Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

HẠ TẦNG THANH TOÁN THẺ của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.56 KB, 18 trang )

HẠ TẦNG THANH TOÁN THẺ CỦA VIỆT NAM
I, Tìm hiểu về thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ
1,Thẻ tín dụng
Khái niệm: Thẻ tín dụng là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp. Hình thức
thanh toán này được thực hiện dựa trên uy tín. Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi
mua hàng. Thay vào đó, Ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh
toán lại sau cho ngân hàng khoản giao dịch. Thẻ tín dụng cho phép khách hàng “trả dần” số
tiền thanh toán trong tài khoản. Chủ thẻ không phải thanh toán toàn bộ số dư trên bảng sao
kê giao dịch hằng tháng. Tuy nhiên, Chủ thẻ phải trả khoản thanh toán tối thiểu trước ngày
đáo hạn đã ghi rõ trên bảng sao kê. Thẻ tín dụng khác với thẻ ghi nợ vì tiền không bị trừ trực
tiếp vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ ngay sau mỗi lần mua hàng hoặc rút tiền mặt.
+, Cách thức hoạt động
Thẻ tín dụng được phát hành sau khi nhà cung cấp dịch vụ tín dụng duyệt chấp thuận tài
khoản thẻ, sau đó chủ thẻ có thể sử dụng nó để mua sắm tại các điểm bán hàng chấp nhận
loại thẻ.
Khi mua sắm, người dùng thẻ cam kết sẽ trả tiền cho nhà phát hành thẻ. Chủ thẻ thể hiện
cam kết này bằng cách ký tên lên hóa đơn có ghi chi tiết của thẻ cùng với số tiền, hoặc bằng
cách nhập một mật mã cá nhân (PIN). Ngoài ra nhiều điểm bán hàng cũng chấp nhận cách
thức xác minh qua điện thoại hoặc xác minh qua internet cho những giao dịch được gọi là
giao dịch vắng thẻ hoặc vắng chủ thẻ (CNP - Card/Cardholder Not Present).
Chủ thẻ cũng có thể rút tiền mặt từ tài khoản thẻ tín dụng (tiền mặt ứng trước) nếu muốn
Người ta sử dụng nhiều hệ thống điện tử để xác minh trong vòng vài giây tính hợp lệ của thẻ
cũng như kiểm tra xem hạn mức tín dụng của thẻ còn đủ chi trả cho lần mua sắm đó không.
Việc xác minh được thực hiện bằng một đầu đọc thẻ (POS - Point of Sale) kết nối vào ngân
hàng thu nhận (acquiring bank) của người bán hàng. Đầu đọc đọc dữ liệu của thẻ từ dải từ
tính hoặc từ bản vi mạch trên thẻ. Loại thẻ mới sử dụng bản vi mạch thường được gọi là thẻ
"chip" hoặc thẻ EMV.
Các nhà bán hàng trực tuyến thường sử dụng một các thức khác để xác minh tài khoản thẻ,
trong đó chủ thẻ thường phải cung cấp thêm thông tin như mã số an ninh in ở mặt sau thẻ,
địa chỉ chủ thẻ hoặc mật khẩu định trước.
Hàng tháng, chủ thẻ nhận được một bảng kê trong đó thể hiện các giao dịch thực hiện bằng


thẻ, các khoản phí và tổng số tiền nợ. Sau khi nhận bảng kê, chủ thẻ có quyền khiếu nại bác
bỏ một số giao dịch mà anh/chị ta cho là không đúng. Nếu không khiếu nại gì, trước ngày
đến hạn, chủ thẻ phải trả một phần tối thiểu định trước, hoặc nhiều hơn, hoặc trả hết món nợ.
Nhà cung cấp dịch vụ tín dụng sẽ tính lãi trên phần còn nợ (thường là với lãi suất cao hơn lãi
suất của hầu hết những hình thức vay nợ khác). Nhiều tổ chức tài chính có thể sắp xếp việc
trả nợ tự động, cắt tiền từ tài khoản ngân hàng của chủ thẻ (nếu có đủ tiền) để tránh trễ hạn
trả nợ.
+,Hình thức thẻ
Hầu hết các thẻ tín dụng được phát hành bởi các ngân hàng địa phương hay các tổ chức tín
dụng. Thẻ tín dụng ban đầu chỉ được làm bằng giấy cứng, có nhiều hình thức, kích cỡ khác
nhau tùy theo ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng phát hành ra nó. Cách thức sử dụng thẻ cũng
chỉ giới hạn trong khu vực hẹp, nơi mà người ta có thể nhận dạng trực tiếp các chủ thẻ. Do
sự tiến bộ của khoa học, cùng với sự phát triển của nhu cầu sử dụng, thẻ tín dụng ngày nay
đều dùng chất liệu nhựa polyme, thống nhất có cùng hình dạng và kích thước theo tiêu chuẩn
ISO 7810
2, Thẻ ghi nợ
Khi sở hữu thẻ ghi nợ, chủ thẻ có thể thanh toán/rút tiền mặt trên cơ sở số tiền đang có
trong tài khoản. Thẻ ghi nợ có hai loại, theo phạm vi sử dụng: thẻ ghi nợ nội địa và quốc tế.
+, Thẻ ghi nợ nội địa:
Thẻ ghi nợ nội địa là phương tiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ không dùng tiền mặt. Quý
khách hàng chi tiêu và rút tiền trực tiếp trên tài khoản tiền gửi của quý khách mở tại Ngân
hàng, Khi trong tài khoản của Quý khách không có tiền, Quý khách không thể sử dụng thẻ
ghi nợ để thanh toán hay rút tiền. Thẻ ghi nợ nội địa có giá trị sử dụng trong phạm vi Việt
Nam.
Với thẻ ghi nợ, quý khách có thể thanh toán hàng hoá, dịch vụ cũng như rút tiền mặt tại các
điểm rút tiền và các máy rút tiền tự động ATM. Hạn mức chi tiêu, mua sắm của quý khách
không hạn chế, tuỳ vào số dư trên tài khoản của quý khách. Đối với giao dịch rút tiền mặt tại
ATM, lượng tiền rút phụ thuộc vào hạn mức ngày của thẻ.
Thẻ ghi nợ nội địa cho phép quý khách hàng nhanh chóng tiếp cận nhanh chóng với phương
thức thanh toán thẻ, làm quen với các dịch vụ ngân hàng tự động tại ATM, làm quen với việc

chi trả không dùng tiền mặt tại các ĐVCNT.
+, Thẻ ghi nợ quốc tế:
Thẻ ghi nợ hay thẻ trả trước quốc tế (Debit/ Prepaid Card) là sản phẩm thẻ thanh toán toàn
cầu do các ngân hàng liên minh với các tổ chức thẻ thanh toán quốc tế như Visa,
MasterCard… phát hành. Nó có những tính năng, cách sử dụng và hình thức y hệt như 1 thẻ
tín dụng. Điều khác biệt mấu chốt giữa thẻ ghi nợ/ trả trước và thẻ tín dụng đó là: trong khi
thẻ tín dụng cho phép người dùng chi xài tiền trước rồi sau đó mới hoàn trả ngân hàng vào
cuối kỳ, thì người dùng thẻ ghi nợ phải nộp tiền vào thẻ trước khi sử dụng và chỉ được chi
tiêu tối đa số tiền có trong thẻ. Nói cách khác, chủ thẻ chi dùng trên số dư thực tế của thẻ.
Chính sự khác biệt này khiến cho thẻ ghi nợ được ưa thích hơn và phù hợp với nhu cầu của
số đông người dùng bởi đặc điểm dễ dàng quản lí chi tiêu, tránh được rủi ro vay nợ tín dụng
cũng như giảm thiểu thiệt hại trong những trường hợp bị đánh cắp thông tin thẻ.
• Nộp tiền vào thẻ bằng VNĐ. Ngân hàng sẽ tự động qui đổi ra ngoại tệ theo tỉ giá tại
thời điểm có giao dịch thanh toán.
• Rút tiền và thanh toán ở bất kì máy ATM và điểm giao dịch nào có biểu tượng VISA/
MASTER…
• Thanh toán online tại các website/ dịch vụ chấp nhận credit/ debit card, bao gồm việc
nạp tiền vào tài khoản poker.
• Nhận tiền thanh toán vào thẻ trên phạm vi toàn cầu.
• -Tiền chưa sử dụng trong thẻ sinh lãi hàng ngày theo lãi suất không kỳ hạn.
• -Các loại phí dịch vụ rẻ.
Để sử dụng thẻ ghi nợ, khách hàng phải có tài khoản thẻ tại ngân hàng (có thể mở tài
khoản khi đăng ký sử dụng thẻ). Thẻ ghi nợ được cấp tất cả mọi công dân Việt Nam và
người nước ngoài đang công tác hoặc định cư tại Việt Nam. Thủ tục đăng ký mở thẻ rất đơn
giản, thông thường, bạn chỉ cần một/vài tấm hình 3x4 hoặc 4x6, CMND/Hộ chiếu và điền
vào Đơn đăng ký phát hành thẻ theo mẫu ngân hàng.
Với thẻ ghi nợ, khách hàng có thể thanh toán hoặc rút tiền mặt tại các điểm chấp nhận thẻ,
máy ATM. Khách hàng cũng có thể kiểm tra tài khoản, đổi mật mã, chuyển khoản, xem và
in sao kê giao dịch ngay trên ATM. Bên cạnh đó, thẻ ghi nợ còn có những tiện ích đáng
chú ý như:

- Tiền chưa sử dụng trong thẻ sinh lãi hàng ngày theo lãi suất không kỳ hạn
- Miễn phí rút tiền khi rút tại máy ATM trong hệ thống
- Có thể dùng để thanh toán tự động các khoản chi định kỳ như tiền điện, nước, điện thoại,
internet, bảo hiểm, trả nợ vay…
- Một số ngân hàng cho phép chủ thẻ chi tiêu đến đồng cuối cùng trong thẻ hoặc được phép
thấu chi khi tài khoản hết tiền
II, Sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam
1, Số lượng ngân hàng phát hành thẻ
Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích, được các ngân hàng
thươngmại (NHTM) chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh chóng. Tính đến cuối
tháng 03/2013, đã có 52 tổ chức đăng ký phát hành thẻ, số lượng thẻ được phát hành của 48
tổ chức đạt trên 57,1 triệu thẻ (tăng 38,5% so với cuối năm 2011) với khoảng 378 thương
hiệu thẻ, trong đó hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm 93,6%), thẻ tín dụng (chiếm 3,1%); tỷ lệ sử
dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện TTKDTM khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch
vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp NHTM có thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm
các dịch vụ giá trị gia tăng với nhiều tiện ích khác nhau cung cấp cho khách hàng.
(Đơn vị: triệu )
Loại ngân hàng Số lượng
thẻ phát hành
31/12/2011
Số lượng
thẻ phát hành
31/12/2012
Ngân hàng thương mại Nhà nước 5 5
Ngân hàng chính sách 1 1
Ngân hàng thương mại CP 35 34
Ngân hàng liên doanh 4 4
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 5 5
tổng 50 49
Bảng 1 : Bảng tổng kết số lượng thẻ phát hành của một số NHVN 2011-2012

2, Tỷ lệ sử dụng hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam
Theo kết quả nghiên cứu mới đây của Moody Alalitics – công ty chuyên tư vấn và nghiên
cứu kinh tế độc lập - tăng trưởng trong việc sử dụng các sản phẩm thanh toán điện tử
(TTĐT) như thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ đã đóng góp 1,2 tỷ USD (25 nghìn tỷ đồng) vào GDP
của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012.
Tuy nhiên, với tỷ lệ thanh toán qua thẻ chỉ đạt 10% trên tổng số khoảng 54 triệu thẻ ngân
hàng ở Việt Nam hiện nay cho thấy, con số này còn ở mức quá khiêm tốn.
2.1,Thực trạng thanh toán bằng thẻ ở nước ta:
Thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt vẫn là phương tiện
thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao
dịch thanh toán của khu vực dân cư. Đến hết năm 2011, tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện
thanh toán ghi nhận mức 14%, số liệu này tuy đã giảm đáng kể so với năm 2004 với mức là
20,3% nhưng vẫn còn ở mức cao so với thế giới. Mục tiêu đề án đẩy mạnh thanh toán không
dung tiền mặt đến năm 2015 tỷ lệ này chỉ còn 11%.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt các
ngân hàng thương mại đã không ngừng nỗ lực để đưa dịch vụ thẻ trở thành một phương tiện
thanh toán đến đại đa số khách hàng. Dịch vụ thẻ không những là một công cụ hữu hiệu để
trả lương mà còn để thực hiện các dịch vụ gia tăng, là cầu nối giữa khách hàng và dịch vụ
ngân hàng, trở thành một công cụ thanh toán tiện ích đối với đa số người dân Việt Nam.
Theo thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia về số lượng tài khoản đến ngày
30/06/2012 đối với Nhóm 14 ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Số lượng tài khoản tiền gửi
thanh toán của cá nhân hiện tại là 30.605.024 tài khoản, trong đó số dư tài khoản tiền gửi
thanh toán của cá nhân là 56.632.553 triệu đồng. Mặt khác, số lượng tài khoản tiền gửi thanh
toán của các tổ chức chỉ có 1.003.288 tài khoản nhưng lượng giao dịch qua tài khoản của
nhóm này đã lên đến 162.962.140 triệu đồng. Mặc dù số lượng tài khoản thanh toán đăng ký
của các cá nhân với ngân hàng không ngừng tăng trong thời gian qua nhưng hiệu quả sử
dụng đạt tỷ lệ thấp so với kỳ vọng.
Để triển khai dịch vụ thẻ và hệ thống ATM phục vụ khách hàng, các ngân hàng phải đầu tư
các khoản chi phí lớn lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng về hạ tầng kỹ thuật, chi phí cho lượng
tiền nạp sẵn vào máy ATM, chi phí về nghiệp vụ, nhân sự,… Trong suốt 10 năm qua, với

mục tiêu tạo thói quen sử dụng phương tiện thanh toán hiện đại cho người dân, ngoài việc
cung cấp dịch vụ cơ bản tại ATM như rút tiền, truy vấn thông tin, các ngân hàng đã không
ngừng cập nhật nhiều tiện ích trên sản phẩm thẻ ghi nợ cho khách hàng như chuyển khoản,
thanh toán cước phí điện thoại, tiền điện, nước, Internet, thanh toán phí bảo hiểm, tiền mua
hàng hoá/dịch vụ, thanh toán trực tuyến…
Doanh số chi tiêu qua thẻ tăng cao trong năm 2011 cho thấy người tiêu dùng đang dần thích
sử dụng thẻ thanh toán để mua hàng, thay vì tiền mặt.Theo số liệu của Hiệp hội Thẻ Việt
Nam, tính tới cuối năm 2011, tổng giá trị giao dịch của các loại thẻ tại thị trường Việt Nam
lên đến 32 tỉ USD, tuy nhiên giao dịch rút tiền vẫn còn rất lớn, chiếm hơn 80%. Đại diện các
siêu thị Coopmart, Big C, Citimart, Maximark cho biết thanh toán không dùng tiền mặt chỉ
đạt xấp xỉ 1% và không quá 5% tổng doanh thu. Nguyên nhân chính của thực trạng này có
thể xuất phát từ việc còn thiếu các điểm chấp nhận thẻ, cũng như thói quen trả tiền mặt khi
mua sắm của các khách hàng Việt Nam.
Cho đến nay số lượng thẻ ghi nợ nội địa (ATM) đang lưu hành là 28.720.311 thẻ trên tổng số
hơn 40 triệu thẻ được phát hành bởi các tổ chức tín dụng trên toàn quốc. Ngoài ra các ngân
hàng này còn phát hành thẻ ghi nợ và tín dụng quốc tế với số lượng là 2.322.580 thẻ. Số
lượng máy rút tiền tự động ATM hiện đã dải khắp 63 tỉnh thành trong cả nước với số lượng
lên đến 10.560 máy.
Trong 37.346.990 giao dịch qua ATM của nhón 14 ngân hàng lớn thì có đến 26.850.331 là
giao dịch rút tiền mặt tại ATM. Còn lại các giao dịch là thanh toán chuyển khoản, thương
mại điện tử Điều này cho thấy, hoạt động thanh toán sử dụng tiền mặt của người dân hiện
vẫn còn rất cao.
+,Hình thành thói quen sử dụng thẻ thanh toán
Mặc dù vậy, người tiêu dùng đã có dấu hiệu thích mang theo chiếc thẻ đi mua sắm thay vì
lỉnh kỉnh tiền mặt. DongABank (DAB) là ngân hàng có lượng thẻ lớn trên thị trường với hơn
6,066 triệu thẻ các loại, tính đến cuối năm 2011. Tổng chi tiêu qua thẻ của DAB trong năm
đã tăng hơn 40,64% so với năm 2010. Số lượng thẻ tín dụng quốc tế của DAB chỉ là 7.155
thẻ, chiếm 0,12% tổng lượng thẻ phát hành, nhưng chi tiêu của loại thẻ này đã đạt 141,573 tỉ
đồng, chiếm 21% tổng doanh thu.
Ông Trịnh Thường Thức - trưởng phòng thẻ thuộc ngân hàng Vietcombank Tp. HCM - cho

biết, năm 2011, chỉ tính riêng chi nhánh Vietcombank Tp. HCM, chi tiêu (không kể rút tiền)
bằng thẻ ghi nợ nội địa qua các kênh thanh toán trực tiếp, mạng mỗi tháng ước chừng 30 tỉ
đồng, trong đó lượng thanh toán thông qua POS tăng mạnh. Riêng chi tiêu của các chủ thẻ
tín dụng của Vietcombank Tp. HCM đạt khoảng 200 tỉ đồng/tháng.Vietcombank hiện có 6
triệu thẻ nội địa và 1 triệu thẻ quốc tế, với mức tăng trưởng chi tiêu tăng trưởng bình quân
30% mỗi năm. “Thẻ tín dụng được chấp nhận ở mọi nơi trên thế giới, cùng cái lợi chi trước
trả tiền sau 45 ngày không lãi suất, nên đạt doanh số lớn”, ông Thức nói.
Ông Godfrey Swain - giám đốc khối dịch vụ tài chính cá nhân và quản lý tài sản của ngân
hàng HSBC Việt Nam - cho biết, mảng kinh doanh thẻ tín dụng của HSBC có mức tăng
trưởng đáng kể. Tổng chi tiêu thực hiện qua thẻ tín dụng của HSBC Việt Nam có tỉ lệ tăng
trưởng bình quân trong 3 năm qua là hơn 90%. Phần lớn chủ thẻ HSBC là người Việt Nam,
và hơn 50% thanh toán bằng thẻ tín dụng của HSBC được thực hiện ở nước ngoài.
Singapore, Mỹ, Hồng Kông, Anh, Úc là những nơi mà khách hàng HSBC đến và chi tiêu
nhiều nhất; lĩnh vực chi tiêu chủ yếu là các dịch vụ ăn uống, quần áo, phụ kiện, du lịch và
bán lẻ. HSBC cũng nhận thấy có sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng thanh toán cũng
như số điểm chấp nhận thẻ tại thị trường Việt Nam.
“Chi tiêu qua thẻ ghi nợ nội địa tăng, nhưng thẻ tín dụng tăng mạnh hơn. Bình quân mỗi
khoản chi tiêu qua thẻ tín dụng Vietcombank là 3 triệu đồng/giao dịch, nhiều người dùng thẻ
3 đến 4 lần/tuần. Chủ thẻ tín dụng ngày càng chi tiêu tại thị trường Việt Nam nhiều hơn,
chiếm khoảng 30 - 40%”, ông Thức cho biết.
+, Việt Nam sẽ có thêm hàng triệu chủ thẻ mới bắt đầu làm quen với việc dùng thẻ
thanh toán, thay vì dùng tiền mặt.
Theo số liệu của công ty nghiên cứu thị trường Research & Markets (Mỹ) đưa ra vào cuối
năm 2011, thị trường thẻ Việt Nam được đánh giá là một thị trường năng động hàng đầu thế
giới, với mức tăng trưởng khoảng 18,5% từ nay đến năm 2014. Trong đó, có hơn 20 ngân
hàng triển khai Internet Banking và gần 8 ngân hàng triển khai m-banking ở các mức độ
khác nhau. Theo Hiệp hội Thẻ Việt Nam, tổng số thẻ phát hành toàn hệ thống đạt khoảng 40
triệu thẻ, số lượng ATM là khoảng 13.000 máy và POS là 70.000.
2.2, Những nguyên nhân tồn tại
 Chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chưa đồng bộ

• Việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ nội địa vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Do phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người VN, vốn quá quen với việc sử
dụng tiền mặt và lại luôn có sẵn tiền mặt cũng như dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền
mặt có tại các ATM, nên việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt còn rất hạn chế.
• Các phương tiện thanh toán hiện nay chưa được triển khai trên diện rộng để đáp ứng
nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế. Các phương tiện thanh toán này còn mới mẻ
và bỡ ngỡ với phần lớn người dân; tâm lý e dè, sợ rủi ro đã ngăn cản việc tiếp cận
của người tiêu dùng với các phương tiện thanh toán mới. Các thanh toán trong khu
vực dân cư phần lớn vẫn sử dụng tiền mặt, ngay cả ở thành thị, nơi có điều kiện
thuận lợi cho phát triển các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, việc sử
dụng tiền mặt vẫn còn phổ biến.
• Dịch vụ thẻ ngân hàng mới có sự gia tăng về số lượng nhưng chưa có sự chuyển
biến thực sự về chất lượng; mục tiêu cuối cùng là sử dụng thẻ để thanh toán hàng
hóa, dịch vụ thay cũng chỉ đạt khoảng 17% giao dịch còn lại là thực hiện rút tiền
mặt tại hệ thống ATM; dịch vụ đi kèm ATM đã có nhưng chưa nhiều. Hệ thống
POS chưa phát triển rộng, thanh toán qua POS còn hạn chế; số lượng giao dịch qua
POS còn ít (chỉ đạt chưa đến 5% doanh số bán hàng).
 Phí chưa thỏa đáng
• Các giao dịch qua ATM, thanh toán thẻ tín dụng đều phải trả phí khi mà cơ sở hạ
tầng của hệ thống thanh toán này còn quá nhiều bất cập. Gần đây nhất NHNN đã
thống nhất việc thu phí dịch vụ bắt đầu từ năm 2013 trên cơ sở đề xuất mức phí từ
các ngân hàng.
• Các đơn vị kinh doanh không muốn chấp nhận thẻ một phần do phải trả phí ngân
hàng, một là phải công khai doanh thu. Vì thế, một số đơn vị chấp nhận thẻ
(ĐVCNT) dù đã ký hợp đồng chấp nhận thẻ với ngân hàng nhưng vẫn tìm nhiều
cách hạn chế các giao dịch bằng thẻ của khách hàng như để máy cà thẻ vào nơi
khuất, ưu tiên khách hàng trả tiền mặt,…
• Thực tế các ngân hàng chạy đua hạ mức phí chiết khấu cho các ĐVCNT khiến cho
việc phát triển mạng lưới POS không có hiệu quả do các ngân hàng không có nguồn

thu bù đắp chi phí đầu tư mua sắm thiết bị, chi phí cho nhân sự để phát triển
ĐVCNT.
 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán phát triển chưa đồng bộ
Mặc dù số lượng ATM, POS được lắp đặt tăng đều qua các năm nhưng thực tế là tỷ
trọng so với số dân vẫn còn thấp, chưa phân bố đều (chủ yếu tập trung tạo các đô thị
lớn, khu công nghiệp).
Hoạt động của hệ thống phục vụ thanh toán chưa đảm bảo, còn tiềm ẩn nguy cơ về
bảo mật.
 Khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện
• Cơ sở pháp lý đối với thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn lạc hậu so với thực tế
• Cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt chưa thật đồng
bộ, chưa khuyến khích đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng.
• Chưa có quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải thanh toán qua thẻ, giảm
thuế/hoàn thuế cho các giao dịch thanh toán bằng thẻ, miễn/giảm thuế nhập khẩu đối
với thiết bị thanh toán thẻ…
 Nguyên nhân khác
• Hiện tượng phá máy ATM để lấy tiền gia tăng.
• Tội phạm trong lĩnh vực thanh toán gia tăng chủ yếu liên quan đến gian lận tài khoản
thẻ và thẻ giả, thẻ bị mất cắp, thất lạc… Trong đó, gian lận tài khoản thẻ thường xảy
ra với các giao dịch không xuất trình thẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn đáng kể so với gian
lận thẻ giả
Nhằm đa dạng hóa dịch vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thanh toán điện tử và chú trọng
phát triển thanh toán không dùng tiền mặt để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế, cuối
tháng 12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng
tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn hai (2011 - 2015). Theo đó, đề án đã chỉ rõ mục tiêu cần phải
đạt được đến cuối năm 2015 là tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán dưới 11%,
nâng tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng lên 35 - 40%; triển khai 250.000 điểm giao dịch
với số lượng trên 200 triệu giao dịch/năm
Cụ thể, một số khuyến nghị đưa ra như sau:

* Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an toàn, thuận tiện;
* Lựa chọn áp dụng một số mô hình thanh toán phù hợp với Việt Nam để xây dựng nền tảng,
tạp bước phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực nông thôn;
* Tăng cường quản lý thanh toán tiền mặt, giảm sử dụng tiền mặt trong các giao dịch thanh
toán; cần chú trọng triển khai thực hiện đồng bộ 5 nhóm giải pháp:
Một là, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách;
Hai là, nâng cao chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật;
Ba là, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán, ứng dụng các phương tiện
thanh toán mới, hiện đại;
Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn trong toàn xã hội;
Năm là, đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ khác như đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nhận được sự
hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan Bộ, ngành trong việc triển
khai các giải pháp, tăng cường nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ tham gia xây
dựng chính sách, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động thanh toán trong nền
kinh tế…
Theo thống kê mới nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối tháng 03/2013, đã
có 52 tổ chức đăng ký phát hành thẻ, số lượng thẻ được phát hành của 48 tổ chức đạt trên
57,1 triệu thẻ (tăng 38,5% so với cuối năm 2011) với khoảng 378 thương hiệu thẻ, trong đó
hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm 93,6%), thẻ tín dụng (chiếm 3,1%); tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng
so với các phương tiện thanhtoán không dùng tiền mặt (TTKDTM) khác đang có xu hướng
tăng lên.
III, Các phương pháp marketing cho dịch vụ thẻ của các ngân hàng Việt Nam:
Marketing là một công cụ vô cùng quan trọng giúp các doanh nghiệp đưa sản phẩm tới người
tiêu dùng và thu hút họ. Và hiện nay, đây cũng là công cụ hữu hiệu nhất mà các ngân hàng
sử dụng để phát triển dịch vụ thẻ trên thị trường. Có rất nhiều các công cụ marketing mà các
ngân hàng có thể lựa chọn để đẩy mạnh dịch vụ thẻ và nó còn tùy thuộc vào từng ngân hàng
cụ thể, cũng như chiến lược kinh doanh, thị trường mục tiêu của họ mà việc sử dụng các
phương pháp marketing sẽ linh hoạt. Các phương pháp marketing mà các ngân hàng sử dụng
phổ biến hiện nay gồm:
1. Marketing trực tiếp qua thư điện tử ( email- marketing):

Đây là phương pháp hiệu quả mà ít tốn kém nên các ngân hàng thường xuyên sử dụng để
giới thiệu về dịch vụ thẻ tới khách hàng của mình. Họ sẽ gửi những email tới danh sách các
khách hàng của họ, gồm một đoạn thông điệp ngắn gọn quảng bá về các loại thẻ của ngân
hàng, ưu đãi khi KH sử dụng thẻ
2. Tổ chức sự kiện
Tài trợ hoặc tổ chức cho những sự kiện có ảnh hưởng đến xã hội.Gắn liền nhãn hiệu của bạn
với sự kiện này, sản phẩm sẽ nhanh chóng trở nên nổi tiếng.Trong các sự kiện này, các ngân
hàng có thể trực tiếp giới thiệu cácloại thẻ của họ, có thể giải đáp những thắc mắc về loại
hình dịch vụ này cho KH.
3. Đưa bản tin
Bản tin là một công cụ đặc biệt hiệu quả, nhất là đối với các ngân hàng. Bằng cách đưa
bản tin, doanh nghiệp đã chứng tỏ họ làm chủ về lĩnh vực của mình. Bản tin cũng có thể cho
phép ngân hàng đưa tin về những sản phẩm mới, giá cả và những hoạt động khác nhau của
doanh nghiệp, đặc biệt là những hoạt động xã hội - điểm tạo nên cái nhìn thiện cảm của công
chúng đối với doanh nghiệp.
4. Liên kết với các trường ĐH, CĐ
Vào các dịp đầu năm học, các ngân hàng thường liên kết các trường ĐH, CĐ để phát hành
thẻ tín dụng miễn phí cho sinh viên như Vietinbank, Agribank, Sinh viên cũng là một
trong những đối tượng quan trọng mà các ngân hàng muốn tập trung tới. Trong đối tượng
này thì chủ yếu sử dụng loại thẻ tín dụng.
5. Tham gia các hoạt động từ thiện, tài trợ
Tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo, tật nguyền. Ngoài ra bạn
có thể tài trợ cho các hoạt động thể thao, đỡ đầu một đội bóng. Những hoạt động này sẽ giúp
tạo nên ấn tượng tốt đẹp, và đưa công ty đến gần hơn với công chúng. Điều này cũng tác
động lớn đến lượng khách hàng sử dụng thẻ của các ngân hàng.
6. Quảng cáo trên các phương tiện truyềnthông:
TV, đài, báo chí là những công cụ tạo hiệu quả rất cao và nhanh chóng khi DN muốn đưa
sản phẩm tới công chúng. Các ngân hàng có thể qua đó quảng cáo về dịch vụ thẻ của mình,
các loại thẻ của ngân hàng, các hình thức ưu đãi khách hàng khi sử dụng những loại thẻ đó.
IV, Rủi ro khi thanh toán thẻ

1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ là các tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất có liên
quan đến hoạt động kinh doanh thẻ, bao gồm hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ. Đối tượng chịu rủi ro là ngân hàng, chủ thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ.
2. Các rủi ro trong thanh toán thẻ hiện nay
2.1 Xét rủi ro từ góc độ vĩ mô
- Rủi ro do môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh thẻ, quá trình thực hiện giao dịch đôi khi có liên quan đến các
chủ thể nước ngoài, do vậy có một số vấn đề không những bị điều chỉnh bởi luật pháp trong
nước mà còn bị điều chỉnh bởi luật pháp nước ngoài,thông lệ quốc tế. Nếu các chủ thể tham
gia trong hoạt động thẻ không nắm bắt được hết các nội dung, qui phạm pháp luật sẽ dễ dẫn
đến rủi ro.
Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do luật pháp quốc gia, luật pháp quốc tế hoặc các thông lệ
quốc tế có nhiều điểm khác nhau.
- Rủi ro do tình hình kinh tế thay đổi:
Sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh thẻ cũng như các lĩnh vực khác phụ thuộc chủ yếu vào
sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế thay đổi, cụ thể là các cơ chế, chính sách như
thuế thu nhập, thuế nhập khẩu,… sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu hoặc du lịch, cũng như
khả năng hoàn trả của chủ thẻ. Bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đầu tư, đổi
mới trang thiết bị ngành thẻ của các ngân hàng. Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do ảnh
hưởng của nền kinh tế thế giới hoặc có thể là do yếu kém trong quản lý của các cấp làm cho
nền kinh tế phát triển không ổn định.
- Rủi ro do tình hình chính trị thay đổi:
Hệ thống chính trị xảy ra biến cố sẽ tác động đến nền kinh tế, dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro,
đặc biệt trong quan hệ với nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế.Bất cứ một lệnh cấm vận nào
có hiệu lực thực hiện với nước có liên quan đều ảnh hưởng và có thể gây nên tổn thất.
Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do tình hình chính trị trên thế giới biến động làm ảnh
hưởng đến các chính sách kinh tế trong nước, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ của các ngân
hàng với nhau và với chủ thẻ.
2.2 Rủi ro từ góc độ các ngân hàng thương mại

Kinh doanh thẻ được coi là khá an toàn so với các loại hình dịch vụ khác của ngân hàng. Tuy
vậy, đối với các tổ chức phát hành và thanh toán thẻ, việc phòng ngừa và quản lí rủi ro vẫn là
một vấn đề rất quan trọng. Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng nằm trong
hai khâu: phát hành thẻ và thanh toán thẻ.
Rủi ro trong phát hành
* Đơn xin phát hành thẻ giả
Do không thẩm định kĩ thông tin của khách hàng, ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách
hàng đăng kí với những thông tin giả mạo. Và như vậy, ngân hàng có thể gặp rủi ro khi
khách hàng không có khả năng thanh toán. Tuy vậy trên thực tế, điều này rất hiếm khi xảy ra
vì hợp đồng thẻ rất dễ kiểm tra và có đảm bảo cao do có thế chấp hoặc tài khoản tiền gửi của
khách hàng tại ngân hàng.
* Chủ thẻ thật không nhận được thẻ đã phát hành
Ngân hàng gửi thẻ cho chủ thẻ qua đường bưu điện nhưng trên đường vận chuyển thẻ bị
đánh cắp và bị sử dụng mà chủ thẻ không hay biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình.
Trong trường hợp này, ngân hàng phát hành thẻ phải chịu hoàn toàn phí tổn về những giao
dịch được thực hiện.
* Tài khoản thẻ bị lợi dụng
Rủi ro này phát sinh tại thời điểm ngân hàng gia hạn hoặc phát hành lại thẻ.Ngân hàng phát
hành nhận được thông báo về thay đổi địa chỉ khách hàng và yêu cầu gửi thẻ về địa chỉ mới.
Do không kiểm tra tính xác thực của thông tin nên ngân hàng đã gửi thẻ đến địa chỉ mới theo
yêu cầu của khách hàng nhưng đây không phải là yêu cầu của chủ thẻ thật. Tài khoản của
chủ thẻ đã bị người khác lợi dụng. Điều này chỉ bị phát hiện khi ngân hàng nhận được sự liên
hệ của chủ thẻ thật do không nhận được thẻ hoặc ngân hàng gửi yêu cầu thanh toán cho chủ
thẻ.
Rủi ro trong thanh toán
Đây là khâu thường xảy ra rủi ro trong kinh doanh thẻ.Rất nhiều rủi ro đã xảy ra cho các tổ
chức phát hành và thanh toán thẻ trong khâu này.
* Thẻ giả
Thẻ bị làm giả bởi các tổ chức tội phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ theo thông tin có được
từ các chứng từ giao dịch của thẻ hoặc thẻ mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng để tạo ra

các giao dịch giả mạo gây tổn thất lớn cho các ngân hàng phát hành.
* Thẻ bị mất cắp, thất lạc
Trong lưu hành thẻ, trường hợp này rất dễ xảy ra đối với khách hàng và ngân hàng.Trong
trường hợp thẻ bị mất, chủ thẻ không thông báo kịp cho ngân hàng dẫn dến thẻ bị người khác
lợi dụng gây ra các giao dịch giả mạo làm tổn thất cho khách hàng.Ngoài ra với những thẻ
này, các tổ chức tội phạm có thể mã hóa lại thẻ, thực hiện giao dịch, trường hợp này đem lại
rủi ro cho bản thân ngân hàng phát hành.
* Thẻ được tạo băng từ giả
Đây là loại hình giả mạo thẻ sử dụng công nghệ cao, trên cơ sở thông tin của khách hàng trên
băng từ của cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ các tổ chức tội phạm sử dụng các phần mềm mã
hóa và tạo ra các băng từ giả trên thẻ và thực hiện các giao dịch.Điều này dẫn đến rủi ro cho
cả ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán và chủ thẻ.Loại hình giải mạo thường xuất
hiện ở những nước có dịch vụ thẻ phát triển cao.
* Rủi ro về đạo đức
Đây là rủi ro xảy ra khi nhân viên cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ cố tình in ra nhiều bộ hóa
đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ cho khách hàng, các bộ hóa đơn còn lại sẽ được
giả mạo chữ kí của khách hàng đưa đến ngân hàng thanh toán để yêu cầu ngân hàng chi trả.
Thiệt hại của rủi ro có thể làm ảnh hưởng đến cả ngân hàng phát hành và ngân hàng thanh
toán.
2.3 Rủi ro do gian lận
Gian lận có thể xem như là các hành vi lừa đảo nhằm thực hiện các giao dịch thanh toán thẻ
bất hợp pháp gây tổn thất cho các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh thẻ.
Gian lận phát sinh bất kỳ lúc nào không phân biệt thời gian, địa điểm, cả trong hoạt động
phát hành lẫn thanh toán thẻ. Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do nhiều nhân tố khác nhau
như sự vô ý của chủ thẻ, sự đầu tư công nghệ chưa đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa của các
ngân hàng, lợi dụng các kẻ hở trong qui định qui trình, cũng có thể do ảnh hưởng của tình
hình tội phạm thẻ trên thế giới,….Trong thời gian qua trên thế giới và tại Việt Nam đã xảy ra
các hình thức gian lận như sau:
- Lấy cắp thẻ
Bước đầu tiên, bọn tội phạm lắp vào khe đọc thẻ của máy ATM một miếng nhựa có khả

năng giữ thẻ và ngăn máy nhả thẻ ra. Khi chủ thẻ còn lúng túng chưa biết xử lý ra sao, kẻ
gian đến gần, giả vờ là người tốt bụng sẵn sàng giúp đỡ và “tư vấn” chủ thẻ nên nhập lại số
pin để lấy lại thẻ và theo dõi. Đây là cơ hội để kẻ gian biết được mật mã truy cập tài khoản
thẻ của nạn nhân.Khi chủ thẻ thất vọng bỏ đi, kẻ gian ở lại lấy thẻ ra, sau đó dùng pin vừa
nhìn trộm được để truy cập vào tài khoản và rút tiền.
- Trộm dữ liệu bằng camera
Tội phạm lắp đặt một thiết bị đọc thẻ vào máy ATM, nhưng chúng có thể lấy dữ liệu về tài
khoản và số pin từ xa nhờ một chiếc camera cũng được lắp kín đáo tại máy ATM. Camera
thường được đặt trong một khay để tờ rơi giả nằm cạnh bàn phím, một vị trí có thể ghi hình
toàn bộ các thao tác của chủ thẻ cũng như lưu giữ số liệu. Với công nghệ không dây, toàn bộ
dữ liệu được truyền đến cho kẻ tội phạm đang đứng gần đó. Dữ liệu lấy được sẽ làm nên các
thẻ giả, và sử dụng số pin thu được từ camera để rút tiền của nạn nhân.
- Nhìn trộm qua vai
Kẻ gian có thể đứng gần máy ATM, máy cà thẻ, hay tại các quầy thanh toán của ngân hàng
và theo dõi quá trình chủ thẻ thao tác, đặc biệt là chú ý khi chủ thẻ nhập số pin. Sau đó,
chúng tìm cách làm chủ thẻ mất tập trung, chẳng hạn hét lên, đánh đổ nước uống hoặc nước
sốt vào chủ thẻ hoặc đánh rơi tiền và hỏi đó là tiền của ai.Trong lúc chủ thẻ sao nhãng, kẻ
gian liền lấy trộm toàn bộ thẻ, tiền của chủ thẻ. Khi lấy được thẻ, kẻ gian thực hiện rút tiền
trong thẻ với số pin đã
nhìn trộm được.
- Tộiphạmtạicácquầythanhtoán
Có thể ngay tại quầy thanh toán của các ĐVCNT hay tại các ngân hàng cũng lắp đặt thiết bị
ăn cắp dữ liệu. Thủ đoạn này thường do chính những nhân viên thiếu trung thực lắp đặt chiếc
máy đó và họ sẽ lấy chiếc thẻ cà vào máy để lấy cắp thông tin khi chủ thẻ thực hiện thanh
toán. Sau khi lấy được dữ liệu, những nhân viên này thực hiện các giao dịch bất hợp pháp để
rút tiền hoặc bán dữ liệu vừa trộm được cho bọn tội phạm thẻ chuyên nghiệp. Thậm chí, có
những trường hợp chính các nhân viên đó là người của nhóm tội phạm cài cắm vào.
- Trộm dữ liệu khi thanh toán qua mạng Internet
Bên cạnh các thủ đoạn lừa đảo ngày càng nhiều và tinh vi, hiện tượng thông tin thẻ tín dụng
thanh toán qua mạng Internet bị hacker đánh cắp dữ liệu cũng đang có xu hướng gia tăng.

Các hiện tượng đánh cắp cũng khá đa dạng mà chủ thẻ cần đề phòng như thủ đoạn lừa đảo
trực tuyến (Phishing), với việc tạo website giả để lấy thông tin, tấn công đánh cắp dữ liệu,
chặn luồng giao dịch của thẻ từ để lấy cắp mật khẩu,…. Nghiêm trọng hơn, các đối tượng
hacker còn tung các thông tin thẻ lên các diễn đàn trực tuyến để chia sẻ cho những kẻ xấu
khác có thể lợi dụng.
- Bẫy thẻ
Bẫy thẻ được thực hiện bằng cách gắn một miếng nhựa nhỏ vào bên trong khe đọc thẻ.Miếng
nhựa này sẽ giữ lại thẻ ATM sau khi nạn nhân vừa đưa thẻ vào. Tiếp theo là kẻ gian tiến lại
gần và gợi ý nạn nhân nhập lại mã pin để lấy thẻ ra, nhưng dĩ nhiên là không tài nào rút ra
được. Khi nạn nhân chán nản bỏ đi, tên trộm kéo bẫy ra và lấy thẻ, tiếp đó là đưa thẻ vào
máy, nhập mã pin để rút tiền. Một cách khác, bên cạnh việc bẫy thẻ trong khe đọc, bọn tội
phạm sẽ quệt một
chút dầu lên bàn phím nhập pin để “bắt chết” phím số mà nạn nhân đã bấm. Từ đây kẻ gian
có thể lấy cắp được mã pin mà không cần tiếp cận nạn nhân.
- Đầu đọc thẻ giả (skimmer)
Đầu đọc thẻ giả là thiết bị ăn cắp dữ liệu trên dãy từ, có hình dạng giống như những chiếc
đầu đọc thẻ ATM thông thường. Chúng thường được gắn sát hoặc ở phía trên đầu đọc thẻ
thật. Một đầu đọc thẻ giả có thể đánh cắp và lưu thông tin về số tài khoản, số dư tài khoản,
và mã xác nhận liên quan đến mỗi chủ thẻ của hơn 200 thẻ ATM. Thông thường, khách hàng
sẽ lầm tưởng skimmer là một bộ phận của máy rút tiền. Kẻ gian sẽ hướng dẫn nạn nhân quẹt
thẻ vào skimmer trước, sau đó mới tiếp tục các giao dịch khác, hoặc chúng sẽ nói rằng
skimmer là dụng cụ làm sạch thẻ giúp tăng khả năng hoạt động cho những chiếc thẻ từ.Khi
nạn nhân quẹt thẻ vào skimmer là lúc dữ liệu thẻ bị lấy cắp.Sau đó kẻ gian lợi dụng thông tin
để thực hiện các giao dịch thanh toán không cần xuất trình thẻ.
- Bàn phím nhập pin giả hoặc thiết bị giả khác
Đây là hình thức dán bàn phím nhập pin giả (pin pad) lên trên bàn phím nhập pin thật. Pin
pad giả thường có kích thước và hình dạng bên ngoài giống như thật, cực mỏng, trong suốt
và thật đến mức gần như những người sử dụng máy ATM không thể nhận ra được nên vẫn
tiến hành giao dịch một cách bình thường. Thiết bị này sẽ lấy cắp và lưu trữ dữ liệu pin của
mỗi giao dịch. Pin pad giả sẽ bị hủy ngay sau đó. Số pin bị ghi lại sẽ được tải xuống, kết hợp

với những chiếc thẻ ATM giả tạo ra từ việc lấy trộm thông tin, kẻ gian sẽ rút tiền của chủ
thẻ.
- Bẫy tiền
Cách đơn giản nhất là dán một miếng băng dính thật chắc vào mặt sau cửa thoát tiền để chặn
những tờ tiền máy thu lại do chủ thẻ chưa nhận. Một cách tinh vi hơn nữa là gắn một thiết bị
cơ học có thể chuyển số tiền máy đưa ra vào một chiếc hộp được ngụy trang rất khéo léo.
Mặc dù bị mất tiền nhưng chủ thẻ nghĩ rằng máy ATM có thể đang trục trặc và chán nản bỏ
đi.Sau khi chủ thẻ đi, kẻ gian đến tháo bỏ bẫy hoặc cửa nhả tiền giả rồi ung dung nhận
tiền.Một cách thức khác là tên tội phạm sử dụng một chiếc thẻ thật để rút tiền hợp pháp. Khi
máy đưa tiền ra, tên tội phạm sẽ không rút cả xấp tiền, thay vào đó chúng chừa một khoảng
thời gian nhất định để máy ATM thu lại số tiền bị “bỏ quên” và ghi vào hệ thống là chủ thẻ
không nhận tiền. Ngay lập tức chúng lật cửa nhả tiền ra và giật nhanh số tiền đang bị máy
thu lại vào đúng thời điểm. Tên tội phạm không bị trừ tiền trên tài khoản nhưng vẫn lấy được
tiền bởi giao dịch đã bị đảo ngược.
- Đảo ngược giao dịch
Hình thức này sử dụng một loạt biến thể để tạo ra một tình huống gây lỗi trên máy ATM làm
cho máy vận hành chủ đảo chiều giao dịch bởi tiền đã bị máy ATM thu trở lại, có nhiều hình
thức tương tự hình thức bẫy tiền vừa kể trên. Tuy nhiên trên thực tế, một phần số tiền rút đã
bị kẻ gian lấy. Ví dụ : “Kẻ gian nhập lệnh rút 100$, tuy nhiên ngay khi xấp tiền vừa được
đưa ra, hắn cẩn thận lấy ra chỉ 60$. Vài giây sau, giao dịch kết thúc và 40$ còn lại được máy
ATM thu vào. Vì máy ATM không thể đếm được có bao nhiêu tiền thu lại nên trong két tiền
bị thiếu 60$ do giao dịch bị đảo ngược toàn bộ”.
- Ăn cắp thông tin thẻ bằng cách “Gửi dữ liệu bằng SMS”
Kẻ gian sẽ gắn đầu đọc thẻ thu dữ liệu, bàn phím giả ghi lại thao tác nhập pin tại máy ATM.
Điện thoại di động được kết nối với máy tính chạy ứng dụng điều khiển hoạt động của thiết
bị ăn cắp, những thông tin thu được sẽ gửi về qua đường SMS. Nếu cần thiết, kẻ gian có thể
thiết lập một cuộc gọi tới thiết bị giả và tải thông tin về, tuy nhiên, nhận tin SMS vẫn là cách
tiện lợi hơn.Nói một cách khác, kẻ gian chỉ cần ung dung ngồi ở nhà và điều khiển thiết bị để
lấy cắp thông tin thẻ. Tiếp theo là khâu giải mã thông tin tải về rồi ngay lập tức trải qua một
quá trình mã hóa khác để ngăn chặn sự kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Sau khi mã

hóa, những thông tin lấy cắp được sẽ được ghi vào thẻ trắng và sử dụng số pin có được để rút
tiền.
3. Một số biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán thẻ ở Việt Nam
3.1 Các ngân hàng thanh toán
- Ngay khi thẻ đã được kích hoạt, Ngân hàng phải theo dõi thường xuyên các giao dịch, nếu
có bất cứ dấu hiệu khác lạ nào phải can thiệp ngay lập tức. Chú ý việc chi tiêu và thanh toán
nợ đối với các chủ thẻ thường xuyên chậm thanh toán và chi tiêu vượt hạn mức tín dụng.
- Tuyệt đối tuân thủ các qui định, qui trình trong thanh toán thẻ.
- Đối với các đơn vị chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền mặt, trước khi ký hợp đồng Ngân hàng cần
đánh giá và thẩm định cẩn thận, phải đáp ứng điều kiện qui định, nhu cầu thực tế triển khai,
địa điểm hoạt động, qui mô kinh doanh, sản phẩm dịch vụ cung cấp, doanh thu và Ngân
hàng phải cử người đến làm việc trực tiếp để xác thực thông tin. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, ngay sau khi ký kết hợp đồng tổ chức tập huấn, đào tạo và cung cấp tài liệu về qui
trình chấp nhận thanh toán thẻ, các biện pháp phòng ngừa gian lận tới đơn vị chấp nhận
thẻ/điểm ứng tiền mặt
- Trang bị đầy đủ các phương tiện hiện đại, các thiết bị phát hiện hoặc ngăn chặn thẻ giả cho
đơn vị chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền mặt như: Sử dụng thiết bị phát hiện thẻ giả (Magnifier),
mặc dù các thế hệ thẻ giả mới có chất lượng khá cao, tuy nhiên đường viền siêu nhỏ trên
logo của Visa sẽ rất khó làm giả, thiết bị này hỗ trợ đơn vị chấp nhận thẻ phát hiện ra thẻ giả.
- Phân công cán bộ chuyên trách kiểm tra và giám sát hoạt động của các đơn vị chấp nhận
thẻ nhằm đảm bảo tuân thủ các qui định liên quan đến nghiệp vụ thanh toán thẻ. Thực hiện
kiểm tra định kỳ, đột xuất để hỗ trợ đơn vị chấp nhận thẻ đồng thời nếu phát hiện sai phạm
hay có dấu hiệu bất thường sẽ có biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp.
- Thường xuyên gửi các dữ liệu thông báo đặc biệt, danh sách các loại thẻ cấm lưu hành, thẻ
giả mạo cho các đơn vị chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền mặt một cách đầy đủ, kịp thời, chính
xác.
- Thường xuyên hợp tác với các cơ quan truyền thông tuyên truyền rộng rãi đến các chủ thẻ
để hướng dẫn, nâng cao nhận thức và thao tác sử dụng thẻ, vấn đề an toàn bảo mật thông tin
thẻ để có ý thức cảnh giác nhằm tự bảo vệ.
- Có chính sách khen thưởng đối với những nhân viên, đơn vị chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền

mặt hoạt động tốt. Qui định xử phạt vi phạm nghiêm minh đối với những vi phạm.
- Khi ngừng hợp đồng, ngân hàng phải thu lại các thiết bị, hóa đơn để đảm bảo các đơn vị
chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền mặt không lợi dụng để thực hiện giao dịch gian lận
3.2 Tại các đơn vị chấp nhận thẻ/điểm ứng tiền mặt
Các ĐVCNT/ĐƯTM trực tiếp tham gia giao dịch và mang lại rủi ro trong việc thanh toán.
Phần lớn các thẻ giả mạo đều thực hiện tại các ĐVCNT. Do vậy để phòng ngừa và hạn chế
rủi ro các ĐVCNT/ĐƯTM nên nghiêm túc thực hiện các công việc sau:
- Các ĐVCNT/ĐƯTMnêncửngườicó đủtrình độchuyênmôn, ngoạingữ đitậphuấncáckhóa
đàotạonhư: quitrìnhthanhtoánthẻ, cáchpháthiệnthẻgiả, cáchhạnchếrủirothanhtoánthẻ,….
- Các ĐVCNT/ĐƯTM phải thực hiện đúng qui trình chấp nhận thanh toán thẻ, các điều
khoản đã ghi trong hợp đồng. Đối với các giao dịch đặc biệt tại khách sạn tuyệt đối từ chối
các trường hợp thanh toán hộ khi chủ thẻ không có mặt tại thời điểm check-in và check-out.
Đối với giao dịch gửi hàng sau, các ĐVCNT phải thực hiện việc gửi hàng và cung cấp hàng
hóa đúng theo hợp đồng đã thỏa thuận với khách hàng.
- ĐVCNT/ĐƯTM phải thực hiện lưu giữ hóa đơn giao dịch thẻ và các chứng từ liên quan
tại đơn vị theo qui định của pháp luật hiện hành về chế độ chứng từ kế toán và đảm bảo xuất
trình đầy đủ, kịp thời cho ngân hàng khi có yêu cầu.
- Các ĐVCNT/ĐƯTM cần cập nhật thông tin rủi ro thẻ và nghiêm túc thực hiện báo cáo
rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ theo qui định.
- Các ĐVCNT/ ĐƯTM cần áp dụng phương pháp phát hiện thẻ giả, gọi điện về trung tâm
thẻ kiểm tra số BIN của ngân hàng phát hành khi nghi ngờ, kiểm tra chứng minh nhân dân,
hộ chiếu của chủ thẻ để xác thực chủ thẻ. Chú ý hình trên giấy tờ tùy thân có thể giả bằng
cách dán thay thế, photo màu,….
- Các ĐVCNT/ ĐƯTM cần chú ý thái độ đáng ngờ của chủ thẻ khi thực hiện giao dịch
như: thực hiện việc mua hàng một cách kỳ lạ, không quan tâm đến giá cả hay kích cở, màu
sắc của món hàng, rút thẻ tín dụng ra từ túi áo hay túi quần thay vì từ trong ví nghiêm chỉnh,
tỏ ra vội vã và có một người khác đang đợi bên ngoài, yêu cầu thử hết thẻ này đến thẻ khác
khi việc chuẩn chi giao dịch không thực hiện được, có biểu hiện lo lắng hoặc tỏ vẽ khó chịu,
không bình thường,
- Thúc giục nhân viên thâu ngân thực hiện nhanh giao dịch vào thời điểm cuối giờ giao

dịch, mua một món hàng lớn nhưng yêu cầu để họ tự khiêng vác thay vì để cho đại lý giao
hàng tận nơi.
3.3 Giải pháp liên quan đến khách hàng
Khách hàng là chủ thể duy nhất để thẻ hoạt động và cũng là một trong những nguyên nhân
chính gây ra rủi ro. Vì thế khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế và phòng
ngừa rủi ro. Khi khách hàng gặp rủi ro sẽ liên quan đến ngân hàng, đặc biệt là thẻ tín dụng
quốc tế, có khả năng khách hàng không trả được nợ từ các giao dịch gian lận, hoặc do thẻ bị
lợi dụng.
a, Giải pháp bảo quản thẻ
- Thẻ phải được cất giử cẩn thận ở những nơi dễ kiểm tra để phát hiện kịp thời khi mất,
nhưng cũng không nên để thẻ tại những nơi quá dễ lấy cắp gây đọng lòng tham của kẻ gian.
Nên giữ thẻ trong ví, không đưa thẻ cho bất kỳ người nào giữ, không cho mượn thẻ kể cả
người thân.
- Khi phát hiện ra thẻ mất cắp, thất lạc phải thông báo ngay và đến ngân hàng phát hành làm
các thủ tục báo mất theo qui định.
- Không để thẻ gần những thiết bị có điện từ như điện thoại di động, sẽ gây ảnh hưởng đến
thông tin thẻ và dễ bị hư hỏng.
b, Giải pháp bảo mật thông tin thẻ
Bảo vệ thông tin thẻ bởi vì khi thông tin trên thẻ bị lộ thì sẽ bị kẻ xấu lợi dụng. Chủ thẻ lưu ý
bảo vệ bằng cách:
- Luôngiửbí mậtcácthôngtinliênquantớithẻnhư tàikhoảnthẻ, mậtmã thẻ.
- Trường hợp có nghi ngờ hoặc phát hiện ra các thông tin thẻ bị lộ phải thông báo ngay với
ngân hàng phát hành hay trung tâm thẻ để thay đổi.
- Mã pin của thẻ nên được nhớ trong đầu, không nên ghi vào giấy để kèm theo thẻ, không
nên đặt mã pin trùng với ngày tháng năm sinh, số điện thoại,…Vì có nhiều người mất thẻ,
cũng lộ luôn cả mã pin.
- Khi nhận được các thư điện tử yêu cầu cung cấp thông tin về thẻ cần phải hết sức cảnh
giác bởi có nhiều khả năng là các thư điện tử lừa đảo để lấy thông tin của chủ thẻ. Cảnh giác
với các email có dấu hiệu lừa đảo như: thông báo trúng thưởng, mời tham gia hoạt động trên
website nào đó,

- Hãy đảm bảo rằng những tài liệu có liên quan đến thông tin thẻ được hủy trước khi bỏ
vào thùng rác.
- Kiểm tra các link website, các phần mềm download từ Internet, chúng có thể gắn kèm các
mã độc ăn cắp thông tin.
- Chủ thẻ cần ký tên vào vị trí chữ ký khách hàng ở mặt sau của thẻ. Khi thanh toán, chữ
ký trên hoá đơn được đối chiếu với chữ ký trên thẻ để kiểm tra và phải giống nhau. Thường
xuyên kiểm tra tài khoản để kịp thời phát hiện những giao dịch bất thường.
c, Giải pháp an toàn khi rút tiền tại máy ATM
Khi giao dịch tại máy ATM, chủ thẻ cần cẩn thận và chú ý các vấn đề sau:
- Khinhậpsốpinphảichú ý nhữngngườixungquanh, nhữngngười
đứngphíasauchờsửdụngmáyATMkhôngnhìnthấyviệcnhậpmã sốpin.
- Khi rút tiền tại các máy ATM, chủ thẻ đừng quên nhận tiền và thẻ sau khi hoàn thành
giao dịch tại máy ATM. Không nên đứng đếm tiền ngay tại máy ATM, hãy cầm tiền và thẻ
rời khỏi máy ngay sau khi thực hiện xong giao dịch.
- Khi máy ATM báo lỗi hoặc có những thiết bị lạ bất thường cần phải cảnh giác, không
nên đưa thẻ vào giao dịch mà hãy gọi điện đến ngân hàng để được tư vấn vì có thể kẻ gian
gắn vào máy những thiết bị lấy cắp thông tin.
d, Giải pháp thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ
- Luôn dõi mắt theo khi nhân viên thu ngân của đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán,
không để nhân viên thu ngân cầm thẻ đi ra khỏi tầm mắt. Cất thẻ ngay khi hoàn tất giao dịch.
- Trong quá trình giao dịch tại các điểm chấp nhận thẻ, chủ thẻ cần chú ý bảo vệ mật mã cá
nhân của mình. Chủ thẻ không nên đưa thẻ của mình cho người thân để thực hiện việc thanh
toán thẻ qua POS.
- Kiểm tra hoá đơn thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ trước khi ký. Nếu thông tin trên
hoá đơn không đúng, yêu cầu đại lý huỷ giao dịch và huỷ các liên hoá đơn giao dịch. Nếu
các thông tin trên hoá đơn giao dịch đúng, ký xác nhận vào hoá đơn, giữ lại 1 liên hoá đơn
và các chứng từ liên quan đến giao dịch để đối chiếu khi cần thiết.
- Huỷ giao dịch vừa thực hiện nếu cảm thấy nghi ngờ và không chắc chắn. Nếu cần, hãy
gọi điện cho ngân hàng để xác định đúng là giao dịch đã được huỷ.
- Trường hợp có nghi ngờ hoặc phát hiện ra các giao dịch gian lận, thông báo ngay với

ngân hàng phát hành hay trung tâm thẻ để điều tra giải quyết.
e, Giải pháp thanh toán qua mạng Internet
Khi thực hiện các giao dịch thanh toán qua mạng chủ thẻ có thể bị rủi ro mất cắp thông tin
thẻ khi thực hiện thanh toán trên trang web giả mạo (phishing). Chủ thẻ cũng có thể bị rủi ro
nếu người bán không cung cấp hàng hóa, dịch vụ đúng như đã cam kết. Để tránh rủi ro, chủ
thẻ nên lưu ý một số điểm sau:
- Đặc biệt chú ý tới tính an toàn của các website thực hiện việc mua bán.
- Chỉ nên mua hàng ở những website có uy tín, hoặc những người bán hàng đáng tin cậy.
- Bảo mật tốt nhất tên tài khoản, và mật khẩu truy cập.
- Không nên sử dụng máy tính công cộng
để thực hiện giaodịch.
- Nên tự tay gõ tên trang web thay vì sử dụng link, để tránh bị trộm dữ liệu.
- Nên cài đặt các chương trình chống virus như Antivirus, AntiSpyware, đểtránhbịvirus
- Ăn cắp thông tin cá nhân.
KẾTLUẬN:
Trên đây là bài phân tích về hạ tầng thanh toán thẻ của Việt Nam. Ta có thể thấy rõ
Xu hướng sử dụng thẻ để thanh toán ngày nay khá phổ biến và ngàycàngcó xu hướng tang
nhanh trong những năm tới. Ước mơ về một nền kinh tế thanh toán phi tiền mặt không còn
quá xa vời với một nước có nền kinh tế phát triển mạnh trong khu vực như Việt Nam. Sự
phát triển của thị trường thẻ thanh toán ở Việt Nam không còn là biểu tượng cho những
gương mặt thành đạt mà đã trở thành công cụ thanh toán thông dụng trong xã hội hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích mà dịch vụ thanh toán này mang lại cũng còn không ít
những khó khăn cần được tháo gỡ.

×