Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Công cụ chính sách ngoại thương của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.88 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIÊN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: Kinh tế quốc tế 1

Chủ đề : Công cụ chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện nay
Giảng viên hướng dẫn: Tô Xuân Cường
Lớp: Kinh tế quốc tế 52A
Nhóm 5:
1. Tạ Thị Ngọc Ánh 7. Hoàng Đình Khải
2. Nguyễn Thành Công 8. Hà Văn Linh
3. Hoàng Quốc Đạt 9. Nguyễn Thị Mai (nhóm trưởng)
4. Nguyễn Hà Giang 10. Nguyễn Thị Thuỷ
5. Trần Thị Hằng 11. Nguyễn Thị Thu Trang
6. Nguyễn Kim Hoàn 12. Phạm Thị Hải Yến
HÀ NỘI – NĂM 2013
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập,kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu
khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,phục vụ cho sự
phát triển của các nước đang phát triển,có nền kinh tế mở cửa.Đối với Việt Nam
hoạt động kinh tế đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm,là
động lực phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập mới.Bởi hoạt động này làm rút
ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế của Việt Nam với những nội dung phát triển
toàn diện của nó.
Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh
tế thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa-khoan dung
hơn là đóng cửa cô lập và đố kỵ-nghi ngờ.Điển hình là ở Đông Á: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc và một số nước ASEAN như: Singapo, Thái Lan…thông qua
hoạt động đối ngoại của mình đã nhanh chóng trở thành ‘’những con rồng kinh tế


của Châu Á’’.
Từ kinh nghiệm của các nước,trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam
đang tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kính tế ra bên ngoài để tìm’’cú
hích ‘’mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ-khoa học kỹ thuật, hướng
xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tiến bộ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Cho nên
Việt Nam xem mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược-động lực phát
triển tất yếu.
Trước tình hình đó,việc nghiên cứu đề tài ‘’Công cụ chính sách ngoại thương Việt
Nam’’ là cần thiết,giúp sinh viên hiểu biết và nắm rõ về công cụ chính sách ngoại
thương Việt Nam,đặc biệt là giai đoạn từ năm 1986 đến nay.Từ đó đưa ra những
định hướng và giải pháp phù hợp với hoàn cảnh đất nước,nhằm đạt mục tiêu củng
cố và tăng cường phát triển kinh tế-xã hội bền vững lâu dài của Việt Nam.
5
2.Mục tiêu nghiên cứu
-Hệ thống hóa những vấn đề về thương mại quốc tế
-Tìm hiểu sự tác động của ngoại thương đến sự phát triển kinh tế
-Phân tích đánh giá thực trạng của ngoại thương hiện nay
-Đề xuất các giải pháp cho ngoại thường Việt Nam
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Công cụ chính sách của ngoại thương Việt Nam hiện nay
-Chính sách của nhà nước liên quan đến thương mại quốc tế
4.Phương pháp nghiên cứu
-Thu thập thông tin,số liệu từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau
-Thống kê,tổng hợp,phân tích những thông tin thu được
5.Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo,kết cấu đề tài của nhóm gồm
các phần chính như sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về các công cụ của chính sách ngoại thương
Phần 2: Thực trạng việc áp dụng các công cụ chủ yếu trong chính sách ngoại
thương của VN từ 1986 đến nay.

Phần 3: Định hướng, mục tiêu và các giải pháp hoàn thiện công cụ chính sách
ngoại thương.
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về các công cụ của chính sách ngoại thương
6
1.1.Chính sách ngoại thương và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế
1.1.1.Khái niệm
-Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành
chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực ngoạị
thương của một nước trong thời kỳ nhất định.
-Mục tiêu cơ bản của chính sách ngoại thương là hướng tới việc sử dụng và phân
bổ có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong quá tŕnh phát triển kinh tế
xă hội. Chính sách ngoại thương vùa thể hiện chính tất mở của nền kinh tế, vừa thể
hiện sự phân biệt đối xử đối với các nhà sản xuất, kinh doanh nước ngoài theo
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
1.1.2.Nhiệm vụ và vai trò
-Nhiệm vụ chủ yếu của chính sách Ngoại thương là tạo điều kiện thuận lợi nhất
nhất cho các doanh nghiệp mở rộng buôn bán với nước ngoài, cũng như thông qua
đàm phán quốc tế để đạt được mở rộng thị trường hợp pháp cho các doanh nghiệp.
Đồng thời chính sách ngoại thương cũng phải góp phần bảo hộ nền sản xuất nội
địa, hạn chế cạnh tranh bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước.
-Chính sách ngoại thương bao gồm các bộ phận cấu thành như: chính sách thị
trường, chính sách sản phẩm, chính sách thuế quan, biện pháp cấm đoán, kiểm soát
hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu.
-Việc ban hành các chính sách ngoại thương làm giảm bớt sự bất trắc bằng cách tạo
ra một thể chế tương đối ổn định cho công cuộc kinh doanh của doanh nghiệp, để
khi họ muốn lập một công ty, muốn bán một hàng hoá, muốn vay tiền Doanh
nhân phải biết tôn trọng các chính sách của các nước khác, nếu họ muốn kinh
doanh ở nước ngoài. nhưng sự ổn định của các chính sách ngoại thương không phủ
nhận một thực tế là chúng luôn thay đổi. Và sự thay đổi của chính sách ngoại
7

thương là một qúa tŕnh tất yếu. chính sách ngoại thương tác động đến chiều hướng
phát triển của nền kinh tế, đến công thương nghiệp thông qua ảnh hưởng của chúng
đến các chi phí troa đổi và sản xuất. Vậy tác động của chính sách ngoại thương đến
nền kinh tế, dến chính sự phát triển ngoại thương theo chiều hướng nào phụ thuộc
vào chính sách đó có quan tâm đến lợi ích của doanh nhân và người tiêu dùng hay
không. Do đó chính sách ngoại thương phải bắt đầu từ lợi ích của các nhà kinh
doanh, của giới tiêu dùng. Tuy nhiên các chính sách ngoại thương sẽ hạn chế 1 số
lựa chọn của nhà sản xuất và tiêu dùng. Đảm bảo sự hài hoà lợi ích của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng và quốc gia trong hoạt động ngoại thương là mục tiêu
quan trọnh của chính sách ngoại thương. Tuy là bộ phận hợp thành của chính sách
kinh tế nói chung của nhà nước trong mỗi thời kỳ nhất định nhưng chính sách
ngọai thương có những đặc điểm riêng. Đó là:
+ Việc ban hành chính sách ngoại thương là công việc nội bộ của mỗi quốc gia,
phải xuất phát từ lợi ích nước ḿnh nhưng không được gây tổn hại đến lợi ích nước
khác.
+ Chính sách ngoại thương làm cầu nối liên kết kinh tế trong nước với kinh tế
thế giới, tạo điều kiện cho một quốc gia hội nhập về kinh tế với các nền kinh tế khu
vực và quốc tế theo những bước đi có hiệu quả.
+ Chính sách ngoại thương có nhiệm vụ cân bằng cán cân thanh toán thu chi.
Các hoạt động ngoại thương không chỉ đơn thuần tác động đến sự phát triển vầ cân
đối nền kinh tế quốc dân mà c̣n có nhiệm vụ đặc thù là cân bằng cán cân thanh toán
quốc tế.
8
1.2.Các công cụ chủ yếu của chính sách ngoại thương
1.2.1.Thuế quan
-Là loại thuế lấy vật phẩm xuất nhập qua biên giới quốc gia hay quá cảnh làm đối
tượng thu thuế, tạo thành khoản thu nhập thuế của nhà nước do hải quan thực hiện.
Một số hiệp định quốc tế đă đưa ra định nghĩa rõ ràng hơn về thuế quan là “ Thuế
thu theo tỷ suất thuế kê rơ trong biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu”. khái niệm này
mmột mặt tách đối tượng nghiên cứu với thuế trong nước, mặt khác tách biệt thuế

quan với các loại thuế khác thu được từ xuất khẩu, nhập khẩu như thuế chống phá
giá, thuế trả đũa các loại thuế như vậy chuyên thu với hàng nhập khẩu không gắn
với thuế quan.
1.2.1.1 Vai tṛò của thuế quan
Thuế là một công cụ quan trọng mà bất kỳ nhà nước nào cũng sử dụng để
hoàn thành chức năng của ḿnh. Mục đích đánh thuế của mỗi quốc gia, ở vào các
thời kỳ khác nhau không giống nhau. Trong xă hội phong kiến, thu thuế chủ yếu là
tăng thu nhập tài chính quốc gia. Bước sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa, thuế quan
không chỉ là nguồn thu tài chính mà c̣òn là công cụ thực hiện chính sách ngoại
thương của các nước. Tuy nhiên, trong tất cả các nền kinh tế xă hội, thuế đều có
vai tṛò như sau:
a. Tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
+ Đối với nhà nước, thuế suất phải đem đến một năng suất thu tối đa mà lại
không gây cản trở, thậm trí c̣òn kích thích sự phát triển kinh tế xă hội. Thuế không
được triệt tiêu thuế mà trái lại thuế phải nuôi thuế.
+ Đối với người chịu thuế, thuế suất cần phải hạ, làm sao để người chịu thuế bớt
cảm thấy gáng nặng của thuế.
b. Thuế là công cụ quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân
9
Khi kinh tế phát triển, chính phủ có thể gia tăng thuế để làm cán cân thu nhập
nghiêng về phía nhà nước, hạn chế thu nhập có thể sử dụng, tăng tích luỹ nhà
nước, tạo ra một nguồn nhất định dự pḥòng khi kinh tế bị suy thoái hay gặp những
điều kiện bất lợi. Nói cách khác, chính phủ sẽ giảm thuế khi nền kinh tế đang khó
khăn.
Để phù hợp với chính sách của chính phủ trong từng giai đoạn, thuế được sử
dụng như một biện pháp điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất thông qua các mức thuế
suất phân biệt đối với từng sản phẩm, dịch vụ hoặc giữa các ngành sản xuất kinh
doanh khác nhau, có chính sách ưu đăi thuế đối với một số mặt hàng, ngành hàng.
c. Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển :
Để bảo hộ sản xuất trong nước, một trong những biện pháp hữu hiệu mà chính

phủ các nước hay sử dụng là đánh thuế cao vào hàng nhập khẩu để làm tăng giá
thành hàng hoá nhập khẩu, dẫn đến giảm mức cạnh tranh với sản phẩm trong nước.
Thuế quan bảo hộ nói chung là bảo hộ cho công nghiệp nội địa c̣òn yếu kém và
hàng hoá mẫn cảm cạnh tranh. Tỷ lệ thuế quan bảo hộ về lý thuyết sẽ không thấp
hơn mức chênh lệch giữa giá trong nước và giá nhập khẩu. Nhưng trong thực tế th́ì
tỷ lệ thuế cao hay thấp c̣òn phụ thuộc vào t́ình h́ình cung cầu cũng như điều kiện
thay đổi cung cầu gây ảnh hưởng đến giá cả hàng nhập khẩu.
d. Thực hiện phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại :
Có thể nói, thuế quan là biện pháp hay sử dụng để thực hiện phân biệt đối xử
giữa các nước trong quan hệ thương mại. Các nước có thể thực hiện thuế ưu đăi
đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước có thoả thuận áp dụng chính sách tối huệ quốc
hoặc những thoả thuận ưu đăi riêng và áp dụng thuế trả đũa đối với hàng hoá nhập
khẩu từ nước có thực hiện các biện pháp bán phá giá, trợ giá của chính phủ hoặc
từ những nước có sự phân biệt đối xử với hàng hoá của nước mình.
e. Góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xă hội trong phân phối:
10
Trong nền kinh tế tập trung, tình trạng phân cực giàu nghèo là khó có thể
tránh khỏi. T́ình trạng này không chỉ nói lên mức sống bị phân biệt mà c̣òn liên
quan đến đạo đức, công bằng xă hội.Vì vậy sự can thiệp, điều tiết của chính phủ rất
quan trọng, trong đó thuế là một công cụ hữu ích. Thông qua thuế, chính phủ có
thể thực hiện điều tiết thu nhập bằng cách đánh thuế cao đối với những công ty, cá
nhân có thu nhập cao và đánh cao vào những hàng hoá dịch vụ cao cấp mà đối
tượng phục vụ chủ yếu là tầng lớp có thu nhập cao và ngược lại.
Có thể nói thuế đóng một vai tṛò vô cùng quan trọng trong chính sách ngoại
thương của mọi quốc gia. Trong xu hướng đưa hoạt động ngoại thương và thương
mại quốc tế vào môi trường tự do cạnh tranh, các quốc gia đều cố gắng giảm dần
mức thuế quan xuống, tiến tới xoá bỏ các rào cản thương mại. Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại (GATT) đă đề xướng tù do thương mại, huỷ bỏ hoặc cắt
giảm các rào cản thương mại. Tỷ lệ thuế quan nói chung đă giảm đi nhiều, theo hiệp
định Urugoay mức thuế quan trung b́ình giảm 40%. Khi đó mức thuế nói chung ở

các nước công nghiệp phát triển c̣òn khoảng không quá 5%, trừ hàng dệt và may
mặc, mức trung b́nh khoảng 10-40% chủ yếu là đối với hàng nhập khẩu từ các
nước đang phát triển. Mức thuế quan trung b́ình ở các nước Đông Á chỉ c̣òn từ 5-
15%, Nam Á 10-60%, Mỹ Latinh, Trung Đông, Châu Phi 10-25%.
1.2.1.2.Phân loại thuế quan:
a. Phân loại theo mục đích đánh thuế :
- Thuế tài chính (c̣òn gọi là Thuế ngân sách) : là thuế đánh vào hàng hoá để
tăng thu cho ngân sách nhà nước.
- Thuế quan bảo hộ : là mức thuế suất cao đánh vào hàng nhập khẩu, làm cho
giá cả hàng nhập khẩu cao hơn so với giá hàng trong nước và bị suy giảm sức cạnh
tranh, tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước.
b. Phân loại theo đối tượng chịu thuế :
11
- Thuế xuất khẩu : chủ yếu đánh vào những mặt hàng mà nhà nước hạn chế
xuất khẩu ra nước ngoài. Những mặt hàng xuất khẩu này sau khi chịu thuế sẽ bị
hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới do những bất lợi về giá cả.
- Thuế nhập khẩu : đánh vào hàng nhập khẩu, thực hiện đồng thời cả hai
chức năng về tài chính và bảo hộ.
- Thuế quá cảnh : là loại thuế đánh vào hàng hoá khi đi qua biên giới hay
lănh thổ của một quốc gia.
c. Phân loại theo phương pháp tính thuế :
- Thuế tính theo giá : là loại thuế tính theo tỷ lệ phần trăm so với trị giá của
lô hàng.
- Thuế tính theo lượng : là loại thuế tính ổn định theo số lượng hoặc trọng
lượng của lô hàng.
- Thuế hốn hợp : là loại thuế kết hợp cả tính theo giá và tính theo lượng.
d. Phân loại theo mức tính thuế :
- Thuế suất ưu đăi : áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước hay
những khu vực hợp tác kinh tế trên cơ sở kí kết các thoả thuận dành cho nhau
những ưu đăi về thuế quan.

- Mức thuế phổ thông : là mức thuế áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ
những nước hoặc khu vực không có thoả thuận dành cho nhau ưu đăi về thuế quan.
- Mức thuế tự vệ : là mức thuế do chính phủ quyết định áp dụng trong từng
trường hợp cụ thể. Ví dụ : khi hàng hoá nước ngoài được bán phá giá trong thị
trường nước mình hoặc hàng hoá nhập khẩu từ một nước có chính sách bảo hộ, trợ
giá cho hàng xuất khẩu.
1.2.2.Các biện pháp phi thuế quan
1.2.2.1. Khái niệm :
12
Phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan làm cản trở tự do thương
mại. Trước kia các nước thường hay sử dụng biện pháp phi thuế quan với mục đích
chủ yếu là để bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng hiện nay cùng với xu thế quốc tế
hoá ngày càng mở rộng, biện pháp này dần dần được xoá bỏ và thay thế bằng các
biện pháp thuế quan.
1.2.2.2 Vai tṛò của phi thuế quan :
Phi thuế quan cũng thường được sử dụng với những mục đích tương đối
giống thuế quan. Tuy nhiên, theo thời gian, đi đôi với sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế là sự phát sinh nhiều vấn đề và vai tṛ của phi thuế quan đă được mở
rộng, gây ảnh hưởng gián tiếp đến những quan hệ khác. Một trường hợp điển h́ình
là nó được sử dụng như là một trong những biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi
trường - một vấn đề được coi là vấn đề toàn cầu hiện nay. Vấn đề này cũng ảnh
hưởng đến chính sách ngoại thương giữa các nước, đặc biệt là quan hệ giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển, liên quan đến việc chuyển vốn và
công nghệ.
Theo nguyên tắc lợi thế so sánh, ngoại thương sẽ tạo ra lợi nhuận cho cả
nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, nhưng đối với những nguồn tài nguyên thiên
nhiên như nước, không khí, đất đai mà mọi người nghĩ là vô tận th́ không thể phản
ánh được chi phí môi trường v́ chi phí để bảo vệ, làm sạch hầu như không thể hiện.
GATT thừa nhận những trường hợp ngoại lệ của việc tự do hoá ngoại thương
như đưa ra những biện pháp qui định để bảo vệ sức khoẻ con người, tài nguyên

thiên nhiên nhưng vấn đề bảo vệ môi trường cũng không được qui định một cách
rơ ràng. Trên thực tế, các nước vẫn đưa ra những biện pháp khác nhau để bảo vệ
môi trường đối với hoạt động ngoại thương, trong đó tích cực sử dụng các biện
pháp phi thuế quan như đặt ra những tiêu chuẩn về vệ sinh đối với mặt hàng lương
thực thực phẩm, tiêu chuẩn về kỹ thuật đối với mặt hàng máy móc thiết bị
13
1.2.2.3. Các biện pháp phi thuế quan.
a. Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu là giới hạn về khối lượng hoặc giá trị đối với những
hàng hoá nhất định được phép mang từ nước ngoài vào trong một thời gian nhất
định, thường là một năm. Trên thực tế việc quản lý các hạn ngạch về giá trị khó
thực hiện thế các hạn ngạch về số lượng được áp dụng một cách phổ biến. Nhà
nước quy định hạn ngạnh nhập khẩu là để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài
nguyên và cải thiện cán cân thanh. toán.
b. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER).
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến tướng của hạn chế nhập khẩu, là
thoả thuận theo đó một nước đồng ư hạn chế xuất khẩu của ḿnh sang nước khác
đối với một mặt hàng xác định với một mức tối đa. Các thoả thuận này tự nguyện
chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe dọa lớn hơn đối với ngoại
thương của ḿnh và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn đối với ngoại thương của
mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn.
Nói cách khác, hạn chế xuất khẩu tự nguyện được đưa ra theo yêu cầu của
nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận nhằm ngăn chặn những mối đe
dọa và những hạn chế đối với ngoại thương nước mình.
c. Giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu hàng hoá là một biện pháp quản lý nhập khẩu của Nhà
nước. Nó đ̣i hỏi khi nhập khẩu hàng hoá phải có giấy phép của cơ quan quản lý
Nhà nước. Trong hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của WTO, giấy
phép nhập khẩu được coi là thủ tục hành chính của chế độ giấy phép nhập khẩu,
yêu cầu các nhà nhập khẩu phải đệ tŕnh đơn hoặc các tài liệu khác cho cơ quan

quản lý hành chính có liên quan như là một số điều kiện để nhập khẩu.
14
Giấy phép nhập khẩu có hai loại thường gặp: Giấy phép tự động và giấy
phép không tự động. Với loại giấy phép thứ nhất: Người nhập khẩu xin phép nhập
khẩu th́ì cấp ngay không cần đ̣i hỏi gì cả. Với loại giấy phép thứ hai: người nhập
khẩu bị ràng buộc bởi các hạn chế nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu ngày nay ít được sử dụng hơn so với trước. Mặc dù
vậy, hệ thống giấy phép này vẫn cần để quản lý nhập khẩu một số mặt hàng.
d. Chế độ hạn ngạch thuế
Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ trong đó quy định áp dụng dụng mức thuế
thấp hơn hoặc bằng không (0%) đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo
đúng số lượng quy định, nhằm bảo đảm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu
dùng. Khi hàng hoá nhập khẩu vượt quá số lượng quy định th́ì sẽ áp dụng mức thuế
cao (thuế lần 2) để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước.
Chế độ hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm
bảo hài hoà mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội
địa.vậy, Chính phủ thường nghiên cứu kỹ càng việc áp dụng chế độ hạn ngạch thuế
đối với từng mặt hàng trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước
để đề ra mức thuế lần một, lần hai và thời hạn áp dụng nhằm thúc đẩy tự do hoá
ngoại thương.
Như vậy chế độ hạn ngạch nhập khẩu, nhà nhập khẩu chỉ được phép nhập
khẩu trong phạm vi số lượng quy định., C̣n trong chế độ hạn ngạch thuế, nhà nhập
khẩu vẫn có thể nhập khẩu vượt quá số lượng quy định nhưng phải nộp thuế theo
mức thuế quy định (mức thuế lần 2) đối với phần vượt đó.
Theo quy định của GATT/ WTO, các nước thành viên không được sử dụng
chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự phân biệt đối sử với tùng nước.
e.Các biện pháp mang tính hành chính – kỹ thuật hạn chế nhập khẩu.
15
Đây là nhóm biện pháp nhằm gián tiếp ngăn cản, giám sát hàng xuất, nhập
khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài vào. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất

phong phú và đa dạng. Tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế, mỗi quốc gia
đưa ra những biện pháp hành chính kỹ thuật khác nhau để kiểm soát hàng hoá xuất
khâủ, nhập khẩu.
1.3. các dạng chính sách TMQT điển hình
1.3.1.Chính sách mặt hàng:
Bao gồm các danh mục,các mặt hang được chú trọng trong việc xuất nhập
khẩu,sao cho phù hợp với trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế cũng như
các mặt hang cần hạn chế hoặc cấm xuất nhập khẩu trong 1 thời gian nhất định,do
những đòi hỏi khách quan của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và yêu cầu của
việc đảm bảo an ninh,n toàn xã hội.Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải
xác định rõ mặt hang truyền thống,mặt hang trọng điểm,mũi nhọn,chủ lực và mặt
hàng mới.
1.3.2.Chính sách thị trường:
Bao gồm định hướng và các biện pháp duy trì và mở rộng thị trường,xâm nhập thị
trường mới,xây dựng thị trường trọng điểm,các biện pháp có đi có lại giữa các
quốc gia mang tính chất song phương hoặc đa phương,việc tham gia vào các hiệp
định thương mại và thuế quan trong phạm vi khu vực hay toàn cầu nhằm tạo điều
kiện cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển phục vụ cho các mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội.
1.3.3.Chính sách hỗ trợ:
Bao gồm các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm tác động 1 cách gián tiếp đến
hoạt động thương mại quốc tế như chính sách đầu tư,tín dụng,giá cả và tỷ giá hối
đoái cũng như chính sách sử dụng các đoàn bẩy kinh tế…Các chính sách này có
16
thể gây tác động thúc đẩy hay điều chỉnh sự phát triển của hoạt động TMQT.Tuy
nhiên,trong điền kiện hội nhập kinh tế quốc tế,các chính sách này phải phù hợp với
nguyên tắc,quy định quốc tế,đặc biệt là của WTO theo lộ trình cam kết của từng
quốc gia.
Phần 2. Thực trạng việc áp dụng các công cụ chủ yếu trong chính sách ngoại
thương của VN từ 1986 đến nay.

2.1. Công cụ thuế quan
2.1.1 Công cụ thuế quan từ 1986-2000
Theo tinh thần nghị quyết Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa IV,
khóa VIII thì Việt Nam phát triển theo mô hình kinh tế mở có sự điều tiết của nhà
nước. Chính sách ngoại thương đang áp dụng là chính sách hướng về xuất khẩu.
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hiện nay của Việt Nam được điều hành chủ yếu bởi
Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1998 và Nghị định 57/1998/NĐ-CP, ban hành ngày 31/7/1998 có hiệu
lực thi hành từ 01/09/1998: “ Quy định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài “.
Ngoài ra hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) còn chịu sự điều tiết bởi các luật khác
như luật thuế XNK, luật về thuế giá trị gia tăng (TVA), thuế thu nhập doanh
nghiệp, luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và các luật khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban
hành ngày 29 -12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát
sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Luật thuế xuất nhập khẩu
này đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần trong giai đoạn này như vào 1991, 1993 và
1998 để phù hợp với xu hướng gia nhập ASEAN , AFTA
17
Năm 1992, biểu thuế quan nhập khẩu ban đầu được thay thế bằng một biểu thuế
hợp nhất, chi tiết hơn, dựa vào Hệ thống hài hòa danh mục thuế quan (HS)(Hệ
thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, thường được gọi tắt là hệ thống hài
hòa hoặc hệ thống HS, là hệ thống được tiêu chuẩn hóa quốc tế về tên gọi và mã
số để phân loại hàng hóa được buôn bán trên phạm vi toàn thế giới của Tổ chức
Hải quan thế giới).
Trước khi gia nhập ASEAN , thì cơ cấu thuế quan xuất nhập khẩu Việt Nam gồm
3200 loại thuế, mức thuế thấp nhất là 0% và cao nhất là 150 % , giữa hai mức này
có khoảng 100 mức ở giữa. Trong đó thuế xuất khẩu Việt Nam cao nhất là 45 %
( áp dụng với kim loại màu, 35% với phế liệu kim loại đen , 0% với các mặt hàng
nông sản, 1% áp dụng đối với : cá, mực, mủ cao su tự nhiên… 3% với tôm, cua

tươi…Đối với thuế nhập khẩu có khoảng 28 thuế suất danh nghĩa khác nhau tính
theo giá CIF. Mức thuế cao nhất áp dụng cho ô tô, đồ uống và các hàng sa xỉ khác
cụ thể 150% với bia, rượu mạnh, ô tô dưới 5 chỗ; 100% đối với ô tô từ 5 đến 24
chỗ; xe máy, máy tu hình từ 40% đến 50%. Còn thuế quan đánh vào nguyên liệu
thô, các thiết bị cơ bản và các sản phẩm trung gian nói chung thấp hơn nhiều như
0% với thiết bị dụng cụ y tế; 5% đối với dầu ăn; 8% với sơn chống rỉ…
Thuế xuất nhập khẩu giai đoạn này còn bao gồm cả thuế doanh thu và thuế tiêu
thụ đặc biệt nên thuế suất cao. Tuy có thuận tiện cho việc thu tập trung nhưng
không phù hợp với thông lệ quốc tế khiến hạn chế hàng nước ngoài vào Việt Nam.
Thuế nhập khẩu còn quá nhiều thuế suất (28 thuế suất từ 0-15%) tuy giúp bảo hộ
từng nhóm doanh nghiệp trong nước nhưng lại làm cho biểu thuế quá phức tạp,
thuế nhập khẩu nhìn chung còn khá cao làm gia tăng tình trạng buôn lậu, nhập lậu
qua biên giới và cửa khẩu. Bên cạnh một số mặt hàng chịu thuế suất cao còn có
mặt hàng không thu thuế, miễn thuế, diện mặt hàng có thuế suất từ 0-2% nhiều dẫn
đến bất hợp lý không khuyến khích sản xuất trong nước.
18
Do đó , sau khi gia nhập ASEAN , Chính phủ Việt Nam đã sửa đổi khung thuế xuất
nhập khẩu, một số mặt hàng theo hướng giảm mức tối đa khung thuế suất xuống
60%, phần chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu cũ và mới đã được chuyển sang
thuế tiêu thụ đặc biệt. Đặc biệt, vào tháng 12 năm 1995 tại Hội nghị thượng đỉnh
các nước ASEAN lần thứ 5, Việt Nam đã thực hiện Chương trình ưu đãi về thuế
quan có hiệu lực chung CEPT nên theo Nghị định 91/CP ngày 18/12/1995 chính
phủ Việt Nam công bố có 875 mặt hàng được đưa vào danh mục cắt giảm thuế
quan theo CEPT. Còn năm 1997, theo Nghị định 82/CP ngày 13/12/1996, có 1496
mặt hàng được đưa vào thực hiện CEPT.
Các danh mục hàng hóa trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam năm 1995
Danh mục hàng hóa Số nhóm mặt hàng chịu
thuế
Tỷ lệ % trong tổng số các
mặt hàng

Giảm thuế ngay 1633 54.1
Loại trừ tạm thời 1189 39.5
Nhạy cảm 26 0.9
Loại trừ hoàn toàn 165 5.5
Tổng 3013 100
Nguồn: ban thư ký ASEAN
Năm 1998, Chính phủ Việt Nam đã ban hành thông tư hướng dẫn liên quan đến các
mặt hàng trong danh mục TEL ( danh mục loại trừ tạm thời), và đệ trình cho Ban
thư ký ASEAN danh mục TEL gồm 1317 hay 40,9% tổng nhóm hàng chịu thuế.
Hầu hết các mặt hàng thuộc TEL là hàng tiêu dùng và hàng mang chiến lược quan
trọng như xi măng, phân bón, bột giấy và giấy.
Danh mục hàng hóa CEPT của Việt Nam
Danh mục hàng hóa Tổng số các nhóm hàng chịu thuế
1996 1997 1998
Giảm ngay 857 1497 1661
Loại trừ tạm thời 1189 1143 1317
Nhạy cảm 26 26 26
19
Loại trừ hoàn toàn 146 146 213
Tổng 2218 2812 3217
Nguồn: bộ tài chính và ban thư ký ASEAN
Hơn nữa, năm 1998 theo Nghị định 1803/1998/QĐBTC , Việt Nam sử dung
18 mức thuế từ 0% đến 100%, gồm 6174 mặt hàng chịu thuế. Với các mặt hàng
xuất khẩu thì chỉ có 13 mức thuế suất khác nhau từ 0% đến 45%, còn với mặt hàng
nhập khẩu có 18 mức thuế. Những mặt hàng là các nguyên liệu cần thiết cho quá
trình sản xuất , máy móc thiết bị mà Việt Nam chưa sản xuất được , hoặc còn ít
chưa đáp ứng được nhu cầu thuế suất ở mức 10% với 508 mặt hàng (11% tổng số
mặt hàng chịu thuế). Với mức thuế 0% có1966 mặt hàng,có 667 mặt hàng chịu
thuế 5%,mức thuế 15% có 67 mặt hàng, 545 mặt hàng chịu thuế 20%, 30% với 658
mặt hàng, 40% với 626 mặt hàng, 508 mặt hàng chịu thuế 50% và có 28 mặt hàng

chịu thuế 100 % Và có thêm thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng cho hàng
nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận về ưu đãi đặc biệt về
thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan tạo
thuận lợi cho gaio lưu thương mại.
Năm 1999, danh mục CEPT của Việt Namg được ban hành kèm theo Nghị định số
14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 của Chính phủ gồm 3952 mặt hàng tăng 1949 mặt
hàng so với danh mục CEPT năm 1998. Năm 2000 Việt Nam đã đưa thêm 640
dòng thuế nữa vào danh mục CEPT nâng tổng số các mặt hàng được đưa vào danh
mục cắt giảm ngay(IL) lên tới 4230 mặt hàng, trong đó có 2960 mặt hàng có thuế
suất 0-5% trên tổng số hơn 6400 mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu.
Phân bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu so với các dòng hàng hóa nhập
khẩu năm 2000
Mức thuế suất
(%)
Số lượng mặt hàng
chịu thuế nhập khẩu
Tỷ trọng trong tổng số
mặt hàng chịu thuế
Ghi chú
20
nhập khẩu (%)
0
1,5
4,4
7,5-60
67,5-82,5
90
150
1988
143

382
2853
585
5
27
33,22
2,39
6,38
47,68
9,80
0,08
0,45
10 mức thuế suất
3 mức thuế suất
Tổng cộng 5983 100
Nguồn: Biểu thuế XNK và GTGT hàng nhập khẩu, tổng cục hải quan ban hành
năm 2000( số liệu tại thời điểm năm 2000)
Ta thấy biểu thuế có nhiều mức thuế suất cao, nhưng về kết cấu dòng thuế thấp
tương đối lớn, dòng thuế suất cao chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ.
Nhưng chính sách thuế xuất nhập khẩu luôn luôn phải bổ sung sửa đổi theo tình
hình thực tế nên thiếu ổn định, gây khó khăn cho việc theo dõi và gây tâm lý bất an
trong sản xuất kinh doanh nói chung và cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói
riêng.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2001- 2006
2.1.2.1. Những chính sách sau khi ký hiệp định Việt Mỹ
Hiệp Định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 và có hiệu lực
kể từ ngày 10/12/2001 là một sự kiện đánh dấu bước phát triển tích cực của mối
quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia lập quan hệ ngoại giao, là một bước
tiến mới trên con đường hội nhập của Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên chúg ta
đàm phán hợp đồng thương mại theo các tiêu chuẩn của WTO, đánh dấu một bước

chuẩn bị lớn để chúng ta nhanh chóng trở thành thành viên chính thứ của WTO,
mặt khác qua hiệp định thương mại Việt - Mỹ quan hệ giữa hai nước Việt Nam -
21
Hoa Kì ngày một trở nên tốt đẹp hơn với việc quốc hội Mỹ và Việt Nam thông qua
hiệp định này, đặc biệt là Quốc hội Mỹ ngay sau Hiệp định này đã và đang thông
qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam trong thời
gian tiếp sau.
Theo hiệp định này, Việt Nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối huệ
quốc đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước (mức thuế quan này là
50% đối với các quốc gia không nhận được MFN).
Cắt giảm thuế quan: Việt Nam đồng ý cắt giảm thuế quan (mức cắt giảm điển hình
là từ 1/3 đến 1/2 ) đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ quan
tâm như các sản phẩm vệ sinh, phim, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, xe gắn máy,
điện thoại di động, video games, thịt cừu, bơ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi, các loại
rau xanh khác, nho, táo và các loại hoa quả tươi khác, bột mỳ, đậu tương, dầu thực
vật, thịt và cá đã được chế biến, các loại nước hoa quả Việc cắt giảm thuế quan
các mặt hàng này được áp dụng dần dần trong giai đoạn 3 năm. Phía Mỹ thực hiện
cắt giảm ngay theo quy định của Hiệp định song phương. Do chưa được hưởng quy
chế Tối huệ quốc (MFN) nên hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải chịu các
rào cản thuế quan và phi thuế quan. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang Mỹ gồm thuỷ sản chiếm 15,6% kim ngạch xuất khẩu năm 1998, cà phê chiếm
18,54%, dầu thô chiếm 17%, gạo chiếm 8,38% và giày dép các loại chiếm 20,4%.
Các nhóm hàng này chiếm đến 80% kim ngạch xuất khẩu và là các mặt hàng có
hàm lượng chế biến thấp.
2.1.2.2 Lộ trình giảm thuế khi gia nhập AFTA
Để thực hiện cam kết này, Lịch trình cắt giảm thuế qua tổng thể thực hiện AFTA
giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn về
mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP - TCQT ngày 11/12/2000 của Văn
phòng Chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng Chính phủ đang
22

xem xét để phê chuẩn Nghị định ban hành Danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện
AFTA năm 2001.
Như vậy có nghĩa là đến năm 2006 có khoảng 95% mặt hàng nhập khẩu từ
ASEAN vào Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức thuế suất 0-5% và không bị áp dụng các
biện pháp phi quan thuế.
Để thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan, hạn cuối cùng vào năm 2006, Việt
Nam đã từng bước có những cải cách tích cực trong hệ thống thuế xuất nhập
khẩu của mình, dần dần thu hẹp khoảng cách khác biệt với thuế quan của các
nước ASEAN.
Năm 2003 Bộ Tài chính vừa hoàn thành việc chuyển đổi biểu thuế xuất, nhập khẩu
hiện hành sang biểu thuế quan chung của ASEAN, theo lộ trình Chương trình thuế
quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Theo danh mục chuyển đổi, biểu thuế
quan xuất, nhập khẩu hàng hóa hiện hành có 6.495 dòng thuế khi chuyển sang
danh mục thuế quan khu vực ASEAN sẽ được nâng lên 10.689 dòng thuế. Trong
đó, danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ nâng từ 5.559 lên 8.807 dòng thuế; danh
mục loại trừ tạm thời (TEL) từ 755 lên 1.376 dòng thuế; danh mục nông sản
nhạy cảm (SL) từ 52 lên 91 dòng thuế và danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) từ
139 lên 415 dòng thuế.
Trong lộ trình cắt giảm thuế quan để tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), năm 2002 Việt Nam sẽ chuyển 760 mặt hàng còn lại từ danh mục loại trừ
tạm thời sang Danh mục cắt giảm thuế ngay để áp dụng từ 1/1/2003. Đến năm
2002, Việt Nam đã cắt giảm thuế suất của 5.505 mặt hàng, chiếm gần 85% tổng số
nhóm mặt hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành. Từ 1/1/2003, khoảng
96% tổng số hàng hóa trong biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ được cắt
giảm. Đồng thời, thuế nhập khẩu của các mặt hàng hiện đang được bảo hộ cao với
mức thuế suất 40-50% sẽ giảm xuống còn 15-20% và tiếp tục giảm xuống còn 0-
23
5% vào năm 2006. Xét về kim ngạch thương mại thực tế, tác động của
CEPT/AFTA đối với trao đổi thương mại giữa Việt Nam và ASEAN chưa chịu ảnh
hưởng trực tiếp ngay của việc cắt giảm thuế nhập khẩu này. Đối với xuất khẩu,

hàng hóa của Việt Nam (chủ yếu là gạo, dầu thô, giày dép, hàng dệt may, cao su,
hải sản ) được hưởng thuế suất ưu đãi CEPT chiếm gần 20% trong tổng số kim
ngạch xuất khẩu sang ASEAN và chỉ chiếm 3,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam trong năm 2001. Tuy nhiên, lợi ích rõ ràng nhất khi tham gia
CEPT/AFTA là mở được thị trường tiêu thụ. Sau sáu năm thực hiện CEPT,
ASEAN đã trở thành một trong những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam,
bên cạnh EU, Nhật Bản, Mỹ.
2.1.2.3. Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005
Luật xuất nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 5 năm 2005 và có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và luật
hải quan của Việt Nam về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với những quy tắc và
định chế của pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế đối ngoại và yêu cầu thu ngân sách của nhà nước.
Luật thuế nhập khẩu đã phát huy vai trò của mình trong việc bảo hộ một cách hiệu
quả những mặt hàng có thế mạnh sản xuất trong nền sản xuất nội địa như sản phẩm
từ sản xuất nông nghiệp hay các ngành sản xuất còn non trẻ khác xét điều kiện
trong nước còn chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như chất lượng so
với các quốc gia khác trên thế giới như ngành sản xuất ô tô
Để khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu hàng hoá phục
vụ cho sản xuất và xuất khẩu, chính sách thuế XNK còn quy định các trường hợp
được miễn giảm và hoàn lại thuế. Và trong những năm gần đây thì sự điều chỉnh
trong cơ cấu thuế quan là đáng kể nhất. Thuế suất trung bình (không gia quyền)
tăng chút ít từ 13,4% năm 2003 lên 15,7% năm 2006. Sự gia tăng này kèm theo đó
24
là sự giảm đáng kể về độ phân tán của từng loại thuế riêng biệt xung quanh thuế
suất trung bình, hệ số biến thiên giảm từ 131% năm 2003 xuống 116,3% năm
2006. Cơ cấu thuế quan năm 2006 chỉ có 15 dòng thuế, so với 35 dòng năm 2000.
Thuế suất tối đa cũng giảm từ 200% xuống 120% trong giai đoạn này, kèm theo đó
là giảm số dòng thuế nằm ở mức cao nhất của biểu thuế. Cho đến đầu năm 2005,
chỉ có 1,1% tổng số dòng thuế (74/6269) là có thuế suất trên 50%.Việc giảm độ

phân tán của thuế quan vào năm 2005 so với năm 2006 chủ yếu là do điều chỉnh lại
1 số thuế suất ở mức giữa, theo hướng tăng thuế suất. Ví dụ, những dòng thuế có
thuế suất trong khoảng 12%-28% đã biến mất trong năm 2006. Cùng với đó là sự
gia tăng những thuế suất 30-50% .
Việc phân bổ thuế suất giữa các bảng HS (Harmonized System - mã số hàng hóa
dùng chung) thể hiện tính leo thang trong cơ cấu thuế của VN, trong đó sản phẩm
cuối cùng (chủ yếu là hàng tiêu dùng) có tỷ lệ bảo hộ cao, trong khi hàng trung
gian có thuế suất bằng 0 hoặc thuế suất thấp. Mức thuế suất đặc biệt cao với thực
phẩm, nông sản và 1 số hàng tiêu dùng ( nhất là quần áo, giày dép, sản phẩm sứ và
đồ da).
Điều quan trọng cần lưu ý là trong khi đánh thuế vào hàng trung gian thường thấp
hơn so với sản phẩm cuối cùng , hàng trung gian nhập khẩu để làm đầu vào cho
nhừng ngành mà VN có lợi thế cạnh tranh xuất khẩu thường cao hơn nhiều so với
những đầu vào cho những ngành cạnh tranh với nhập khẩu. Ví dụ: sợi để dệt và dệt
kim chịu thuế NK là 40%. Hầu hết những mức thuế suất thấp hoặc bằng 0 áp dụng
cho những mặt hàng chủ yếu do khu vực doanh nghiệp Nhà nước sử dụng làm đầu
vào cho sản xuất hàng trung gian hoặc thành phẩm cho thị trường nội địa.
2.1.3. Cam kết khi gia nhập WTO
Theo cam kết với WTO, Việt Nam cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu
gồm 10.600 dòng thuế với thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi
25

×