Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tài liệu Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.75 KB, 106 trang )


Trang 1









Luận văn

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thẩm định tài chính trong cho vay
trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN














Trang 2


]’


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế nước ta đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn. Điều đó tạo điều kiện
cho các Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò “trung gian tài chính” của mình.
Tuy nhiên trong một vài năm gần đây các hoạt động của ngân hàng có xu hướng
chững lại và xuất hiện tình trạng ứ đọng vốn trong khi các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế lại đang nằm trong tình trạng thiếu vốn để tổ chức sản xuất và thực
hiện các dự án.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều nhưng một trong những
nguyên nhân chủ yếu đó là chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu
tư tại các ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức, hoạt động cho vay
còn nặng về trường hợp “ bảo đảm vốn vay bằng tài sản thế chấp”
Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch NHNoVN em nhận thấy đây cũng
là một trong những mối quan tâm của Sở Giao Dịch đã và đang được xem xét,
nghiên cứu để tìm ra các giải pháp để khắc phục tình trạng trên. Xuất phát từ tình
hình thực tế của Sở Giao Dịch em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài
chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN”
Đề tài đi tìm hiểu từ lí luận đến thực trạng của Sở Giao Dịch và cuối cùng
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình thẩm định, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay trung dài hạn nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Sở Giao Dịch nói chung.
Kết cấu của đề tài:
Phần I: Những vấn đề chung về thẩm định tài chính của NHTM
Phần II: thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn
tại Sở Giao Dịch NHNoVN


Trang 3
Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính
trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Do thời gian thực tế còn hạn chế và kiến thức hạn hẹp nên nội dung đề tài
khó tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để
cho đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em chân thành cảm ơn thầy giáo Đàm Văn Huệ đã hướng dẫn em trong quá
trình thực tập và hoàn thành đề tài.
Hà nội tháng 3/2002
Sinh viên
Nguyễn Hoàng Hà.

Trang 4
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA NHTM
I. ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
Trong hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng ở nước ta hiện nay cũng như
trong hoạt động Ngân hàng thường xuất hiện các cụm từ “ dự án đầu tư”, “hoạt
động đầu tư” để đi sâu vào lĩnh vực này ta cần hiểu ý nghĩa của thuật ngữ.
1. Hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư hay ngắn gọn là đầu tư hiểu theo nghĩa rộng nhất là quá
trình sử dụng các nguồn lực để đạt được những mục tiêu nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động đầu tư được hiểu một cách ngắn gọn là
hoạt động bỏ vốn nhằm thu lợi trong tương lại. “Vốn” ở đây được hiểu là toàn bộ
vốn bằng tiền mặt, giá trị thiết bị, nhà xưởng, tài nguyên, đất đai và “lợi” được
hiểu là lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác.
2. Dự án đầu tư.
Theo nghĩa rộng dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với
những mục tiêu, phương pháp và phương tiện để đạt được trạng thái mong muốn.

Về nội dung, dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn
lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian
và địa điển xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định
nhằm thực hiện mục tiêu lợi nhuận hoặc những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thì : Dự án đầu tư là một
tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải taọ những đối
tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao
chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
Như vậy, dự án đầu tư không phải là một ý định hay phác thảo mà có tính
cụ thể và mục tiêu xác định nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định. Nó còn là

Trang 5
phương tiện thuyết phục chủ yếu để tìm kiếm sự tài trợ từ các tổ chức tài chính,
chính phủ
3. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư:
Để hiểu rõ hơn về hoạt động đầu tư thì việc phân tích các đặc trưng cơ bản
của hoạt động đầu tư là cần thiết, nhìn chung hoạt động đầu tư có một số đặc trưng
cơ bản sau:
3.1. Là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định đầu tư thường và trước hết là
Quyết định tài chính.
Vốn được hiểu là các nguồn lực sinh lời, vốn được thể hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau nhưng có thể sử dụng một thước đo chung đó là gía trị (được thể
hiện qua đơn vị tiền tệ). Vì hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định
đầu tư thường xuyên được xem xét từ phương diện tài chính (phải bỏ bao nhiêu
vốn, lời lãi bao nhiêu ). Trên thực tế hoạt động đầu tư, các Quyết định chi tiêu,
thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách và cũng luôn được xem xét từ
khía cạnh tài chính nói trên. Việc xem xét, đánh giá các dự án đầu tư của người ra
Quyết định đầu tư hay của nhà tài trợ trước hết cũng trên khía cạnh tài chính. Một
số dự án chỉ có thể thực hiện nếu có tính khả thi về mặt tài chính.
3.2. Là hoạt động diễn ra trong khoảng thời gian dài.

Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác,
đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài, bởi vì các hoạt động đầu tư thường
luôn có số lượng vốn bỏ ra rất lớn do đó để thu hút đủ vốn đầu tư và sinh lời thì
cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Đây là đặc trưng có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động đầu tư.
Do tính chất lâu dài nên sự trù liệu ban đầu đều là dự tính, chịu một xác suất
biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong những vấn đề hệ
trọng tính đến trong mọi nội dung phân tích, đánh giá quá trình thẩm định dự án.

Trang 6
3.3. Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích
trong tương lai.
Đầu tư về phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại đánh đổi lấy
lợi ích trong tương lai (vốn để đầu tư không phải là nguồn lực để dành) Vì vậy
luôn có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng
nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu trong
tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh.
3.4. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả của
hoạt động đầu tư là không thể dự tính một cách khách quan tại thời điểm Quyết
định đầu tư, Quyết định đầu tư phần nào mang tính chủ quan của nhà đầu tư và
không thể lường hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự án trong
tương lai (thay đổi về thị trường, về sản phẩm đầu vào, đầu ra, lạm phát ). Vì vậy,
chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư. Tuy nhiên nhận thức rõ ràng điều
này nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để
khả năng rủi ro xảy ra là thấp nhất.
Thông qua những đặc trưng của hoạt động đầu tư giúp nhà đầu tư có đựơc
cái nhìn bao quát về mọi khía cạnh của dự án. Từ đó giúp cho quá trình phân tích,
đánh giá dự án một cách cặn kẽ và chính xác. Đồng thời tìm ra phương pháp, biện
pháp nhằm hạn chế rủi ro bởi các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự

án.
4. Thẩm định dự án đầu tư và ý nghĩa của nó.
Một mặt, vì liên quan đến một thực tế trong tương lai, bất kì một dự án đầu
tư nào cũng mang tính phỏng định và mang trong mình nó một độ bất định.
Mặt khác, một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các tư vấn
lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Các nhà soạn
thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Do vậy, một
dự án dù soạn thảo kỹ đến đâu (theo đánh giá của người lập) cũng mang tính chủ

Trang 7
quan của ngươì soạn thảo và không xem xét, dự tính, đánh giá hết được tất cả các
khía cạnh liên quan hoặc đôi khi ý đồ của nhà đầu tư mà một số khía cạnh không
được đề cập đến.
Bên cạnh đó, Quyết định đầu tư hay tài trợ theo một dự án đầu tư là một
Quyết định tài chính dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn trả vốn dài,
chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án và nhà tài trợ
cũng cần xem xét, đánh giá, kỹ càng trước khi Quyết định đầu tư. Hơn nữa, dự án
đầu tư trước khi được thực hiện sẽ còn liên quan, ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều
bên liên quan khác nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên quan
để thấy được lợi ích thực do dự án đầu tư đem lại cho các bên, cho xã hội.
Vậy: Thẩm định dự án đầu tư là việc phân tích, đánh giá, xem xét một các
khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới
tính khả thi của một dự án để từ đó ra các Quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hay
ra các Quyết định tài trợ.
Về phía chủ đầu tư: Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp chủ đầu tư lựa
chọn được phương án đầu tư tối ưu, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, khả
năng tự có cũng như khả năng huy động các nguồn vốn, và giảm chi phí chuẩn bị
cũng như tiến hành hoạt động đầu tư đem lại lợi nhuận cao trong tương lại để
Quyết định đầu tư.
Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô của nhà nước: Việc thẩm định dự án đầu

tư sẽ giúp các cơ quan này đánh giá được tính cần thiết và phù hợp của dự án với
chiến lược, chương trình, kế hoạch kinh tế quốc dân thông qua các chương trình
phát triển liên kết, kế hoạch sản xuất ngành, địa phương, các công trình hỗ trợ trên
các mặt: Mục tiêu, quy hoạch và hiệu quả. Nó giúp xác đinh được cái lợi, cái hại
của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động như công nghệ cũ, vốn, gây ô nhiễm
môi trường và các lợi ích kinh tế xã hội khác.
Về phía các nhà tài trợ: Việc thẩm định sẽ giúp họ đánh giá, xem xét lại các
chi phí và hiệu quả của dự án, các luồng dịch chuyển về giá trị trên cơ sở đó có
chấp nhận các kế hoạch trả nợ không và từ đó có Quyết định tài trợ đúng đắn. Điều

Trang 8
này giúp cho các nhà tài trợ hỗ trợ chủ dự án sử dụng đồng vốn có hiệu quả đồng
thời bảo đảm sự an toàn tài chính cho chính nhà tài trợ.
Tóm lại, thẩm định dự án đầu tư là một công việc cần thiết, mặc dù đôi khi
khá phức tạp do có sự tồn tại của các cơ hội kinh tế thay thế lẫn nhau để tận dụng
các nguồn lực.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
Có nhiều khía cạnh có liên quan, tương hỗ khác nhau cùng tạo nên một dự
án tổng thể. Nhìn chung, chúng thuộc loại hình kỹ thuật, kinh tế, kinh tế, tài chính
và pháp luật, nhưng quan hệ của chũng làm rõ tới mức toàn bộ chúng cần phải
được cân nhắc, xem xét trước khi ra Quyết định đầu tư.
+ Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án:
Thẩm định với tư cách pháp nhân của chủ đầu tư (Quyết định thành lập,
giấy phép kinh doanh, văn bản bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng). Xem xét các
hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của nhà nước và pháp luật có đúng, hợp lệ
hay không
Thẩm định mục tiêu dự án để xem xét xem: mục tiêu của dự án có phù hợp
với chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, vùng hay địa phương,
ngành hay không. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề nhà nước
cho phép hoạt động hay không. Có thuộc nhóm ngành nghề ưu tiên hay không.

+ Thẩm định về thị trường của dự án:
Khía cạnh này cho phép thấy được đầu ra của dự án có thực hiện được
không khi dự án được tiến hành. Vì vậy nội dung của thẩm định là kiểm tra, xem
xét sản phẩm của dự án được sử dụng để đáp ứng nhu cầu trong nước hay bán trên
thị trường quốc tế. Dự án có những ưu thế và bất lợi gì so với các đối thủ cạnh
tranh. Lưu ý đến xu hướng sản phẩm xét theo trình độ phát triển công nghệ và chu
kỳ sản phẩm.
Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô của dự án, lựa chọn
thiết bị, công suất và dự kiến khả năng tiêu thụ. Phân tích và dự đoán đúng về thị

Trang 9
trường là một công việc khó khăn, song độ chính xác của phân tích thị trường sẽ
ảnh hưởng tới thành công của dự án.
+ Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án:
Mục tiêu thẩm định ở đây là để kiểm tra việc xác định cấu hình kỹ thuật
cũng như những phương diênj cốt yếu khác định hình trên dự án. Câu hỏi đặt ra ở
đây cần trả lời là liệu dự án có thực hiện về mặt kỹ thuật hay không. Thông tin vè
đời công nghệ hữu dụng của dự án. Thường thì khía cạnh này được quan tâm ngay
từ khi lập dự án, vì các chủ đầu tư phải ta được Quyết định việc lựa chọn trang
thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ.
Nhưng các nhà thẩm định độc lập sẽ kiểm tra công cụ sử dụng trong tính
toán. trong đó lưu ý đặc biệt đến các định mức kinh tế kỹ thuật. Đối với định mức
kinh tế - kỹ thuật phải rà soát cho phù hợp với điều kiện cụ thể của dự án như:
- Kiểm tra những sai sót trong tính toán: tính toán không đúng, không đủ,
không phù hợp.
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ thiết bị đối với dự án, cũng như tác
động của chúng đến môi trường.
+ Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lí.
Việc thẩm định dự án để cho được hiệu quả thì không thể chỉ hạn chế trong
việc đánh giá về tài chính và kinh tế các chi phí và lợi ích với giả thiết rằng dự án

sẽ được xây dựng và hoạt động đúng kỳ hạn. Điều này giả thiết là phải có sự hỗ trợ
về mặt hành chính để thực hiện dự án, điều này đặc biệt quan trọng đối với các
nước đang phát triển, mà ở nhiều nước việc đó lại hoàn toàn không có. Rất nhiều
dự án đã thất bại vì chúng đã được thực hiện trong điều kiện không có sự hiểu biết
về quản lí hành chính cần thiết cho việc triển khai dự án theo đúng yêu cầu quy
định. Triển vọng các lợi ích về mặt kinh tế tài chính có đạt được hay không là tuỳ
thuộc vào năng lực quản lí hành chính của cơ quan có trách nhiệm thi hành dự án.
Bên cạnh đó thị trường lao động cần phải được nghiên cứu kỹ nhằm đảm bảo rằng
các tính toán về các mức tiền lương phải trả là chính xác, cũng như nguồn cung

Trang 10
cấp nhân lực dự trù là hợp lí trong điều kiện cụ thể của thị trường lao động đảm
bảo được chất lượng công việc trong dự án.
+ Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án.
Quá trình phân tích tài chính là khâu tổng hợp đầu tiên các biến số tài chính
với các biến số kỹ thuật đã được tính toán trong các phần nêu trước đây và là dữ
liệu đầu vào cho các khâu thẩm định kinh tế - xã hội về sau.
Thẩm định tài chính là khâu hết sức quan trọng để các nhà đầu tư cũng như
các nhà tài trợ hay các nhà quản lí có thể đưa ra các Quyết định đầu tư đúng đắn
(Bởi vì chỉ rõ lợi ích kinh tế cụ thể đối với họ). Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn
ở phần sau.
+ Thẩm định về kinh tế - xã hội.
Nếu như mục đích của thẩm định tài chính dự án là nhằm đánh giá dự án từ
quan điểm của các chủ dự án thì mục đích của công việc thẩm định trong khâu này
là đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xem xét việc thực hiện
dự án có cải thiện được phúc lợi kinh tế quốc gia hay không.
- Dự án có thể giúp đạt được những mục tiêu xã hội nào đó của chính
quyền (dự án có tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống )
- Ai là đối tượng được hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người chịu chi phí

của dự án và hưởng lợi hay chịu chi phí theo cách nào ?
Một điều lưu ý khi thẩm định là phân tích kinh tế có tác động môi trường
của dự án đầu tư. Đã đến lúc người ta quan tâm đến sự “phát triển bền vững, phát
triển lâu bền”. Vấn đề không phải là chúng ta buộc phải lựa chọn giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường, mà phải là tìm cách phát triển một cách phù hợp, hài
hoà để đảm bảo được phát triển lâu bền. Vì vậy, việc đánh giá tác động đến môi
trường của các dự án trở thành một nhu cầu bức thiết và bắt buộc với các dự án
đầu tư.

Trang 11
Toàn bộ quá trình thẩm định thường là rất phức tạp, có tính liên ngành, đòi
hỏi sự liên kết, hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh
tế, kĩ thuật, môi trường mới có thể tiến hành thực hiện có hiệu quả.
Do quá trình thẩm định gồm nhiều giai đoạn nên việc thẩm định các khía
cạnh trên sẽ được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào. nếu là giai đoạn soạn thảo thì
do các nhà lập dự án thẩm định. Song một dự án hình thành xong, phân tích các
khía cạnh nêu trên phải được tiến hành một cách nghiêm túc và khách quan, để
trên cơ sở đó ra Quyết định chứ không phải ngược lại chỉ là hình và nhằm chứng
minh cho một Quyết định đã có. Chính vì vậy mà các cơ quan tư vấn hoặc chuyên
gia được giao trách nhiệm thực hiện công việc thẩm định, người thực hiện công
việc không thể là người của dự án.
Thẩm định dự án cần phải được tiến hành ở tất cả các khía cạnh nêu trên.
Nó nằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính toán các biến cố chủ yếu mà
chủ dự án đã lập. Việc đưa ra các kết luận đánh giá trên các khía cạnh sẽ cho phép
đưa ra các Quyết định đầu tư hay Quyết định tài trợ đúng đắn và là cơ sở cho khả
năng dự án sẽ đứng vững trong vòng đời hữu dụng của nó.
Tóm lại, ta có thể nghĩ về một dự án như là một tập hợp các quan hệ giao
dịch, qua đó các cá nhân hay tổ c hức phải chịu các chi phí khác nhau và nhận
được những lợi ích khác nhau. Việc thẩm định dự án từ một số quan điểm khác
nhau là rất quan trọng vì chúng cho phép các nhà phân tích xác định xem các thành

viên liên quan đến dự án có thấy đáng tài trợ, đáng tham gia thực hiện dự án hay
không. Để đảm bảo cho việc phê chuẩn và thực hiện thành công một dự án phải
hấp dẫn đối với tất cả những người đầu tư và những người thực hiện có liên quan
tới dự án.
II. PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CÁC
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG.
1.Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Để thực hiện một cách chính xác về hiệu quả dự án cần thực hiện các bước
sau:

Trang 12
1.1.Các bước thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư.
 Kiểm tra tính hợp lí, hợp lệ, đúng, đủ của số liệu trong các mẫu biểu đưa
ra trong dự án.
Thực hiện việc thu thập, tổng hợp, xem xét lại các cơ sở của các số liệu đưa
ra trong dự án, đối chiếu (nếu có thể) với các chỉ tiêu tham chiếu của ngành, của
nền kinh tế để kiểm chứng. Các số liệu này sẽ ảnh hưởng tới phương pháp và kết
quả phân tích các chỉ tiêu tài chính của dự án. một số bảng dự trù tài chính:
- Dự trù chi phí mua sắm thiết bị
- Dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
- Dự trù doanh thu lỗ lãi.
- Dự trù bảng cân đối thu chi
- Kế hoạch vay vốn và trả nợ.
- Dự trù bảng cân đối tài sản.
 Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án:
Tổng vốn đầu tư của dự án đã được các chủ đầu tư dự kiến, song Ngân hàng
cần tiến hành xem xét lại, điều này quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp dự án được
thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, vốn đầu tư thiếu sẽ
gây cho hoạt động của dự án sau này và ngược lại thừa vốn đầu tư có thể gây lãng
phí vốn và làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư là tập hợp toàn

bộ các chi phí góp phần tạo nên thực trạng công trình và bảo đảm cho công trình
sẵn sàng đưa vào khai thác, sử dụng.
Thành phần vốn gồm có vốn cố định và vốn lưu động :
+ Vốn cố định: Nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu của dự
án. Bao gồm:
 Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm định dự
án đầu tư.
 Vốn chuẩn bị xây dựng bao gồm:

Trang 13
Chi phí ban đầu về đất đai (đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển quyền sử
dụng đất).
Chi phí khảo sát, thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán. chi phí
đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư (cấp giấy phép xây dựng, giám định, kiểm tra
thiết bị )
Chi phí xây dựng đường điện, nước, thi công, lán trại thi công.
 Vốn thực hiện đầu tư:
Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục công trình, lắp đặt thiết bị.
Chi phí thiết bị: Chi phí mua sắm thiết bị, chi phí vận chuyển về công trường, bảo
quản thiết bị.
Chi phí quản lí, giám sát thực hiện đầu tư.
Chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn giao
Chi phí huy động vốn: Các khoản lãi vay vốn đầu tư và các chi phí phải trả
trong thời gian thực hiện đầu tư.
+ Vốn huy động: là khoản vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên sau khi
kết thúc giai đoạn thực hiện đầu tư gồm:
 Vốn sản xuất: tiền, nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương
 Vốn lưu thông: sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán
chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị
 Vốn dự phòng: để xác định được nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng ước tính

chi phí từng loại dựa trên khối lượng công việc, đơn giá định mức hay căn cứ trên
giá thị trường. Việc xác định tổng mức đầu tư có ý nghĩa đối với ngân hàng ở cả
hai trường hợp. Nếu xác định tổng mức đầu tư thấp hơn so với thực tiễn thì khi
thực hiện đầu tư sẽ phát sinh thiêú vốn, dự án đầu tư không hoạt động được.
Trường hợp xác định mức đầutư lớn hơn sẽ cấp thừa cho doanh nghiệp, gây thừa
vốn không cần thiết và doanh nghiệp phải chịu chi phí lãi suất cao.
 Phương án vốn của doanh nghiệp và tiến độ bỏ vốn.

Trang 14
Doanh nghiệp có thể xác định tài trợ dự án của mình từ các nguồn:
- Vốn tự có.
- Vốn ngân sách cấp
- Vốn vay.
Ngân hàng phải kiểm tra tính hiện thực của vốn tự có cuả doanh nghiệp,
xem xét tỉ lệ:( vốn tự có / tổng vốn đầu tư ) để đo lường được rủi ro. Với công
trình đầu tư bằng nhiều nguồn vốn thì cần phải có xác nhận của cơ quan quản lí
từng nguồn vốn nói trên ngân hàng chỉ cho vay vốn còn thiếu:
Nhu cầu =
Tổng nhu cầu
- Vốn tự - Vốn ngân - Vốn khác
vay vốn vốn đầu tư có sách (nếu có)
 Tính toán hiệu quả tài chính của dự án:
+ Xem xét các biểu tính toán của doanh nghiệp.
- Biểu tính vốn đầu tư theo các khoản mục xây lắp (khối lượng, đơn giá
và chi phí)
- Chi phí mua sắm thiết bị (loại thiết bị, số lượng, đơn giá).
- Chi phí khác.
- Biểu tính vốn lưu động.
- Tổng chi phí sản xuất.
- Doanh thu.

- Dự trù lỗ lãi.
- Thời gian hoàn vốn.
+ Thông qua xem xét cần có các kết luận chính xác về:
- Dự án đã đưa đủ các yếu tố chi phí vào giá thành chưa
- Sự hợp lý các định mức tiêu hao nguyên liệu vật liệu 
- Tỷ lệ trích khấu hao đã hợp lý chưa 

Trang 15
- Các chi phí khác có điểm nào chưa phù hợp 
- Tỷ lệ đạt công suất hoạt động qua các năm 
- Doanh thu và khả năng thực tế đạt được 
Sau khi các số liệu trên bảng tính toán đã được kiểm định là hợp lý, cán bộ
thẩm định tiến hành thẩm định một số chỉ tiêu tài chính quan trọng giúp lượng hoá
hiệu quả tài chính của dự án, giúp cho các nhận định về dự án có tính chính xác và
khoa học. Được thể hiện các phương pháp sau:
1.2.Các phương pháp sử dụng khi thẩm định dự án đầu tư:
Từ trước đến nay các nhà đầu tư đã sử dụng một trong các phương pháp
sau:
- Giá trị hiện tài ròng (NPV)
- Tỷ suất nội hoàn (IRR)
- Thời gian hoàn vốn (PP)
- Điểm hoà vốn.
- Tỷ số lợi ích - chi phí (BCR).
Để sử dụng các phương pháp trên ta cần hiểu rõ các khái niệm sau:

Giá trị thời gian của tiền:
Tiền có giá trị thời gian không giống nhau ở các thời điểm khác nhau. Một
đồng tiền có được ở hiện tại được coi là có giá trị cao hơn cùng một đồng tiền đó
nhận được trong tương lai để đầu tư có lãi hay tiêu dùng trong khoảng thời gian
giữa hiện tại và tương lai. Do đó, người ta sẵn sàng đi vay để có thể sử dụng được

vốn, còn người cho vay đòi hỏi phải được trả lãi.

Lãi kép:
Là phương pháp tính lãi trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào gốc để
tính lãi tiếp cho kỳ sau:
FV = PV ( 1 + r )
n


Trang 16
Trong đó:
PV: giá trị hiện tại (vốn ban đầu).
FV: giá trị tương lai (số tiền thu được).
n: số kỳ tính lãi
r : lãi suất.

Chiết khấu:
Trong các dự án đầu tư việc thu được lợi ích và bỏ các chi phí thường xảy
ra vào các giai đoạn khác nhau. Vì đồng tiền có giá trị thời gian, nên để có thể so
sánh chi phí và lợi ích xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau, chúng cần phải
quy đổi đồng tiền ở các thời điểm về cùng một thời điểm hoặc về hiện tại, hoặc về
tương lai, hoặc về bất kỳ một thời điểm nào đó thông qua một hệ số quy đổi. Hệ số
này gọi là hệ số chiết khấu và nó phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu một thông số biểu
hiện sự giảm giá trị của dòng tiền theo thời gian.

Hệ số chiết khấu =
1
( 1+ r)
t - x



Trong đó:
r: tỷ lệ chiết khấu
t: năm thứ t của dự án
x: năm được chọn làm mốc quy đổi (thường = 0).
1.2.1 Phương pháp giá trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV).
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện
tại của các luồng tiền kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của các chi phí
của dự án đầu tư.
Có thể biểu diễn bằng phương trình sau

 


n
t
t
r
CtBt
CoNPV
1 )1(
)(

Trang 17
Trong đó:
B1,B2 Bn: luồng thu nhập của các thời kỳ.
C1, C2 Cn: luồng chi phí của các thời kỳ.
t: năm thứ t của dự án.
r: tỷ lệ chiết khấu
Co vốn đầu tư

n: thời gian hoạt động của dự án.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu của từng dự án đầu tư là một việc làm
không đơn giản. có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi
ro. Rõ ràng là khi mức rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và
chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án, thì tỷ lệ chiết khấu thích
hợp bằng với chi phí trung bình của vốn (WACC).
Ở công thức trên tỷ lệ chiết khấu là r không thay đổi trong suốt thời gian dự
án. Tuy nhiên điều này không nhất thiết phải như vậy. Giả sử vốn vào thời điểm
hiện này là rất khan hiếm so với trước đây. Trong những tình huống như vậy, ta sẽ
thấy rằng chi phí của vốn vào thời điểm hiện tại sẽ cao một cách bất bình thường
và như vậy tỷ lệ chiết khấu theo thời gian sẽ giảm dần trong lúc cung và cầu của
vốn trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại có nhiều tiền vốn, chúng ta dự
kiến chi phí của vốn và tỷ lệ chiết khấu sẽ xuống thấp hơn mức trung bình dài hạn.
trong trường hợp này, chúng ta có lẽ dự kiến tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng lên trong khi
cung cầu vốn dần quay trở về xu hướng dài hạn.
Nếu có lí do để tin rằng tỉ lệ chiết khấu thay đổi một cách có thể dự đoán
trước được thì giá trị hiện tại ròng của một dự án tính như sau:
NPV = -Co +
B1- c1
+

B2-C2
+
Bn-Cn
1+r
1
(1+r
1
)(1+r
2

) (1+r
1
)(1+r
2
) (1+r
n
)
trong đó: r
1
,r
2
,r
3
rn : là tỷ lệ chiết khấu các năm tương ứng.

Nguyên tắc sử dụng phương pháp NPV làm tiêu chuẩn đầu tư.

Trang 18
Trong trường hợp dự án đầu tư cần đánh giá độc lập so với các dự án khác
thì chấp thuận hay bác bỏ dự án đó tuỳ thuộc vào giá trị của NPV. Có 3 khả năng
có thể xảy ra:
NPV > 0 chấp thuận dự án
NPV < 0 loại bỏ dự án.
NPV = 0 doanh nghiệp sẽ không thiên vị trong việc chấp thuận hay
loại bỏ dự án mà tuỳ theo sự cần thiết của nó đối với doanh nghiệp mà ra Quyết
định.
Trong trường hợp dự án đầu tư bị hạn chế bởi ngân sách, nguồn tài trợ.
Trong giới hạn một ngân sách đã được ấn định cần lựa chọn trong số các dự án
hiện có nhóm dự án nào có thể tối đa hoá giá trị hiện tại ròng.
NPV = NPV1 + NPV2 + = Max  giới hạn ngân sách.

NPV: giá trị hiện tại ròng tối đa của nhóm dự án lựa chon.
NPV1, NPV2 giá trị hiện tại ròng của dự án 1, dự án 2
Trong trường hợp lựa chọn một trong sốdự án loại trừ nhau. Trong tình
huống không bị giới hạn bới ngân sách, nhưng ta phải lựa chọn một dự án trong số
các dự án loại trừ nhau, ta luôn chọn dự án sinh ra giá trị hiện tại ròng lớn nhất:
Max ( NPV1, NPV2 NPVn).

Ưu điểm của phương pháp NPV:
- NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản
của chủ đầu tư.
- Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
- NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư với tỷ
lệ tối đa hoá lợi nhuận của chủ đầu tư.
- Quyết định chấp thuận hay từ chối và xếp hạng dự án phù hợp với mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận cuả chủ đầu tư.


Nhược điểm của phương pháp NPV:

Trang 19
- Không thể so sánh được các dự án nếu thời gian của chúng khác nhau.
- Phụ thuộc vào cách lựa chọn r – tỷ lệ chiết khấu.
- NPV chỉ cho thấy giá trị tuyệt đối của lợi nhuận mà không cho thấy tỷ lệ
phát sinh của dự án, do đó sẽ có thể bỏ qua những dự án có tỷ lệ sinh lời
cao.
- Tất cả các khoản tiền này lại xảy ra trong suốt các kỳ.
1.2.2. Phương pháp tỷ suất nội hoàn ( Internal Rate of Return - IRR )
Phương pháp tỷ suất nội hoàn nội bộ (IRR) là phương pháp xếp hạng các dự
án đầu tư sử dụng tỷ lệ lãi suất đối với một khoản đầu tư tài sản. Trong đó tỉ lệ lãi
suất này được tính bằng cách tìm một tỷ lệ chiết khấu mà nó làm cân bằng giá trị

hiện tại của những luồng tiền tương lai và chi phí đầu tư.
Về phương diện tính toán IRR của một dự án là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó
NPV = 0
Ta có phương trình dùng để tính toán IRR.




 0
1
IRR
CtBt
C
Trong đó
IRR: tỷ suất nội hoàn (cần xác định).
Co : vốn đầu tư ban đầu
Bt thu nhập trong năm t
Ct : chi phí trong năm t
n: thời gian phân tích dự án.
Việc giải phương trình trên theo một phương pháp toán học nào đó là hết
sức khó khăn (trường hợp n lớn) nhiều khi là không thực hiện được, để xác định
IRR một cách tương đối chính xác ta có thể sử dụng phương pháp nội suy, kết quả
như sau:

Trang 20
IRR =
 
21
1
121

NPVrNPVr
NPVr
xrrr


Trong đó :
r
1
,r
2
là lãi suất chiết khấu tương ứng của NPVr
1
, NPVr
2
với điều kiện:
- r
1
< r
2

- NPVr
1
, NPVr
2
< 0 và NPVr
1
, NPVr
2
rất gần 0.


Nguyên tắc sử dụng IRR làm tiêu chuẩn đầu tư:
-Trường hợp các dự án đầu tư là độc lập về mặt kinh tế, quy tắc áp dụng để
các Quyết định đầu tư như sau:
 IRR > chi phí cơ hội của vốn  chấp nhận dự án.
 IRR < chi phí cơ hội của vốn  bác bỏ dự án.
 IRR = chi phí cơ hội của vốn  tuỳ theo những yêu cầu khác đối
với dự án, chủ dự án có thể chấp nhận hay bác bỏ.
-Trường hợp các dự án loại trừ nhau thì chúng ta chọn dự án có IRR cao
nhất. Tuy nhiên nếu IRR cao nhất nhỏ hơn tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự án (hay
chi phí cơ hội của vốn) thì không dự án nào trong các dự án đó không được chấp
nhận.

Ưu điểm của phương pháp IRR:
- Đo lường bằng tỉ lệ phần trăm, nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng
vốn, nó chỉ rõ tỷ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được. Không có
phương pháp nào khác để cung cấp thông tin quan trọng như vậy và đây chính là
ưu điểm rất quan trọng của tiêu chuẩn IRR.
- Tỷ suất nội hoàn là một tiêu chuẩn hay được sử dụng để mô tả tính hấp
dẫn của dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết tính doanh lợi
của dự án. Quyết định chấp thuận hay từ chối của cổ đông.
- Trong một số trường hợp, nó cho phép tránh được nhữngkhó khăn khi
phải xác định trước lãi suất thích hợp.

Trang 21
 Nhược điểm của phương pháp IRR:
- Việc áp dụng tiêu chuẩn này có thể không chắc chắn nếu tại các khoản cân
bằng thu chi thực âm đáng kể trong giai đoạn vận hành của dự án, tứcl à đầu tư
thay thế lớn hơn.
- Tỷ suất này sẽ không còn tin cậy khi dùng để lựa chọn dự án mang tính
loại trừ nhau với các khoản đầu tư có quy mô khác nhau, có đời hữu dụng khác

nhau.
- Không đo lường trực tiếp ảnh hưởng của một dự án đối với lợi nhuận của
cổ đông.
- Dễ tạo ra sự ngộ nhận rằng thu nhập của dự án có thể được tái đầu tư với
tỷ lệ sinh lời bằng IRR
- Xếp hạng dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá thu nhập của cổ
đông.
1.2.3. Phương pháp thời gian hoàn vốn (Pay-out or Pay-back period-PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu
tư ban đầu.
Có hai cách để áp dụng chỉ tiêu này, đó là thời gian hoàn vốn không chiết
khấu và thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
Theo phương pháp này, nếu rút ngắn được thời gian thu hồi vốn sẽ tốt hơn
cho một dự án đầu tư. Mặt khác, các nhà quản trị còn sử dụng thời gian hoàn vốn
để đánh giá các dự án đầu tư bằng cách thiết lập chi tiêu thời gian hoàn vốn cần
thiết và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được của dự án. Những dự án
có thời gian hoàn vốn dài hơn thời gian cho phép tối đa sẽ bị loại bỏ và những dự
án có thời gian hoàn vốn ngắn hơn chỉ tiêu thời gian hoàn vốn tối đa sẽ được chấp
nhận.
+ Quy tắc thời gian hoàn vốn đã được sử dụng rộng rãi trong việc Quyết
định đầu tư bởi :

Trang 22
- Dễ áp dụng và khuyến khích đầu tư vào các dự án có thời gian hoàn
vốn nhanh.
- Nếu sử dụng hợp lý, nó có thể tạo ra một hình ảnh ban đầu về dự án.
+ Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhiều nhược điểm.
- Phần thu nhập ngoài thời gian hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn mà
không được tính trong dự án. Do đó không biết chính xác về doanh lợi của dự án
đầu tư.

- Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem
xét, đánh giá.
- Không đo lường được tác động trực tiếp của dự án đối với thu nhập
của cổ đông.
- Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
của chủ sở hữu.
- Yếu tố thời gian của tiền tệ không được đề cập đến trong quá trình
tính toán (đối với thời gian hoàn vốn không chiết khấu).
+ Phương pháp tính :
Thời gian thu
hồi vốn (PP)
=

Năm ngay trước năm
các luồng tiền của dự
án đáp ứng được chi
phí
+
Chi phí chưa được
bù đắp đầu năm
Luồng tiền thu được
trong năm
1.2.4. Phương pháp tỷ số lợi ích - chi phí (Benefit-Cost Ratio - BCR)
Tỷ số lợi ích – chi phí được tính bằng cách đem chia giá trị hiện tại của các
khoản thu nhập cho giá trị hiện taị của các chi phí, sử dụng chi phí cơ hội của vốn
làm tỷ lệ chiết khấu.

Trang 23

Trong đó :

Bt : Thu nhập trong năm t.
Ct : Chi phí trong năm t.
N : Thời gian hoạt động của dự án.
R : Tỷ lệ chiết khấu (chi phí cơ hội).
+ Nguyên tắc sử dụng tỷ số lợi ích – chi phí : Dùng tỷ số này để xếp hạng các
dự án đầu tư là quy tắc được nhiều nhà phân tích đầu tư áp dụng rộng rãi nhất. Một
dự án chấp nhận được nếu tỷ số lợi ích – chi phí lớn hơn 1 (Phản ánh chi phí bỏ ra
trong năm nhỏ hơn thu nhập thu được trong năm đó). Và trong việc lựa chọn các
dự án loại trừ lẫn nhau, quy tắc là chọn dự án nào có tỷ số lợi ích – chi phí lớn
nhất.
+ Nhược điểm khi áp dụng phương pháp tỷ số lợi ích - chi phí :
- Tiêu chuẩn này có thể làm ta xếp hạng sai các dự án nếu các dự án này
khác nhau về quy mô, các dự án loại trừ nhau.
- Tỷ số này rất nhạy cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế
toán. Trong cách tính BCR nêu trên, ta quan niệm lợi ích là toàn bộ các nguồn thu
gia tăng của dự án, còn chi phí đầu tư là tổng của chi phí sản xuất gia tăng, chi phí
vận hành và bảo dưỡng, chi phí đẩu tư hay chi phí đầu tư thay thế (nếu có). Việc
xếp hạng hai dự án có thể trái ngược nhau tuỳ theo cách người ta xử lý chi phí hiện
thời (Current Cost).
1.2.5. Phương pháp theo tiêu chuẩn điểm hoà vốn (H) :
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Phân tích
điểm hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản lượng sản xuất hoặc mức







n

t
t
r
Ct
BCR
0
)1(
n
0t
t
r)(1
Bt


Trang 24
doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành không gây nguy hiểm tới khả
năng tồn tại về mặt tài chính của no. Ngoài ra, phân tích điểm hoà vốn còn giúp
cho việc xem xét về mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được (tức là dự án
không bị lỗ, có đủ tiền mặt để hoạt động và có khả năng trả nợ).
Phân tích điểm hoà vốn là sự phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất
biến, chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được.
Điểm hoà vốn theo quan điểm của nhà doanh nghiệp là điểm mà tại đó mức
sản lượng hoặc mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị lỗ trong năm hoạt
động bình thường.
Trong đó : TVC : Tổng chi phí biến đổi trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao gồm
cả lãi vay.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
Sản lượng tiêu thụ ở điểm hoà vốn :
Trong đó :

Q
o
: Sản lượng ở điểm hoà vốn.
P : Giá bán một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Q : Sản lượng dự kiến sản xuất và tiêu thụ hàng năm.
Doanh thu ở điểm hoà vốn :
TVC

-
TR
TFC
H hoµ vèniÓm§ 
TR H Q hay
VC

-
P
TFC
Q
LToo


Trang 25
Trong đó :
TR
o
: Tổng doanh thu ở điểm hoà vốn.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao

gồm cả lãi vay.
P : Giá bán trên một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Đánh giá mức hoạt động của dự án ở điểm hoà vốn ở chỉ tiêu :
Các dự án có điểm hoà vốn càng thấp càng tốt vì điểm hoà vốn càng thấp
thì khả năng thu lợi nhuận càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Việc phân tích hoà
vốn được tiến hành cho từng dự án. Điểm hoà vốn khác nhau giữa các ngành khác
nhau.
+ Nhược điểm của phương pháp này :
Điểm hoà vốn chỉ nói lên mối quan hệ giữa khối lượng tiêu thụ dự kiến và
lợi nhuận cần đạt được ở mức giá nhất định. Tuy nhiên, sản phẩm của dự án có thể
bán theo nhiều giá khác nhau và điểm hoà vốn cũng khác nhau. Mặt khác, thường
thì một dự án có nhiều sản phẩm sẽ có nhiều giá bán khác nhau. Vì vậy, việc xác
định điểm hoà vốn trong những trường hợp nêu trên là rát khó và trở nên phức tạp.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển dự án, khi phải tăng sản lượng thì cần đầu tư
thêm vốn cố định để mua sắm mới máy móc, thiết bị, công nghệ và vốn lưu động.
Trong trường hợp đó, định phí và biến phí cũng thay đổi dẫn tới việc phân tích
điểm hoà vốn sẽ phức tạp và tính chính xác không cao.
TR H TR hay
P
VC
- 1
TFC
TR
LToo

thuÇn

thu


Doanh
hoµ vèn
thu Doanh

×