Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về CNXH và làm rõ quan điểm CNXH là điều kiện vững chắc để đảm bảo độc lập dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.7 KB, 38 trang )

Đề tài:
“Tư
tưởng
Hồ Chí
về CNXH
và làm rõ quan điểm: CNXH là điều
kiện
vững
chắc
để đảm
bảoMinh
độc lập
dân tộc.

1


MỞ ĐẦU
Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) và đặt ách thống trị ở nước ta
cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư
sản đã liên tục dấy lên. Nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song
tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Bởi lẽ lãnh đạo các cuộc kháng chiến là
các sỹ phu, văn thân mang nặng ý thức hệ phong kiến hoặc ảnh hưởng của hệ tư
tưởng tư sản, đường lối cứu nước không rõ ràng. Thực tiễn lịch sử các cuộc đấu
tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng,
không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan
điểm phong kiến, hay tư sản. Lịch sử dân tộc đặt ra một địi hỏi cần có một lực
lượng lãnh đạo đất nước với một con đường cứu nước mới, có khả năng tập hợp
và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa dân tộc ta đến độc lập tự do thực
sự.Trong điều kiện ấy, sự lựa chọn con đường cứu nước cứu dân theo con đường
cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh là duy nhất đúng. Nó có cơ sở thực tiễn của


cách mạng Việt Nam và cơ sở lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa MácLênin. Sự lựa chọn này là bước ngoặt cực kỳ to lớn trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Lần đầu tiên sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc được nâng lên trình
độ một cuộc cách mạng xã hội, kết hợp trong bản thân tiến trình cách mạng cả
hai sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp để đi đến giải phóng
con người. Điều đó tự nó tạo thành định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khách
quan, cố kết tự nhiên giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội,
đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ
sung vào lý luận Mác-Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần vơ giá của dân tộc ta. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và làm rõ quan điểm: CNXH là điều kiện


vững chắc để đảm bảo độc lập dân tộc” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
nóng hổi trong giai đoạn hiện nay và lâu dài hơn nữa.


NỘI DUNG CHÍNH
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hố Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, đồng thời nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, Đại hội IX
của Đảng (tháng 4 năm 2001) xác định tư tưởng Hồ Chí Minh gồm: Tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về
sức mạnh nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phịng tồn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa,
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức

cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Trong giai đoạn hiện nay, để “tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” cần nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí
Minh về CNXH.
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để phát huy được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.


- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong
đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều
kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng được hưởng; các dân tộc đều được
bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để theo kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm

cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây dựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nịng cốt là cơng – nơng – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá
nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh
tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải
quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể
thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên
ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại
lực là rất quan trọng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: Cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể
của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Tùy
vào hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì
đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản),…Có nước thì phải kinh qua chế độ dân
chủ mới , rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…”.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ
và lâu dài”.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ rõ phải giữa vững và tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng:
Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước: Phát huy tích cực, chủ động của các tổ
chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phổ biến, có tính quy luật trên thế giới.

Nhưng việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất
phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân
dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao,
không chủ quan, nơn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai
bàn tay trắng đi lên thì khó khăn cịn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”,
“khơng thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng
chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua
nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm
mau, ham rầm rộ……Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần


dần”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây
dựng và bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược khác nhau ở hai miền Nam – Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước). Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết
tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề
ra.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là
tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các
nguồn lực trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân. Người luôn
luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều,
rập khuôn kinh nghiệm nước ngồi, phải suy nghĩ tìm tịi, sáng tạo ra cách làm
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh cụ thể

của nước ta. Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt,
có tính ngun tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam.
4.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…


có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
4.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là cơng nghiệp
và nơng nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông
nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp
đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp hàng tiêu dùng
cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân
hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy
bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải
giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công
nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho
nhân dân.
4.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành cơng nghiệp hóa:
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày 20-011960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong cơng nghiệp và trong
nơng nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp

trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy,
thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, ra thép, than,
dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường cơng nghiệp hóa nước
nhà”.
4.4. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cịn nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Người chỉ ra rằng, ở thời kỳ q độ, nền kinh tế đó cịn các hình thức sở hữu
chính: “Sở hữu của nhà nước, tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã, tức là
sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu
sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành
phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế
khác nhau…trong 5 loại ấy, loại A (kinh tế quốc doanh) là kinh tế lãnh đạo và
phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã
hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí
Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, Cơng tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là cơng. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của cơng,
khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá
nhân của nông dân và thủ cơng nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây
dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số
nhân dân.
Hai là, Chủ thợ đều lợi. Nhà nước tư bản không khỏi bóc lột. Nhưng Chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột nhân dân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi cho

cơng nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số
lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản
xuất lợi cả đôi bên.
Ba là, Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ
cần dùng khác, để cũng cấp cho nơng dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia sản xuất,


để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho cơng nhân. Do đó mà càng
thắt chặt liên minh giữa cơng nơng.
Bốn là, Lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai thác lâm thổ sản để bán cho
các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các bạn mua những thứ ta đưa ra
và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch,
giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
4.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường
đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất
mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như một phương châm. Phải
luôn thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu lại phải chịu nhiều bom
đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng sản
phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng trong
các chặng đường phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là kẻ thù của
nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá nguy hiểm, vì nó
khơng mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng
cơng việc của ta”. Dù có cố ý hay khơng, tham ơ, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn

đồng minh của thực dân và phong kiến”. “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý
chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm,
liêm, chính”. Nó “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của
Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.


5. Tư tưởng Hồ Chí Minh và bảo vệ Tổ quốc.
5.1. về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng
vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và đấu tranh cách
mạng, phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của
cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng. “Sự đồng tâm của đống bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh
Tổ quốc”. Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở cho đấu tranh quân sự, đồng
thời còn là lực lượng tiến công trực tiếp đánh địch theo các phương thức và nội
dung rất phong phú, linh hoạt. về lực lượng vũ trang, Người chủ trương xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân, du kích.
Đây cũng là một nội dung lớn và sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
5.2. Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội.
Theo Hồ Chí Minh, việc xây dụng bản chất cách mạng, ý thức và trình độ
chính trị cho lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện một
cách chặt chẽ, có hệ thống. “Quân sự mà khơng có chính trị như cây khơng có
gốc, vơ dụng mà lại có hại”. Người xác định qn đội ta có ba nhiệm vụ: Đội
quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Quân đội và lực lượng
công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Về sức mạnh của lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của
yếu tố con người khi nêu luận điểm “người trước, súng sau”. Đó là sự thống nhất
giữa người cầm vũ khí với vũ khí, trong đó người cầm vũ khí đóng vai trị quyết

định. Trong qn đội, Người chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, cả
chính trị, quân sự, khoa học – kỹ thuật và hậu cần. Người nêu sáu yêu cầu cơ bản
đối với người chỉ huy quân sự: “Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm - Trung”.


5.3.về xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng tồn dân.
Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng thế
trận lịng dân. Đối với Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực và
sức mạnh tinh thần, mà lòng dân là sức mạnh đặc biệt to lớn.
Về quốc phòng, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền quốc phịng
tồn dân hùng mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất. Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản tư tưởng, đạo đức, phong
cách vô cùng quý giá; là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam
vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh giành độc lập
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công
cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
yêu cầu, trách nhiệm, nhưng đồng thới cũng là tình cảm, là nguyện vọng tha thiết
của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam yêu nước, để xây dựng một đất
nước Việt Nam giàu đẹp, dân chủ; dân tộc Việt Nam độc lập, tự do; nhân dân Việt
Nam ấm no, hạnh phúc.
II. Quan điểm: CNXH là điều kiện vững chắc để đảm bảo độc lập dân
tộc.
Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta, sau khi hoàn thành
việc xâm lược và thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam, thực
dân Pháp tiến hành cơng cuộc khai thác, chúng cướp đoạt tài ngun, bóc lột
nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hố của
chính quốc,đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cùng cực. Chính quyền nhà

Nguyễn từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt
kí các bản hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân pháp trên toàn


cõi Việt Nam. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với giai cấp địa chủ, phong kiến và
giữa nhân dân ta với đế quốc thực dân Pháp ngày càng trở nên sâu sắc. Nhiều
cuộc khởi nghĩa yêu nước đã diễn ra phát huy chủ nghĩa yêu nước và giá trị
truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn này, phong trào dân tộc và dân chủ với
nhiều tổ chức yêu nước theo xu hướng mới ra đời. Cho đến cuối thế kỉ XIX, các
cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu văn thân
lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước
các nhiệm vụ lịch sử.Các nhà nho học tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu
và phương pháp mới. Phan Bội Châu chủ trương tôn quân và bạo động, lập Duy
Tân Hội, tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường để làm minh chủ. Trong tập "Tự Phán", ông
nêu tôn chỉ của Hội như sau: "Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khơi phục Việt
Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc". Phan Bội Châu còn đề xướng phong
trào Đông Du, vận động người trong nước xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản
du học để thâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà, đồng thời
mua vũ khí của Nhật để tiếp tay cho các cơ sở chống Pháp trong nước. Sự thất
bại của Đông Du là do ngay từ đầu Phan Bội Châu đã sai lầm về đường lối đúng
như nhận xét của Bác Hồ là: Cụ Phan muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp,
như thế khác gì tiễn hổ cửa trước, rước beo cửa sau. Và thực tế là chỉ sau một
thời gian ngắn, khi thực dân Pháp đánh hơi thấy và nhận ra tính chất nguy hiểm
của phong trào này đã ngay lập tức đàm phán với Nhật để chính phủ Nhật trục
xuất các sinh viên Việt Nam về nước. Chủ trương bạo động là đúng, nhưng tư
tưởng cầu viện là sai (không thể dựa đế quốc đánh đế quốc được). Cần xây dựng
thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính.
Phan Châu Trinh: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “Khai thơng
dân trí, mở mang dân quyền”( Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa

thục...). Phan Châu Trinh: gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ


trương cứu nước bằng phương Pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần
chế độ vua quan phong kiến thối nát, địi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc
địa . Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh chưa đúng đắn. Ơng khơng tán
thành việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để chống Pháp, nhưng bản thân ông lại
đi theo đường lối dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp tiến hành cải cách, thực hiện tự do
dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải
phóng dân tộc- Đây là một điều "khơng tưởng" và thực tế đã chứng minh nó là
sách lược sai lầm. Ơng khơng gặp thời. Lúc này Pháp rất mạnh, ta khơng có gì
để buộc Pháp phải thương lượng, thỏa hiệp với ta. Và mãi tới ngày 19 tháng 6
năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất
Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles,
ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại
nước Pháp. Đó là dấu ấn cuối cùng của Phan Châu Trinh ở một phương diện nào
đó. Cịn khởi nghĩa của người anh hùng Hồng Hoa Thám cịn mang nặng “cốt
cách phong kiến” chưa phải lối thốt rõ ràng đúng đắn. Hàng loạt phong trào yêu
nước nổ ra song đều thất bại. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX cách mạng nước ta bị
khủng hoảng về đường lối, tình hình đen tối như khơng có đường ra.Trong khi
đó, lịch sử thế giới giai đoạn này cũng có những biến chuyển to lớn, chủ nghĩa
độc quyền xác lập vị trí trên tồn thế giới, chủ nghĩa đế quốc trở thành kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa. Cao trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là
cách mạng Tháng Mười Nga đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”.
Trên con đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa
Mác - Lênin con đường mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vơ sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa
Xã Hội”. Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ tận gốc cơ sở
áp bức dân tộc và áp bức giai cấp. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền



thống đã phát triển thành yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường: “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh khác cơ bản với con đường giải phóng dân
tộc của những người đi trước như phong trào Cần Vương của Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đều dựa trên hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư
sảnâ (những hệ tư tưởng này đã lỗi thời, lạc hậu) không gắn với tiến bộ xã hội
nên đã thất bại. Chủ nghĩa tư bản là do giai cấp tư bản lập nên, nhằm bảo vệ
quyền lợi của giai cấp tư sản, bóc lột người dân lao động. Chỉ có chủ nghĩa MácLênin là mang tính nhân đạo triệt để, tồn diện, vì nó nói đến giải phóng dân tộc,
giai cấp, giải phóng con người khỏi vịng xiềng xích, đem lại tự do cho con mỗi
dân tộc.Con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu
tất yếu của cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mác- Lênin, gắn liền với tiến bộ xã
hội nên nó là con đường duy nhất đúng đắn và tất yếu là giành được thắng lợi.
1. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”.
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi,
luận điểm trung tâm xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con
đường cách mạng Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “con đường
cách mạng vơ sản”, Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận thức
được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản có sức mạnh lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng đó đến thành
cơng. Con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý
tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, xã hội và con người
một cách triệt để. Con đường đó cực kỳ khó khăn, gian khổ, phức tạp và lâu dài
nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, có kỷ cương, lối sống lành mạnh và văn



hóa cao; có quan hệ hữu nghị và bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh kết luân: nhân dân Việt Nam không thể cứu nước, giải phóng dân
tộc bằng con đường cách mạng dân chủ tư sản; độc lập dân tộc không thể gắn
liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một khát vọng mang tính
phổ biến. Nó bao hàm một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn
toàn, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân
chủ, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền độc
lập dân tộc bị mất, nhân dân bị đè nén, thống trị của ngoại bang. Xuất phát từ
hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh thấy rõ
mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc
dân chủ ở nước ta là giành lại độc lập cho dân tộc, trong khi không quên nhiệm
vụ dân chủ nhân dân, song khi thực hiện nhiệm vụ này trước hết phải nhằm phục
vụ nhiệm vụ dân tộc. Có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho cách
mạng tiến hành triệt để, phát triển lên cách mạng chủ nghĩa xã hội; nhưng trước
hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời là tiền đề tất yếu để cuộc cách
mạng này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu
giành lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc, mà còn đảm bảo cho nền độc


lập dân tộc đó được giữ vững và ngày càng củng cố thêm; có những điều kiện,

tiền đề để cách mạng phát triển lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa; xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự có ý
nghĩa, có giá trị.
Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh.
+ Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, thực hiện quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân.
+ Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại.
+ Về đối ngoại: thực hiện chính sách hịa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn
với tất cả các nước.
2. Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa
chọn duy nhất đúng mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. trải qua các
thăng trầm của lịch sử, những biến động của thời cuộc, những chao đảo ngả
nghiêng của các quốc gia Đông Âu, tính đúng đắn của con đường cách mạng mà
Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong
70 năm đấu tranh cách mạng và đổi mới đất nước hơm nay. Vấn đề giải phóng


dân tộc phải được giải quyết bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc

lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất
cả các dân tộc và toàn thể lồi người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của
chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện sự giải phóng hồn tồn và triệt để đối với giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trên thế giới ra khỏi
bất công, tiến tới tự do, dân chủ cơng bằng và bình đẳng cho con người và loài
người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối
quan hệ giữa hai giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và
đồng thời cũng là mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và
mục đích lâu dài.
b. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc,
mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó, hồn tồn có cơ sở để nói
rằng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ.
Khơng có độc lập dân tộc khơng thể có chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền
đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Khơng có chủ nghĩa xã hội khơng thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã
hội là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội được thể hiện trong thực tiễn cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện vào năm 1920, khi Người gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được phát
triển, thể hiện một cách cụ thể sinh động trong thực tiễn cách mạng nước ta từ
năm 1930.
* Thời kỳ 1930-1945:


Tư tưởng này thể hiện rõ nét trong văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo và
được Hội nghị hợp Chánh cùng vắn tắt của Đảng xác định: làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Chính nhờ đường lối

đúng đắn và sáng tạo này, cách mạng Tháng Tám đã thành công, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân Chủ cộng hịa- nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đơng Nam
Á.
* Thời kỳ 1945-1954:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
được thể hiện cụ thể ở đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Giai đoạn
này, cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó khăn, nhưng với tinh thần thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Quân
và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, càng chứng
tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta.
* Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân
ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ
Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975
4. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của cách mạng Việt Nam
-Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải
được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ


nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ
Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh
hơn bao giờ hết.
-Thứ hai, khối đại đoàn kết tồn dân trên cơ sở liên minh cơng - nơng - trí

thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh
ln địi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong
việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn
sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão”.
- Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hịa bình, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó,
ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên
quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học
lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi".
5. Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với
Việt Nam hiện nay.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục
tiêu đó khơng phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó
chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân mới là lực
lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận
đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên. Những lệch lạc về phía này
hay phía khác đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ


nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là định hướng cho việc nhận
thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội
IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo
chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục

tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hồn tồn
chính xác. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục
tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động
lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn
thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng
quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế tồn
cầu hố, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hệ giá trị độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý
tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành
thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trước nguy cơ “diễn biến hịa bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai
trò giúp đỡ, viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước, hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời
dạy của Hồ Chí Minh: mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới tự lập, có tự


cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước
bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người
khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ
thì khơng xứng đáng được độc lập”. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí
Minh phù hợp với xu thế tồn cầu hóa và thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX viết: “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,

nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường”

KẾT LUẬN
CNXH là điều kiện vững chắc để đảm bảo độc lập dân tộc, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của dân tộc Việt
Nam. Khẳng định tính tất yếu của nó khơng có nghĩa là khơng cần đến điều kiện,
không cần tạo ra những điều kiện để tạo ra những điều tất yếu đó. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu vì rằng, đó là quy luật phát triển của
xã hội Việt Nam, sớm hay muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chủ nghĩa xã
hội, khơng ai có thể ngăn cản nổi. Điều này không những đúng đối với Việt Nam
mà còn đúng với thế giới. Những khúc vận động quanh co của lịch sử, những
thất bại là điều thường thấy trên đường đi tới đích. Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tất yếu chỉ khi nó gắn với các điều kiện bảo đảm đó và nó
nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt động của hệ thống chính trị,
trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào chính yếu tố chủ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then
chốt bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo


đảm và giữ vững ngọn cờ chiến lược độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Theo Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.
2. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.
Văn học, H.1970, tr.11.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng
lớn trong cơng tác tư tưởng hiện nay, tr.7.

4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.11, tr.372.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, tr.14.




×