trong những tác phẩm. Vì vậy,
góc nhìn, cách tiếp cận này hứa hẹn nhiều triển vọng cho nghiên cứu văn học từ góc
độ diễn ngơn giới.
Đó là lý do để chúng tôi lựa chọn vấn đề Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến việc làm rõ thêm
những vấn đề về lý thuyết giới như diễn ngôn giới, diễn ngơn về nam tính - nữ tính,
sự giao cắt giữa các loại diễn ngôn này trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX qua một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Qua đó, chỉ ra những quan
niệm mới về con người cũng như tìm hiểu những thiết chế quyền lực ẩn sâu chi phối
đến những quan niệm đó.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án của chúng tôi hướng tới thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
Thứ nhất, điểm lại, tổng hợp, khái quát hóa các hướng tiếp cận, nghiên cứu
văn học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX nói riêng từ lý thuyết giới qua các cơng trình tiêu biểu ở trong và ngoài nước.
Những xu hướng nghiên cứu và các lý thuyết được sử dụng là tiền đề, cơ sở để
chúng tôi thực hiện luận án này. Trên cơ sở thu thập các tài liệu có liên quan, chúng
tơi khái qt một cách có hệ thống các khái niệm về diễn ngơn và giới tính, phái
tính; làm căn cứ để triển khai luận án.

2


Thứ hai, từ việc xác lập lý thuyết, chúng tôi triển khai phân tích diễn ngơn
nam tính, diễn ngơn nữ tính và sự hốn vị, dịch chuyển giữa hai loại diễn ngôn này
trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX với các đặc điểm cụ thể.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam
giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX dưới góc độ giới nhằm tìm hiểu
các diễn ngơn về giới tính – phái tính cũng như các tác động của những diễn ngôn
quyền lực chi phối tư tưởng nghệ thuật, xây dựng hình tượng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX. Về phạm vi tư liệu, do số lượng tác giả và tác phẩm lớn, chúng tơi sẽ khơng thể đi
sâu tồn bộ các hiện tượng tác giả, tác phẩm mà sẽ tập trung hơn vào khảo sát các trước
tác và tác giả tiêu biểu của giai đoạn này như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đồn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Cơn, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ,
Phạm Thái… Các sáng tác của các tác giả khác sẽ là nguồn tư liệu để chúng tôi tiến hành
khảo sát, so sánh, đối chiếu, phân tích khi cần thiết.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận liên ngành
Trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, tiếp cận liên ngành là một
phương pháp có nhiều ưu điểm so với các phương pháp nghiên cứu khác. Trong
luận án này, phương pháp nghiên cứu liên ngành được vận dụng để tiếp cận văn học
từ góc nhìn văn hóa. Phương pháp này sẽ giúp chúng tơi thấy được những nền tảng
hình thành và q trình vận động, phát triển của những quan niệm về giới trong văn
học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX trong mối liên hệ với các bối
cảnh, thiết chế văn hóa; giúp soi chiếu mối liên hệ giữa văn hóa và văn học.
4.2. Phương pháp lịch sử
Đề tài được lựa chọn là nghiên cứu về một giai đoạn văn học, nên chúng tôi
sử dụng phương pháp lịch sử để thấy được sự phát triển, những tiến bộ hoặc hạn chế
của vấn đề trong chiều dài lịch sử và các bối cảnh xã hội cụ thể.

3


4.3. Phương pháp loại hình
Luận án khảo sát, tiếp cận văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX từ diễn ngôn về giới và các lý thuyết có liên quan. Phương pháp loại
hình được sử dụng để tìm hiểu các loại hình diễn ngơn, đến việc phân loại kiểu tác
giả và hình tượng, các cấu trúc nam tính - nữ tính… trong văn học giai đoạn này.
Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn có mức độ kết
tinh đặc biệt cả về lượng và chất. Do vậy, với phạm vi tư liệu khá bề bộn và có những tư
liệu nằm ngồi khả năng tiếp cận của chúng tôi nên luận án chọn lối nghiên cứu trường
hợp, thông qua các tác phẩm tiêu biểu đã được dịch thuật và cơng bố. Ngồi ra, luận án
sử dụng một số thao tác nghiên cứu như giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, hệ
thống hóa, mơ hình hóa,… để hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu trên.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án bước đầu giới thiệu các vấn đề lý luận cơ bản về lý thuyết giới và

hướng nghiên cứu, tiếp cận văn học từ diễn ngơn giới tính, phái tính; từ đó đặt vấn
đề nghiên cứu có tính hệ thống về giới trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa
đầu XIX dưới sự soi sáng của lý thuyết diễn ngơn.
- Tìm hiểu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu XIX từ diễn ngơn về
giới tính/ phái tính, luận án khám phá những bình diện quan trọng như: quan niệm
và hình dung về nam giới/ nữ giới, nam tính/ nữ tính; những đặc trưng về diễn ngơn
giới, một số hiện tượng văn hóa tính dục và thủ pháp biểu hiện diễn ngơn giới đặc
thù, từ đó làm nổi bật quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam
thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, giải thích sự khác biệt trong quan niệm nghệ
thuật về con người của giai đoạn này so với các giai đoạn văn học trung đại khác.
- Luận án góp phần khẳng định triển vọng nghiên cứu của hướng tiếp cận
văn học từ lí thuyết giới. Theo hướng nghiên cứu này, nhiều hiện tượng văn học,
trong đó có văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX sẽ được phân
tích, khai thác thêm nhiều tầng vỉa ý nghĩa mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX từ góc độ giới, luận án chỉ ra sự cần thiết của việc tiếp cận một giai

4


đoạn nhiều thành tựu của văn học trung đại Việt Nam từ các lý thuyết hiện đại, từ
đó chỉ ra những điểm nhìn mới mẻ, đa chiều trong quan niệm nghệ thuật về con
người.
Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định triển vọng nghiên cứu của
hướng tiếp cận văn học từ lý thuyết giới nói riêng và các lý thuyết hiện đại nói
chung, cung cấp cơ sở khoa học cho các nghiên cứu liên ngành khác.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp các phương pháp nghiên cứu từ lý
thuyết giới trong việc nghiên cứu, giảng dạy các tác giả, tác phẩm thuộc giai đoạn

văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các cơng trình nghiên cứu của các
tác giả có liên quan đến đề tài, Tài liệu tham khảo, nội dung chính được triển khai
trên 4 chương:
- Chƣơng 1: Tổng quan các vấn đề liên quan đến đề tài.
- Chƣơng 2: Quan niệm về nam giới và nam tính trong văn học Việt Nam
thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX.
- Chƣơng 3: Quan niệm về nữ giới và nữ tính trong văn học Việt Nam thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX.
- Chƣơng 4: Một số hiện tượng văn hóa tính dục đặc biệt và thủ pháp biểu đạt
giới đặc thù.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các tư liệu tiếng Việt nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới
1.1.1.1. Tiếp cận từ góc độ hình tượng người phụ nữ và tính nữ
Có thể thấy một thực tế là khi nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu có xu hướng dành phần ưu ái những đối
tượng có địa vị thấp kém, số phận bất hạnh, là đối tượng của bất công và áp bức xã
hội trong thời đoạn loạn lạc rối ren của chế độ phong kiến. Mà trong số ấy, đối tượng
bị đè nén, trấn áp, chịu bất hạnh nhiều nhất chính là người phụ nữ. Do đó, nghiên cứu
về chủ nghĩa nhân đạo, truyền thống cảm thương của văn học giai đoạn này, khó lịng
bỏ qua việc phân tích hình tượng người nữ như là một đối tượng cơ bản. Tuy nhiên,
việc dùng hình tượng người nữ như một biểu hành để chứng minh cho luận đề về
lòng nhân ái và chủ nghĩa nhân đạo của các tác giả nam giới lại là một câu chuyện

khác, mà chúng tôi sẽ bàn tới ở phần sau. Ở đây, việc trưng dụng hình ảnh phụ nữ
như một đối tượng nhị nguyên trong suốt trong những cặp phân chia đối lập về tính
cách, thân phận, chức năng... làm cho hình tượng phụ nữ dần dần bị đánh rỗng, trở
thành thứ hình tượng được tồn tại qua sự tri nhận và làm đầy của đối tượng làm chủ.
Nghiên cứu văn học từ góc độ giới ở giai đoạn này chưa phải là ý thức tự giác, mà
mới chỉ dừng lại ở việc “phục dựng” các hình mẫu, các cặp đối lập, chỉ ra sự vênh
lệch trong cấu trúc giới tính, vạch ra sự bất cơng mà thế giới hình tượng nhỏ yếu bên
lề như phụ nữ phải gánh chịu; đồng thời khẳng định địa vị “huy hoàng” của phụ nữ
trong thời đại nhà Nho – nam giới “mất giá”, đạo đức phong kiến “mất thiêng”. Điều
đáng chú ý là một phương hướng tiếp cận từ quan điểm giới như vậy vẫn còn kéo dài
đến hiện nay, khi lịch sử nghiên cứu văn học từ lý thuyết giới thực chất vẫn chỉ là lịch
sử nghiên cứu hình tượng phụ nữ, sáng tác nữ hoặc theo hướng đề cao ca ngợi vẻ đẹp,
phẩm chất của người phụ nữ. Nó cũng chứng minh một điều rằng, phụ nữ luôn là đối
tượng chịu sự quan sát và phán xét (dù bằng bất cứ thái độ nào); là đối tượng nhỏ
yếu, ngoại vi như một tất yếu (nên cần bênh vực, chiêu tuyết, ngợi ca); là hiện thân
của một thứ thang đo tiến hóa/tiến bộ xã hội nghiệt ngã mà ở đó sự thay đổi địa vị

6


chưa chắc đã vì chính quyền lợi của họ mà trước mắt, để khẳng định các trật tự mới,
thiết chế mới, những tiến bộ của một xã hội khác xưa.
Phan Ngọc trong cơng trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều xuất bản lần đầu năm 1965 đã đưa ra nhận định về một hiện tượng vừa “hiển
nhiên” nhưng lại vừa “ít được chú ý” trong văn học Việt Nam trước thời Lê mạt là
trong những tác phẩm được quy định niên đại chính xác, trừ Truyền kỳ mạn lục, ―hầu
như khơng có đàn bà” [79, tr.29]. Phan Ngọc đã chỉ ra tính chất bị trấn áp, bị quy
định, vơ âm sắc của hình tượng người nữ trước thời Lê mạt, dưới tác động của thiết
chế nam quyền. Muốn được công nhận, được xuất hiện, người phụ nữ phải thủ tiêu
bản sắc, thỏa hiệp với các diễn ngôn về phẩm hạnh mà nam giới và xã hội phong kiến

đặt ra. Như thế, người phụ nữ dễ dàng được phân chia đơn tuyến, biệt lập vào các vai,
các nhóm, các tính cách điển hình nhằm thỏa mãn việc trình bày một luận đề đạo đức
nào đó. Các nét riêng, thuộc về bản sắc bị tẩy xóa; thay thế bằng các nhóm, kiểu,
dạng phận vị chức năng. Tuy thế, “tình hình vào thời Lê mạt khác hẳn. Cái đối tượng
mà nền văn học cũ khơng dám nhắc đến, thì nay trở thành thần tượng của nền văn
học mới. Người đàn bà xuất hiện mọi nơi, trở thành vị nữ hoàng mà hào quang và uy
tín lấn át mọi thần tượng khác. Đây là người đàn bà―nghiêng nước nghiêng thành‖,
khao khát tình yêu, có một cơ thể ―trong ngọc trắng ngà‖. Người đàn bà mà Nho
giáo sợ hãi, Phật giáo xua đuổi, lúc này thống trị toàn bộ văn học [79, tr.29]. Phan
Ngọc đã đặt đối sánh địa vị “huy hoàng” của người phụ nữ bên cạnh sự biến mất khỏi
sân khấu của những hình tượng nam nhi truyền thống như một kết luận về sự thay
đổi, tái lập thời đại mới; mà trên đó, các vấn đề về cá nhân và quyền con người sẽ
được đặt lại, nhìn nhận lại xác đáng hơn, nhân văn hơn.
Tính đa dạng của thế giới hình tượng nhân vật nữ được tác giả Trần Thị Băng
Thanh chỉ ra trong bài viết Nhìn qua những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ trong văn
học chữ Hán thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1978:
“Mặt khác, những nhân vật phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm cũng rất nhiều loại: có các
hồng hậu, phu nhân, cơng chúa, tiểu thư khuê các và cũng có chị em phụ nữ cần lao;
có các nữ sĩ, ni cơ, những nhân vật trong lịch sử, trong truyền thuyết và cả những con
người thực trong cuộc đời. Thế giới nhân vật này rất đa dạng về tính cách và cũng rất
khác nhau về số phận” [114, tr.68]. Tuy vậy, sự xuất hiện đa dạng với biên độ rộng
khắp của hình tượng phụ nữ trong văn học giai đoạn này mới là mặt hiện tượng. Ẩn sâu

7


sau lớp hình tượng ấy là thế giới tư tưởng tình cảm của các tác giả trung đại, với sự
thay đổi nhãn quan và bút pháp miêu tả khác xa so với các giai đoạn trước đó. Tinh
thần nhân văn của văn học giai đoạn này bộc lộ rõ rệt qua những trường hợp “xét lại”,
vốn chỉ thường thấy trong văn học hiện đại với sự phát triển của các trào lưu đấu tranh

xã hội. Theo Trần Thị Băng Thanh, những nhân vật nữ trong lịch sử như Huyền Trân,
Điểm Bích từng chịu sự chê bai của nhiều thế hệ thì đến giai đoạn này đã được các văn
nhân “xét lại”. Lê Quý Đôn là người đầu tiên đưa tư liệu chứng tỏ Huyền Quang và
Điểm Bích đều khơng có lỗi [114, tr.49].
Ở lĩnh vực văn xuôi tự sự, tác giả Phạm Tú Châu trong bài viết Những nhân
vật nữ trong Hồng Lê nhất thống chí trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1978 nhận định
về địa vị thấp kém của các nhân vật nữ trong tác phẩm, chỉ ra tình trạng phụ thuộc,
khơng thể làm chủ cuộc đời của họ, là con bài trên ván cờ của nam giới, trở thành
công cụ tùy ý sử dụng của đấng bậc: “Người đẹp trong sách chỉ luẩn quẩn trong cuộc
sống đài các chật hẹp để rồi cũng bị cuốn hút vào vịng tranh giành ngai vua, sập chúa
nhỏ nhen, ích kỷ. Nếu họ có quyền hành gì thì cũng là nhờ sự che chở, thiên ái của
người đàn ông; nếu họ có được cơng nhận là sáng suốt thì cũng là ngồi ý định của
nam tác giả. Nhìn chung, người phụ nữ là con bài trên ván cờ của nam giới (người
con dâu cả của Nguyễn Huy Bá, vợ Nguyễn Viết Tuyển, con gái Nguyễn Đình
Giản...), là đồ dùng họ mua về, sử dụng thế nào tùy thích (Ngọc Lan) [11, tr.4].
Luận án Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân năm
1993 của tác giả Nguyễn Thị Chiến đã tìm hiểu sự phát triển của hình tượng người phụ
nữ trong suốt chiều dài mười thế kỉ của nền văn học viết, đã có những nhận định về sự
phát triển mờ nhạt của hình tượng người phụ nữ trong sáng tác văn học từ thế kỉ X đến
thế kỉ XV. Cho đến thế kỉ XVI – XVII, gương mặt người phụ nữ mới được thể hiện và
bước đầu tạo được ấn tượng với độc giả. Đó là Túy Tiêu, Nhị Khanh, Đào Hàn Than
(Truyền kì mạn lục), Vương Tường (Truyện Vương Tường), Viên Thị (Lâm tuyền kì
ngộ). Những hình tượng người phụ nữ tiêu biểu kể trên đã được văn học miêu tả không
phải là những anh hùng liệt nữ như Bà Trưng, Bà Triệu, nàng Mỵ Ê mà là “những số
phận cụ thể, đời thường, có cuộc sống éo le, phức tạp, có khát vọng tình yêu và phẩm
chất trung hậu. Đây là những biểu hiện mới mẻ của văn học viết trong việc thể hiện
cuộc sống là những dấu hiệu khởi đầu cho một sự chuyển biến của văn học thời kì này”
[17, tr.25]. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh đặc điểm của hình tượng phụ nữ trong truyện

8



Nôm, với những thay đổi mạnh mẽ so với các thể loại khác của thời kì khác mà nói
như tác giả Kiều Thu Hoạch trong cơng trình Truyện Nơm – nguồn gốc và bản chất thể
loại: “Trong bối cảnh của trào lưu nhân văn, truyện Nôm như là sinh ra để nói về người
phụ nữ, truyện Nơm như là thể loại thể hiện tốt nhất, đầy đủ nhất về đề tài người phụ
nữ trong mọi quan hệ xã hội rộng lớn” [17, tr.25].
Bên cạnh đó, hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của một tác giả cụ thể,
tiêu biểu là Hồ Xuân Hương cũng trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều cơng trình.
Trước năm 1975, nhiều bài viết của các tác giả như Văn Tân, Xuân Diệu, Thanh
Lãng, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân… đã khai thác các vấn đề
quan trọng trong thơ Hồ Xuân Hương, đặc biệt là vấn đề dâm và tục. Sau năm 1975,
các cơng trình của các tác giả như Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Lai
Thúy, Đồn Lê Giang… đã lựa chọn điểm tựa phê bình khác nhau từ thi pháp học,
phân tâm học, hậu hiện đại..v.v. để chỉ ra ngọn nguồn của vấn đề dâm tục, thế giới
carnival đầy màu sắc trào tiếu, giễu nhại trong thơ Hồ Xn Hương và tiếng nói đấu
tranh địi quyền sống cho phụ nữ trong thơ bà.
Hướng nghiên cứu hình tượng người phụ nữ và nữ tính vận dụng các quan
điểm giới có thể kể đến bài viết Nữ tính trong thơ Bà Huyện Thanh Quan của tác giả
Đặng Tiến, cơng trình Tự sự của trinh tiết: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam
trung đại thế kỷ X – XIX của tác giả Phạm Văn Hưng...
Theo Đặng Tiến, những cảm giác dồi dào nữ tính trong thơ Bà Huyện được
diễn tả bằng: 1. lời lẽ trang nhã đến khách sáo với nhiều chữ nho xa cách, khách sáo;
nhà thơ ln ở vị trí kẻ lữ thứ, kẻ dừng chân, khách. 2. nữ tính cịn phát ra trong cách
chọn vật liệu của thi ca (biểu tượng cây cối trong thơ bà: tàu chuối, ngàn mai và dặm
liễu, – ba thứ cây tượng trưng cho nữ tính; hình tượng ngọn cỏ yếu đuối, cánh chim
chiều) [134]. Tác giả Phạm Văn Hưng trong cơng trình Tự sự của trinh tiết: Nhân vật
liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ X – XIX đã nhận định về việc trong
nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại nói riêng,
việc nhìn người phụ nữ, nhân vật phụ nữ trong văn học từ quan điểm giới khơng cịn là

một chuyện xa lạ nhưng vẫn là một hướng đi khá mới mẻ. Do vậy, chuyên luận đã
nghiên cứu diễn trình của kiểu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại từ thế
kỷ X – XIX nhằm bổ sung một góc nhìn về con người nói chung, về người phụ nữ nói
riêng từ góc nhìn giới, quan tâm đến nữ tính của họ, bên cạnh những góc nhìn truyền
thống đặt họ trong vai trị cơng dân, vai trò xã hội quen thuộc.

9


1.1.1.2. Tiếp cận từ lý thuyết nữ quyền (nữ quyền luận)
Ứng dụng nữ quyền luận trong việc tiếp cận các hiện tượng văn học hiện đại
khơng cịn q xa lạ với các nhà nghiên cứu Việt Nam, nhưng với các tác phẩm, tác
giả trung đại thì số lượng cơng trình nghiên cứu còn hạn chế.
Bùi Thị Thiên Thai trong bài viết Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả đã chỉ
ra nét đặc sắc của tác phẩm Truyền kì tân phả từ một góc nhìn nữ quyền : “Nếu nhìn
dưới góc độ văn học nữ quyền hay là giá trị nhân đạo của tác phẩm, đặc biệt là góc độ
tương tác giữa văn học trung đại và văn hóa dân gian, Truyền kỳ tân phả lại cho ta
thấy những nét đẹp và giá trị riêng. Ra đời trong môi trường văn học đặc biệt của thế
kỷ XVIII – thế kỷ vàng của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với địa vị thống trị của hình
tượng nữ, lại được viết bởi chính một tác giả nữ, Truyền kỳ tân phả do vậy đã trở
thành thứ vật dẫn biểu hiện cho việc đề cao nữ quyền” [113, tr.60].
Nguyễn Thị Hưởng với luận án Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai
đoạn từ 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu) (Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam, năm 2016) khi nhận định về ý thức nữ quyền trong thơ nữ cổ điển đã chỉ ra
tình trạng người phụ nữ bị hạn chế học hành, không được tham gia chính sự trở thành
phổ biến. Trên lĩnh vực văn học, tình trạng này bộc lộ ở sự thưa vắng của người phụ nữ
trong đội ngũ sáng tác. Người phụ nữ làm thơ, viết văn là những hiện tượng mang tính
đặc biệt trong văn học. Hành trạng cuộc đời của những “kỳ nữ” làm thơ hoặc bị dân
gian hóa, hoặc tồn nghi dưới dạng những “nghi án văn chương” (…) Việc người phụ
nữ thể hiện quan điểm của mình về giới nữ trong sáng tác văn học thời trung đại có thể

xem là những “dòng chảy nghịch” của xã hội nam quyền” [52, tr.43]. Cuối cùng, tác
giả luận án khẳng định: “Tuy ý thức nữ quyền trong thơ nữ giai đoạn này mới dừng lại
ở các hiện tượng đơn lẻ tự phát và không đồng đều ở các tác giả, nhưng nó ở một khía
cạnh nào đó đã trở thành tiếng nói khẳng định giá trị cũng như những khát vọng hạnh
phúc của người phụ nữ” [52, tr.54].
Tác giả Trần Ngọc Hiếu trong bài viết: Tự sự học nữ quyền luận và khả năng
ứng dụng đối với thực tiễn văn học Việt Nam đã chỉ ra khả năng ứng dụng lý thuyết
phương Tây và độ vênh lệch của ứng dụng vào thực tiễn văn học Việt Nam, cụ thể
trong bài viết là việc ứng dụng tự sự học nữ quyền luận với đại diện Susan Lanser.
Tác giả đã nhận thấy khả năng tiềm tàng của việc ứng dụng tự sự học nữ quyền luận
vào thực tiễn văn học Việt Nam, đặc biệt trong văn học trung đại, nơi các diễn ngôn

10


quyền lực và các thiết chế văn hóa ln thống trị, trấn áp diễn giải, đè nén những dấu
hiệu lệch pha, ngoại biên vốn nằm ở các lĩnh vực giao cắt để tạo ra một bộ khung tri
thức chính thống đậm đặc nam quyền. Những hiện tượng như mượn giọng nữ trong
các khúc ngâm, quyền tác giả bản dịch Chinh phụ ngâm được xem như “trường hợp
để ta nghiên cứu q trình phái tính hóa tác giả, chứng minh cho luận điểm của phê
bình nữ quyền, rằng phái tính được hình thành, được kiến tạo trong hoạt động diễn
giải” [38, tr.40]. Hình tượng người kể chuyện dị sự từ điểm nhìn đàn ơng vào số phận
nữ giới cũng là một điểm đáng lưu tâm khi nó phổ biến ở hầu hết các tác phẩm trung
đại, đặc biệt như ở Truyện Kiều.
Một số luận văn, luận án bước đầu tìm hiểu văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết nữ quyền luận (feminism) như: luận án tiến sĩ
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ lý thuyết nữ quyền (Học viện Khoa học xã hội,
năm 2014) của Phạm Thị Thuận… Ngồi ra, có thể kể đến cơng trình Văn học và giới
nữ (Một sô vấn đề lý luận và lịch sử) (Nxb Thế giới, 2016) do Phùng Gia Thế, Trần
Thiện Khanh biên soạn. Đây là cơng trình tuyển tập các nghiên cứu về giới nữ và nữ

quyền trong văn học Việt Nam từ cổ trung đại đến hiện đại. Một số bài viết đáng chú
ý là: Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận vào
cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền của tác giả Trần Nho Thìn, Ý
thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn
Đăng Điệp, Kháng cự tình trạng mất tiếng nói: tiếng nói như một thân phận và như
một hành động của tác giả Trần Thiện Khanh… Tác giả Trần Nho Thìn khi tìm hiểu
mối quan hệ giữa Nho giáo và nữ quyền đã khẳng định: bên cạnh hạn chế của Nho
giáo đối với phụ nữ, thì Nho giáo cịn có tiềm năng của một học thuyết nữ quyền và
văn học thế kỷ XVIII – XIX có một dịng văn học nữ quyền. Hồ Xuân Hương với
thân phận lẽ mọn đã bộc bạch nỗi khao khát tình yêu gắn liền với dục tính, đã đề cập
đến quyền sống của người phụ nữ và những nhu cầu bản năng của phụ nữ, có ý nghĩa
quan trọng trong việc khơi dậy ý thức nữ quyền trong văn học. Tiếp nối mạch nghiên
cứu này là luận án Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ lý thuyết nữ quyền của tác giả
Phạm Thị Thuận, với góc nhìn về thân phận nữ giới và hành trình đi tìm bản ngã
người phụ nữ trong thơ Hồ Xn Hương.
Các cơng trình này đã chỉ ra những dấu vết và biểu hiện sơ khởi của ý thức nữ
quyền trong văn học trung đại, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ

11


XIX, coi đây là những điểm tiến bộ, mới mẻ, có tính đột phá so với các giai đoạn
trước đó; đồng thời đặt ra những hướng tiếp cận mới từ lý thuyết diễn ngôn, tự sự
học, thuyết lệch pha… để có cái nhìn đa chiều về một giai đoạn văn học đa thanh.
1.1.1.3. Tiếp cận từ quan niệm về cấu trúc nam tính – nữ tính
Phát triển kém năng động hơn xu hướng nghiên cứu giới từ lý thuyết nữ quyền
là hướng nghiên cứu cấu trúc nam tính - nữ tính. Khơng nên đánh đồng hoặc đưa cấu
trúc nam tính - nữ tính trở thành một bộ phận của nghiên cứu lý thuyết nữ quyền. Các
quan niệm về nam tính - nữ tính xâm nhập vào mọi nền văn hóa, hình thành các bộ
khung về những cách làm đàn ơng và phụ nữ khác nhau, được ghi dấu trong các tác

phẩm văn học. Một số cơng trình tiếp cận từ hướng nghiên cứu này của các tác giả
Trần Văn Toàn, Mai Thu Huyền… đã khai thác khoảng trống trong nghiên cứu, ứng
dụng lý thuyết giới, đó là nghiên cứu về nam tính. Các cơng trình nghiên cứu văn học
từ góc độ hình tượng người phụ nữ, tính nữ và lý thuyết nữ quyền chiếm số lượng áp
đảo, trong khi chưa có một cơng trình nghiên cứu chun biệt và đầy đủ về nam tính.
Tác giả Trần Văn Tồn khi nghiên cứu về quan niệm và cấu trúc nam tính
trong văn học Việt Nam đã dẫn giải những nghiên cứu về nam tính Trung Quốc của
Kam Louie với những gợi ý quan trọng. Theo Louie, nam tính Trung quốc truyền
thống được đặc trưng bởi hai thuộc tính: văn (wen) – võ (wu): “Theo nghĩa đen, cặp
khái niệm này có nghĩa là tính văn chương – thượng võ, và nó bao hàm sự lưỡng
phân giữa những thành tựu văn hóa – võ lực, tinh thần và thể chất và v..v. Bởi vì bao
chứa cả những nhân tố thể chất (physcical) và tinh thần (mental) của người đàn ơng lí
tưởng (ideal man), nên văn – võ được kiến tạo cả về phương diện sinh học và văn
hóa” [137, tr.43-44]. Tác giả đã chỉ ra cấu trúc nam tính thiên về văn của văn hóa
Trung Quốc cũng như Việt Nam, khác hồn tồn với mẫu hình nam tính cơ bắp của
văn hóa Anh – Mỹ; đồng thời chỉ ra vị trí quan trọng của mẫu hình kẻ sĩ và truyền
thống ―năng văn‖ trong văn hóa, văn học Việt Nam: “Cho dù đã có những thời điểm
bị khinh miệt bởi những kẻ võ biền thì trong toàn bộ lịch sử (với ảnh hưởng kéo dài
của Nho giáo) văn nhân, kẻ sĩ vẫn ln có một vị trí được trọng vọng đặc biệt. Một
nhân vật với những võ công hiển hách như Nguyễn Công Trứ cũng vẫn dành cho văn
một vị thế vượt trội so với võ nhất là trong khả năng duy trì trật tự và ổn định xã hội
(...) Nguyễn Công Trứ là một danh tướng nhưng hơn thế, “năng văn” thậm chí cịn là
tiêu chí để xác lập hình ảnh của một hồng đế lí tưởng (…) Sở hữu năng lực văn ở

12


đây là biểu hiện cho nam tính lí tưởng, là tiêu chí quan trọng cho thấy sự chính đáng
và hợp thức để ngồi ở ngơi vị hồng đế” [137, tr.43-44]. Tác giả Mai Thu Huyền với
bài viết Lý thuyết hóa nam tính Trung Quốc: Xã hội và giới tính ở Trung Quốc của

Kam Louie và những gợi ý cho việc nghiên cứu các hình mẫu nam nhân trong văn
học Việt Nam đã có khái lược về lý thuyết nam tính của Kam Louie đồng thời đưa ra
một vài gợi ý về việc khám phá văn học Việt Nam từ lý thuyết này. Đây cũng là
những gợi dẫn cho luận án tiến hành hướng nghiên cứu.
Hướng nghiên cứu về cấu trúc nam tính tuy khơng cịn xa lạ trong các nền văn
học ngoại lai nhưng ở Việt Nam, đặc biệt trong văn học trung đại, cấu trúc nam tính
thường được hiểu đơn giản là hình tượng nam nhi cùng các phẩm chất mang nặng
tính quy định của đạo đức Nho giáo; tương tự như nghiên cứu về nữ tính được đánh
đồng với sự tái hiện và phân nhóm hình tượng phụ nữ. Cho nên, rất cần một hướng
khai phá nghiêm túc và sâu sắc về đề tài còn nhiều tiềm năng này.
1.1.1.4. Tiếp cận từ văn hóa tính dục
Trước năm 1975, nhiều nhà nghiên cứu miền Nam ảnh hưởng từ thuyết phân
tâm học của Freud đã vận dụng học thuyết này để nghiên cứu các tác phẩm văn học
trung đại. Cụ thể là Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh áp dụng phân tâm học để giải
thích hiện tượng Hồ Xuân Hương, xem thơ bà là sự thăng hoa của “con dục” [127,
tr.61]. Nguyễn Đăng Thục, Đàm Quang Thiện cũng ứng dụng lý thuyết của Freud để
tìm hiểu Truyện Kiều. Tiếp đến là hướng ứng dụng phê bình văn hóa – lịch sử của
Taine với tác phẩm Nguyễn Du và Truyện Kiều (Văn Mới, 1942) của Trương Tửu:
“Vượt qua cái tâm sự của con người xã hội và cách tiếp cận nhân-quả đơn tuyến,
Trương Tửu tìm hiểu cá tính của Nguyễn Du” [127, tr.61], dựa trên các phương diện
huyết thống, quê quán, thời đại. Đến những năm 90, khi tìm cách lý giải cái dâm cái
tục trong thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thúy đi tìm một lối tiếp cận khác theo lý
thuyết của Jung để đưa cái dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương trở về với ngọn nguồn
tín ngưỡng phồn thực dân tộc.
Tác giả Phạm Văn Hưng với cơng trình Văn hóa tính dục ở Việt Nam thế kỷ X –
XIX (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018) đã chỉ ra sự khó khăn khi nghiên cứu cả
một giai đoạn phát triển, nảy nở của văn hóa tính dục ở Việt Nam suốt mười thế kỷ do
sự thiếu thốn về tư liệu; đồng thời đưa ra giải pháp phục dựng văn hóa tính dục Việt
Nam thế kỷ X – XIX chủ yếu qua hai mảng tư liệu lịch sử và văn học. Cơng trình đã có


13


sự khảo cứu công phu về một số phương diện của văn hóa tính dục thời trung đại ở
Việt Nam như: bản năng tính dục dưới sự “quản lý” của lễ và luật ; sự định vị và lưu
thông những hàng hóa tính dục; những tưởng tượng và những ngã rẽ tính dục; câu
chuyện về “đại sự phịng the”. Đây là cơng trình nghiên cứu sâu rộng và tương đối tồn
diện về mười thế kỷ văn hóa tính dục của Việt Nam với phạm vi khảo sát tư liệu rộng
lớn, bao trùm từ văn học, lịch sử, hội họa…
1.1.1.5. Tiếp cận từ lý thuyết lệch pha (queer theory)
Tác giả Trần Ngọc Hiếu trong bài viết: Tự sự học nữ quyền luận và khả năng
ứng dụng đối với thực tiễn văn học Việt Nam đã lần đầu đề xuất sử dụng khái niệm
“queer” của thuyết lệch pha/thuyết đồng tính (queer theory) để tiếp cận những hiện
tượng như mượn giọng trong các khúc ngâm, vấn đề mặt nạ tác giả… nhằm tìm ra
các mã giới tính ẩn giấu sau các tác phẩm. Với cách tiếp cận này, giới tính/ phái tính
phải được nhìn nhận trong quá trình diễn giải, từ các diễn ngôn chồng lấn. Nội hàm
của diễn ngôn liên tục được di chuyển, kiến tạo và tái lập trong những bối cảnh văn
hóa và dưới những thiết chế quyền lực xác định. Văn học trung đại Việt Nam, đặc
biệt là giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn của các
hiện tượng chồng lấn, nhòa nhiễu, sự chuyển di liên tục của các biểu hành về giới
tính, văn hóa... dẫn đến sự phức tạp của hệ thống diễn ngôn. Như thế, một hiện tượng
văn học (tác phẩm, tác giả, nhân vật...) không nên và khơng thể bị gị cứng vào một
vài cách diễn giải, ấn định nhằm tìm ra các giá trị nội tại về nội dung nghệ thuật mà
sâu hơn, cần tìm kiếm các thiết chế quyền lực, các lớp tư tưởng ngầm ẩn dưới lớp áo
ngơn từ giàu tính điển phạm.
Trong một bài viết khác: Văn học đồng tính ở Việt Nam – từ những hình thức
ngụy trang đến các tự thuật thú nhận, tác giả Trần Ngọc Hiếu đã chỉ ra hiện tượng phụ
nữ “bị làm rỗng, bị công cụ hóa để tơn vinh đạo lý tình bạn giữa những người đàn ông
trong xã hội phong kiến” [37, tr.110] trong tích truyện Lưu Bình – Dương Lễ. Nó đã
tiến hành vơ hình hóa, ngoại vi hóa các giới tính khác ngồi nam giới, biến những thực

thể thành những cơng cụ đạo lý phục vụ cho mục đích truyền tải đạo đức. Ứng dụng lý
thuyết queer, tác giả đặt ra vấn đề sự cần thiết phải khảo sát từ trong văn học dân gian,
nơi văn học tồn tại trong trạng thái ngun hợp với các hình thái folklore khác như tín
ngưỡng, hội hè, sân khấu dân gian,... – những hình thái mang tính chất trình diễn rõ nét,
tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi bộc lộ, đảo trang hay vượt rào giới tính. Đặt vấn

14


đề về văn học đồng tính Việt Nam trong thời trung đại, tác giả Trần Ngọc Hiếu đưa ra
hai phương diện chính: kiểu tác giả và sự thể hiện hình ảnh người đồng tính, chuyển
giới, bị thiến hoạn.
Như vậy, nếu như xem giới tính/ phái tính được tạo ra trong quá trình trình diễn/
diễn giải (perfomance), những hiện tượng như mượn giọng, mặt nạ tác giả, đảo trang,
hốn vị… có thể được xem xét như những thủ pháp biểu hiện diễn ngôn giới đặc thù
hoặc như những biểu hiện/ thủ pháp cụ thể của queer. Một số cơng trình tiêu biểu đi
theo hướng nghiên cứu này là chuyên luận “Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ
XIX‖ do PGS. TS Trần Nho Thìn biên soạn, ―Mặt nạ tác giả‖ - một gợi ý cho việc tiếp
cận một vài hiện tượng văn học sử Việt Nam‖ của tác giả Lại Ngun Ân (Tạp chí
Sơng Hương, số 252 tháng 2-2010), luận văn thạc sĩ Người phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm và Cung ốn ngâm nhìn từ quan điểm giới (Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, 2012) của tác giả Tạ Thị Thanh Huyền…
Nhà nghiên cứu Lại Ngun Ân nhận xét, có khơng ít hiện tượng văn học sử
Việt Nam có thể được soi rọi dưới ánh sáng của các quan niệm về “mê hoặc văn
chương” và “mặt nạ tác giả”, đặc biệt là hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Những
sáng tác mà nay đang được gọi chung là thơ Hồ Xuân Hương có lẽ cần được xem
xét như là tập hợp loạt sáng tác có chung quy tắc cách điệu hóa [3].
Cơng trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX do PGS. TS Trần Nho
Thìn biên soạn đã có những nghiên cứu công phu và nhiều gợi ý nghiên cứu mới mẻ
về vấn đề nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ góc độ giới. Với Chinh phụ

ngâm, tác giả đào sâu vào việc phân tích giọng nữ và đặt ra vấn đề: Tại sao một tác
giả nam giới lại thấy cần thiết phải hư cấu giọng nói của người khác giới? Mặc dù
cơng nhận việc thay lời khơng cịn xa lạ trong văn học trung đại nhưng tác giả cũng
chỉ ra rằng đặc trưng minh bạch, đồng giới tính của hành động viết thay tạo cho nó
tính hợp quy, trong khi việc hư cấu giọng nữ lại mang tính bất thường, vượt rào.
Và để lý giải hiện tượng mượn giọng này, tác giả Trần Nho Thìn viện dẫn khái
niệm ventriloquism (được tác giả dịch là hư cấu giọng) để lý giải và cho đây là một
hiện tượng có ý nghĩa bởi từ trước đến nay, người phụ nữ vốn chịu nhiều hạn chế
trong phát ngôn và tự biểu hiện [121, tr.426]. Trong phần lý giải và đánh giá hiện
tượng thơ Hồ Xuân Hương, phần “Thơ của người phụ nữ mang tên Hồ Xuân Hương
và thơ của nam giới gán cho Hồ Xn Hương trong bối cảnh văn hóa tính dục truyền

15


thống‖, tác giả từ việc phân tích tính chất táo bạo trong tư tưởng của Hồ Xuân Hương
đã chỉ ra xu hướng bị trấn áp, đè nén của diễn ngôn tính dục dưới áp lực của mơi
trường văn hóa thanh giáo sẽ làm nảy sinh hình thức đối phó phổ biến trong các nền
văn hóa trung đại là cấm kỵ: “Một khi việc nói trực tiếp về dục tính bị coi như hành
động cấm kỵ thì sẽ nảy sinh các hình thức đối phó với cấm kỵ” [121, tr.479]. Hình
thức đối phó này cịn tìm thấy ở sáng tác của Nguyễn Du. Nguyễn Du không thể,
không dám trực diện nêu hình tượng thân thể và dục tính trong thơ chữ Hán nhưng
chỉ riêng trong Truyện Kiều, ông rất mạnh dạn về mảng đề tài cấm kỵ này. “Nhưng
để nói lên tiếng nói táo bạo, trực tiếp như thế, Nguyễn Du đã phải mượn cốt truyện
Kim Vân Kiều truyện, một tác phẩm nước ngồi. Để có thể tả thân thể cơ Kiều tắm,
để có thể bênh vực, cảm thơng với thân phận của một kỹ nữ thanh lâu như nàng Kiều
– một thân phận bị khơng ít Nho gia sau ơng kể cả một số Nho gia ở đầu thế kỷ XX –
cơng kích là dâm, là đĩ – Nguyễn Du phải mượn giọng kể của một tác giả nước ngoài
để che giấu tư tưởng về con người nhân bản, con người có quyền sống thân xác, có dục
tính. Và ngay cả Kim Vân Kiều truyện cũng khuyết danh tác giả: tác giả Trung Quốc đã

phải ẩn danh để dễ bề nói lên các dục vọng thân xác của con người” [121, tr.480-481].
Theo tác giả, hình thức hư cấu giọng nữ để chuyển tải tư tưởng đề cao thân thể và dục
tính trong Chinh phụ ngâm và Cung ốn ngâm khúc cũng là một biểu hiện khác của việc
đối phó cấm kỵ về giới và đến Hồ Xuân Hương, vấn đề nhân thân cũng là một biểu hiện
của đối phó cấm kỵ khi các nam nhân, những nhà thơ nam giới để tránh tiếng dâm tục,
tránh sức ép của đạo đức Nho giáo, đã khơng cho phép họ ký tên mình sau mỗi sáng tác
mà gán các sáng tác này cho người phụ nữ nổi tiếng phóng túng.
Theo tác giả Tạ Thị Thanh Huyền trong luận văn thạc sĩ Người phụ nữ trong
Chinh phụ ngâm và Cung ốn ngâm nhìn từ quan điểm giới (Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, 2012) thì hiện tượng nhà thơ nam giới mượn giọng một nhân
vật nữ vốn đã có từ rất lâu trong lịch sử văn học Trung Quốc, trong đó các nhà thơ
nam giới mượn giọng nhân vật nữ như một hình thức ngụy trang để nói tới những vấn
đề chính trị hoặc những điều cấm kỵ về tình dục: “Như vậy việc mượn giọng nữ giới
chính là cơ hội để tác giả nam giới thoát ra khỏi những ranh giới gị bó về nam tính –
nữ tính mà xã hội áp đặt lên họ, để họ được bày tỏ những gì mà họ bị cấm với tư cách
là một người đàn ông” [48, tr.17].

16


Trở lên, có thể nhận thấy việc ứng dụng lý thuyết giới trong nghiên cứu văn
chương nói chung và văn học Việt Nam nói riêng tuy đã đạt được một số thành tựu,
nhưng chủ yếu tập trung ở giai đoạn văn học hiện đại và hướng tiếp cận phần lớn từ
chủ nghĩa nữ quyền hoặc hình tượng người phụ nữ. Văn học Việt Nam trung đại thế kỷ
XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn văn học đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Các
nhà nghiên cứu đã bước đầu đi sâu nghiên cứu một số vấn đề giới tính/ phái tính ở văn
học giai đoạn này như: văn hóa tính dục, âm hưởng nữ quyền, hình tượng người phụ
nữ, diễn ngơn về nam tính – nữ tính… Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa được triển khai
tập trung, xu hướng nghiên cứu nghiêng nhiều về thế giới hình tượng phụ nữ trong khi
hướng nghiên cứu về nam giới – nam tính cịn bỏ ngỏ. Hướng tiếp cận từ diễn ngôn

giới tuy không mới đối với giai đoạn văn học hiện đại nhưng lại chưa được triển khai
liền mạch, chuyên sâu ở giai đoạn này. Đây là những tiền đề để chúng tôi tiến hành
nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX từ góc độ diễn ngơn
giới tính/ phái tính.
* Ngồi ra, một số luận văn, luận án bước đầu nghiên cứu văn học Việt Nam
trung đại giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết/ góc độ giới
(gender studies) có thể kể đến: luận văn thạc sĩ Người phụ nữ trong ―Cung oán
ngâm‖ và ―Chinh phụ ngâm‖ nhìn từ quan điểm giới (Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, năm 2011) của Tạ Thị Thanh Huyền, luận văn thạc sĩ Sáng tác Nơm
của Đồn Thị Điểm và Hồ Xuân Hương nhìn từ quan điểm giới (Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, năm 2014) của Hồng Thị Kim Dung … Các cơng
trình đã bước đầu vận dụng các khái niệm cơ bản của lý thuyết giới để phân tích,
đánh giá các tác giả, tác phẩm của văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là
cơ sở để chúng tôi tiến hành nghiên cứu với đề tài Văn học Việt Nam thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX dưới góc độ giới. Tuy nhiên, đây là các cơng trình nghiên cứu từ
các trường hợp tác phẩm cụ thể (case study) nên chưa đề xuất được phương pháp tiếp
cận khái quát cho hướng nghiên cứu vận dụng lý thuyết giới.
1.1.2. Các tư liệu nước ngoài nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX từ lý thuyết giới
Bên cạnh đó, văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai
đoạn nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả nước ngồi. Có thể kể
đến một số cơng trình nghiên cứu của Cong Huyen Ton Nu Nha Trang (The

17


traditonal roles of women as reflected in oral and written Vietnamese literature
(1973), The Makings of the National Heroine A Prescriptive Reconstruction), Wendy
N. Duong, (Gender Equality and Women's Issues in Vietnam: The Vietnamese
Woman—Warrior and Poet), Wynn Wilcox với bài viết về Hồ Xuân Hương và Lê
Ngọc Hân (Women and Mythology in Vietnamese History: Le Ngoc Han, Ho Xuan

Huong, and the Production of Historical Continuity in Vietnam); Olga Dror (Cult,
Culture, and Authority: Princess Lieu Hanh in Vietnamese History (Southeast Asia:
Politics, Meaning, and Memory) với những nghiên cứu về hình tượng Liễu Hạnh
trong văn hóa, văn học Việt Nam; Mariam B.Lam với bài viết Truyện Kiều dưới góc
nhìn văn học nữ quyền (Phạm Chi dịch); Nathalie Uyen (Nữ chính kinh điển và hóa
thân

thời

hiện

đại:

Truyện

Kiều



những

tương

đồng

trong

Printemps Inachevé), Rachel Carpenter (Heroinification: Constructing the Heroine, P
erspectives from Vietnam and China)…
Các cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài hầu hết đều đi sâu

khám phá các tác phẩm, tác giả cụ thể (Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nôm truyền
tụng Hồ Xuân Hương, Lê Ngọc Hân, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm…) và
chủ yếu hướng đến hình tượng người phụ nữ. Mariam B. Lam “khám phá ba chủ đề
văn học hay truyền thống văn học: lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, quyền
lực của ngôn ngữ dân tộc và các xu hướng đạo đức tôn giáo bằng cách xem xét cách
nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ trong tác phẩm kinh điển của Truyện Kiều.
Nhấn mạnh tác phẩm này là để xem các giá trị và truyền thống dân tộc được lưu giữ,
chuyển hóa (chuyển nhập) và viết lại trên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam như thế
nào” [60]. Wynn Wilcox trong bài viết Phụ nữ và huyền thoại trong lịch sử Việt
Nam: Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương và việc tạo ra tính liên tục về lịch sử tại Việt
Nam (Women and Mythology in Vietnamese History: Le Ngoc Han, Ho Xuan Huong,
and the Production of Historical Continuity in Vietnam) đã bước đầu đưa ra những
kết luận về phái tính và tính chất liên tục của những huyền thoại mà tiêu biểu ở đây là
huyền thoại về công chúa Ngọc Hân và Hồ Xuân Hương trong việc xây dựng căn
cước dân tộc và tạo ra tính liên tục của lịch sử. Olga Dror với bài viết gây nhiều tranh
cãi khi giải thiêng hình tượng mẫu Liễu Hạnh, cấp cho hình tượng thiêng liêng này
những đặc điểm tự do, phóng khống hồn tồn khác biệt với đặc điểm cần-phải-có
của một hình tượng dân tộc, đã tạo ra những chiều dư luận mới mẻ và gợi dẫn đến

18


dấu vết của cái nhìn nữ quyền luận trong nghiên cứu văn học cổ nhìn từ một trường
hợp (case study) cụ thể. Nathalie Uyen với bài viết Nữ chính kinh điển và hóa thân
thời hiện đại: Truyện Kiều và những tương đồng trong Printemps Inachevé đã nhấn
mạnh ở các khả thể mà Truyện Kiều có thể gợi ra từ góc độ tiếp cận so sánh:
“Đọc Truyện Kiều trong mối quan hệ với một văn bản Việt Nam hiện đại viết bằng
tiếng Pháp, người ta khơng chỉ có thể nhấn mạnh vai trị của nàng trong tư cách một
mẫu hình phụ nữ, mà còn chất nghi những cách diễn giải truyền thống đối với
chính Truyện Kiều” [147]. Đây đều là những gợi dẫn và nguồn tư liệu tham khảo thú

vị, ý nghĩa, gợi nhiều khám phá đối với luận án.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Khái niệm giới và nghiên cứu giới
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi bước đầu giới thuyết một số khái niệm
cơ bản bao gồm: giới tính, giới hay phái tính. Giới tính (sex) hay cịn được gọi là
giới tính sinh học bao gồm các đặc điểm sinh học khác biệt của nam và nữ (bao
gồm khác biệt về cơ quan sinh dục và khả năng sinh sản) được hình thành từ khi
sinh ra và khơng thể thay đổi được. Khái niệm giới (gender) mới xuất hiện trong
thời gian gần đây (vào thập niên 50-60 của thế kỷ XX) [182, tr.1-2]. Vào thời cổ đại,
khái niệm giới chưa được hình thành hay “gọi tên” dù trong các nền văn minh cổ
đại như Hy Lạp hay La Mã có tồn tại các phạm trù nam - nữ, nam tính/ nữ tính...
Giới (gender) hay cịn được gọi là giới tính xã hội là các đặc điểm liên quan đến sự
khác biệt giữa nam tính và nữ tính. Khái niệm này do John Money đề xuất vào năm
1955, đề cập tới giới tính xã hội để phân biệt với giới tính sinh học. Tuy nhiên, định
nghĩa của Money khơng được biết tới rộng rãi cho tới những năm 70 của thế kỷ XX,
khi mà thuyết nữ quyền phát triển khái niệm về sự khác biệt giữa giới tính sinh học
và giới tính xã hội.
Trong luận án, chúng tơi thống nhất cách sử dụng khái niệm “giới” hoặc
“phái tính” (gender). Giới/ phái tính (gender) là khái niệm dùng để phân biệt nam
và nữ dựa trên các đặc điểm về văn hóa - xã hội. Theo đó, mỗi xã hội với đặc trưng
văn hóa riêng biệt sẽ hình thành quan điểm mang tính đặc thù về nam tính và nữ
tính. Như thế, phái tính là sản phẩm được kiến tạo trên nền tảng của văn hóa - xã
hội. Nó khơng phải là khái niệm đóng cứng có tính “nhất thành bất biến” mà có thể
biến đổi theo sự vận động của nền văn hóa - xã hội và bối cảnh lịch sử. Nói khác đi,

19


×