Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm: Nhân tài là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Liên hệ trách nhiệm bản thân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.33 KB, 20 trang )

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm: Nhân tài là yếu tố
quyết định cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Liên hệ trách
nhiệm bản thân.
MỞ ĐẦU
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người nói chung, giá trị của
con người Việt Nam nói riêng là một nội dung quan trọng, vừa là mục tiêu,
động lực của sự nghiệp cách mạng, vừa là mục đích của tư tưởng; sức mạnh
của văn hóa và con người Việt Nam là nhân tố làm nên thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặc dù trong di sản tinh thần của Hồ
Chí Minh để lại, khơng có những tác phẩm chuyên khảo bàn về hệ giá trị của
con người Việt Nam, nhưng được thể hiện ở trong nhiều bài viết, bài nói dưới
những hình thức, mức độ khác nhau; đặc biệt được thể hiện rõ trong quá trình
thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát
triển giá trị của con người Việt Nam, trong Di chúc, Người căn dặn sau khi
chiến tranh kết thúc "đầu tiên là công việc đối với con người" [Error:
Reference source not found, tr.616].
Việt Nam đang thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng cơng nghiệp
4.0). Nhờ có đường lối đúng đắn, chúng ta đã tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của
nhân loại để không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa tinh thần cho người dân... Tuy nhiên, mặt trái của tồn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, kinh tế thị trường và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động
tiêu cực đến hệ giá trị truyền thống của người Việt Nam; làm cho thang giá trị có
sự xung đột, chuyển đổi, thậm chí khủng hoảng trong việc lựa chọn giá trị định
hướng, nhất là ở thế hệ trẻ. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc
1


như: u nước, đồn kết, nhân ái, nghĩa tình, hiếu học, cần cù… dù vẫn được


phần lớn người dân Việt Nam trân trọng, gìn giữ và phát huy, nhưng cũng đang
có biểu hiện mai một, suy thối, nhất là giá trị đạo đức. Thực tế đó địi hỏi u
cầu bức thiết cần tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực, hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng phát triển văn hóa, con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển văn hóa. Điều đó được thể hiện thơng qua các Văn kiện
Đại hội Đảng, từ Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1998) đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016); các Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII,
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX, Hội nghị Trung ương 7 khóa X… Trong
nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,
Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con
người có nhân cách, đạo đức tốt đẹp và tinh thần đó được thể hiện xuyên
suốt trong Nghị quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ cũng
như những giải pháp. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu,
đúc kết và xây dựng giá trị con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh, con người (nhân tài) là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh,
bền vững của đất nước.
Với những lý do trên, tơi chọn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và quan điểm: Nhân tài là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước.” làm đề tài nghiên cứu và từ đó liên hệ trách nhiệm bản
thân.

2


NỘI DUNG CHÍNH

I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở
dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng,
đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả
cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong
toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây
dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người
chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi
bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hồn cảnh,
Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu
chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vơ cùng
lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá
nhân khơng được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ khơng thể
phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân,
3


Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên
lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân
chính, khơng hình thức, khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải
được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp
luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn
tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người
trên tồn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái qt hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị
áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt
Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lơgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản
cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vơ sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và tồn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo

4


dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục

tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý
luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền
đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến
đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái
mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu khơng
"dựa vào lực lượng của tồn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khơng
bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mơ hình hồn chỉnh, một cơng
thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ
bản nhất. Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội
trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây
dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung
sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp
với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy
5


luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập
khn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm
của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái

cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn
theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ
trạng thái hiện nay". Vì vậy, khơng chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc
lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa",
Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục
tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng
chính bản thân con người.
Tấm lịng Hồ Chí Minh ln hướng về con người. Người yêu thương con
người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương
yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "khơng bao giờ thay đổi". Người có
một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và
vơ tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã
được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bơn ba tìm đường cứu
nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những
người dân lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sơi sục,
đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"1. Tin vào
quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm
chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác
về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu
nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con
người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời khơng có gì quý
6


bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết tồn
dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực
"lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan

điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế
sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ".
Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu
nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy
đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với
quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng
tạo chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lịng thương dân, tình thương u nhân dân của
Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống
nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác
có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư
tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức,
tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước gắn bó khơng tách rời với chủ
nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương u cũng như tồn bộ tư tưởng về nhân
dân của Người khơng bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn
tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia
với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương
nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo
cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng sức mạnh đồn kết tồn dân và sự
đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ.
7


Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận khơng
thể tách rời trong tồn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm
vi tồn thế giới.

Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi
lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh ln tin ở dân, hết lịng thương u, q
trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về
con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người đã trở thành
một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự
nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật
triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người khơng bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ
trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào
sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về
chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong
kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ
nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong
cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
8


Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam

nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy
được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính
sách của Đảng trong suốt q trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển.
Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện";
đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm: Nhân tài là
yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm: Nhân tài là yếu tố quyết định
cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước
Từ xa xưa, cha ông ta luôn coi hiền tài là “rường cột”, “là nguyên khí
của quốc gia”. Phát huy truyền thống quý báu của cha ông, sinh cthời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là bậc thiên tài trong việc chọn người, dùng người và trọng
dụng nhân tài. Cách dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện thái độ
trọng thị, tầm nhìn minh triết, lịng nhân ái bao la và tư tưởng đại đoàn kết cao
cả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều bài học quý báu và cốt yếu về nghệ
thuật dùng người, trọng dụng nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược
của Đảng ta hiện nay.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài bắt nguồn
từ tư tưởng trọng dân, tin dân, nêu cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân,
9


là sự nối tiếp và phát triển quan niệm cầu hiền tài truyền thống trong điều kiện
mới của đất nước. Theo Người, nhân tài là “người tài đức, có thể làm những
việc ích nước lợi dân”. Điều đó có nghĩa là, một người được coi là nhân tài
phải hội tụ đủ cả 2 yếu tố tài và đức, quan trọng hơn là tài và đức ấy phải

hướng đến những việc làm ích nước, lợi dân. Người khẳng định: “Có tài mà
khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng
khó”. Trong đó, người cho rằng, đức phải là cái gốc. “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”. Do có quan điểm đúng đắn
về trọng dụng nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tìm kiếm, thu hút, đào
tạo, bồi dưỡng những “người tài đức” cho cách mạng, động viên họ mang hết
sức mình phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc
biệt chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Quảng Châu, chọn những
thanh niên ưu tú, có trình độ, năng lực để đào tạo, bồi dưỡng sau này đưa về
nước hoạt động. Khi trở về nước vào năm 1941, Người đã có lời kêu gọi tất cả
các nhân sĩ, thân hào có tinh thần yêu nước tham gia Mặt trận Việt Minh để
cống hiến trí tuệ của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “kiến quốc
cần có nhân tài”. Người đã viết hai bài “Nhân tài và Kiến quốc”, “Tìm người
tài đức” đăng trên báo Cứu quốc để tìm người tài đức tham gia xây dựng và
kiến thiết Tổ quốc. Các bài viết trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là
“chiếu cầu hiền tài” đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam. Nhờ có
tầm nhìn chiến lược, quan điểm đúng đắn đó mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ đã thu hút được rất nhiều người có tài, đức vào sự nghiệp kiến quốc
và bảo vệ đất nước ngay từ những ngày đầu mn vàn khó khăn của chính
10


quyền cách mạng còn non trẻ trong trứng nước. Nhiều bậc trí thức, học giả,
giáo sĩ, quan lại cho đến vua Bảo Đại đã được Bác Hồ cảm hóa và vận động
tham gia chính quyền cách mạng. Người đã cảm hóa, lơi cuốn, thuyết phục
một số trí thức nổi tiếng có tài và đức, có học vị, đang có thu nhập cao ở nước

ngồi nhưng vẫn tình nguyện trở về nước tham gia bảo vệ và kiến thiết đất
nước. Tiêu biểu là kỹ sư Trần Đại Nghĩa, giáo sư toán học Lê Văn Thiêm, nhà
nông học Lương Định Của, tiến sỹ y khoa Đặng Văn Ngữ, giáo sư Phạm Huy
Thông, bác sỹ Trần Hữu Tước, bác sỹ Nguyễn Khắc Viện,…Đồng thời, nhiều
trí thức tiêu biểu như giáo sư Tạ Quang Bửu, giáo sư Tôn Thất Tùng, giáo sư
Hồ Đắc Di, luật sư Phan Anh, giáo sư Hoàng Minh Giám, bác sỹ Vũ Đình
Tụng,…đều được trọng dụng để phát huy tài năng phục vụ đất nước.
Khi dùng người tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng tài năng ở trong
cơng việc, lấy thước đo tinh thần vì dân, vì nước chứ khơng hẹp hịi, khơng
câu nệ là người trong Đảng hay ngồi Đảng. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám
thành cơng, dù còn nhiều ý kiến khác nhau, Người vẫn sẵn sàng sử dụng lại
các cán bộ, công chức, quan chức trong chính quyền cũ, điển hình như Huỳnh
Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đồn…
Với nhãn quan chính trị vơ cùng sắc bén, khơn khéo và nhạy cảm, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quyết định mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu
nước thuộc hàng tiền bối, là bậc đại khoa có danh vọng và uy tín lớn lao, từ
Trung Bộ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và sau này khi phải thực
hiện chuyến công du sang Pháp năm 1946, Người đã giao quyền Chủ tịch
nước cho cụ Huỳnh với lời dặn nổi tiếng “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Niềm tin
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đặt đúng chỗ. Suốt thời gian Người đi
Pháp, ở trong nước, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã luôn giữ vững phương châm
“dĩ bất biến ứng vạn biến” trong giải quyết các công việc quốc nội, giữ yên
được thế phát triển của cách mạng trong lúc hiểm nghèo, góp phần ngăn chặn
11


và đập tan âm mưu khiêu khích, phá hoại của các thế lực phản động. Cụ đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và sự trơng đợi của nhân dân.
Hay như cụ Bùi Bằng Đoàn, làm tới chức Thượng thư Bộ Hình dưới triều

Nguyễn nhưng Người vẫn mời ra làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi sau này làm tới chức Trưởng ban
Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Rồi Giáo sư Nguyễn Văn
Huyên, dù là người ngoài Đảng nhưng vẫn được Người trọng dụng, giữ chức
Bộ trưởng Bộ Giáo dục tới 29 năm. Một thời kỳ nền giáo dục nước nhà cung
cấp được nhiều nhân tài cho cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu
nước và kiến thiết nước nhà thắng lợi. Các bộ trưởng trong Chính phủ sau
Cách mạng hầu hết đều là người ngồi Đảng.
Hàng loạt trí thức tây học cịn rất trẻ nhưng có tài năng cũng được Người
trọng dụng, giao trọng trách đúng người, đúng việc, đúng tài năng từ rất sớm
như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Đặng
Thai Mai... Khi đó, Võ Nguyên Giáp mới 34 tuổi đã là Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
37 tuổi đã là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội.
Đây đều là những cộng sự, đồng thời là những học trò xuất sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và trở thành những nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước kiệt xuất của
dân tộc Việt Nam.
Một điểm đặc biệt trong cách dụng nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là,
bất kể khi dùng ai, cất nhắc, bổ nhiệm ai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cho gặp
trực tiếp để trao đổi, đối thoại và quan sát để cảm nhận về con người ấy. Và
khi đã yên tâm, thì có thể giao việc. Có tâm trọng dụng nhân tài lại có tài năng
và nghệ thuật trong dùng người, dùng cán bộ, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng được Chính phủ đại đồn kết tồn dân tộc và hội tụ được nhân tài ở

12


khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa cách mạng
Việt Nam đi đến những thắng lợi vĩ đại.
Đi đôi với việc phát hiện nhân tài, một vấn đề rất quan trọng mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln u cầu đó là người lãnh đạo, quản lý phải biết sử

dụng, trọng dụng nhân tài một cách hợp lý, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân
tài. Theo Người, “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hố ra tài to. Lãnh đạo khơng
khéo, tài to cũng hố ra tài nhỏ”. Lãnh đạo kém chẳng những không phát huy
được nhân tài cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, mà còn làm thui chột
nhân tài. Một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một
khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây
dựng và kiến thiết.
Người cho rằng, việc trọng dụng nhân tài phải làm thường xuyên, liên
tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho cơng việc chung của chúng
ta”. Trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người, “tài to ta dùng làm
việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào
việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ khơng lo gì thiếu cán bộ”. Việc dùng
nhân tài phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng
việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn”. Dùng đúng tài năng thì thành
cơng, dùng sai tài năng thì hỏng việc và có khi cịn có hại cho Đảng.
Theo Người, khi cất nhắc, giao cơng việc rồi thì phải cho cán bộ hiểu rõ
mọi mặt các công việc họ phải phụ trách; tin tưởng, giao quyền độc lập, tự chủ
cho cán bộ cấp dưới và khuyến khích họ mạnh dạn thực hiện. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả
gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật và nhiệm
vụ đã quyết định rồi, vị Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt

13


vặt. Phải để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến”, mới có thể phát
triển tài năng của họ.
Khi trao chức Tổng tư lệnh Mặt trận Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ căn dặn Đại tướng Võ Ngun Giáp: Vào trận chắc thắng thì đánh.

Khơng chắc thắng thì khơng đánh. Khi vào mặt trận, cố vấn Trung Quốc cho
rằng ta nên đánh nhanh thắng nhanh. Nhưng điều tra, nghiên cứu địch tình,
đồng chí Võ Ngun Giáp nhận thấy không thể đánh ngay. Trăn trở suy nghĩ
về lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chắc thắng thì đánh. Khơng chắc
thắng thì khơng đánh; nên Đại tướng đã quyết định kéo pháo vào, lại kéo pháo
ra. Đánh theo phương châm chắc thắng. Chính việc chuyển từ phương châm
tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang phương châm đánh chắc thắng là một
trong những nguyên nhân thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử
“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, vấn đề chăm lo bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước, rèn luyện đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” luôn
là sự quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho đến trước lúc đi xa,
Người vẫn ân cần dặn lại trong Di chúc: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Trong giai đoạn đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, vấn đề thu hút và
trọng dụng nhân tài càng trở thành yếu tố quan trọng có tính chất quyết định
hơn bao giờ hết. Cái gốc của chính sách nhân tài nằm ở việc ni dưỡng, bảo
vệ và phát triển nhân tài. Nhân tài cần phải được trọng dụng, được giao nhiệm
vụ xứng đáng và phù hợp với tài năng của họ; được tôn trọng, đánh giá đúng
mức thành quả lao động và được ghi nhận, tơn vinh những gì mà họ cống
hiến. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần phải xây dựng và triển khai chiến lược phát
triển nhân tài, coi việc “cầu hiền tài” là một chiến lược phát triển quốc gia,
thực hiện chính sách thu hút và sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Phải xác
14


định đây là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần có
chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp để tìm kiếm, giữ chân, thu hút và phát
triển nguồn trí tuệ để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã đi xa nhưng tư tưởng của Người về
nhân tài vẫn còn nguyên giá trị đối với chúng ta. Quan điểm của Người về
nghệ thuật dùng người, trọng dụng nhân tài chính là bài học vơ giá để chúng ta
có những chủ trương, chính sách đúng, trúng và hiệu quả trong cơng tác cán
bộ hiện nay.
2. Liên hệ bản thân
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá
của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam noi theo.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một
vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của
một người chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm
theo, để trở thành một người công dân tốt hơn trong xã hội.
Thế hệ thanh niên sinh viên ngày nay được sinh ra và lớn lên trong một
đất nước VN hịa bình, ấm no, may mắn được hưởng sự giáo dục của nhà
trường, của Đoàn, của Đảng một cách có hệ thống từ thuở ấu thơ. Nên thanh
niên sinh viên đã sớm định hướng được con đường phải đi, cái đích phải tới,
con người phải trưởng thành. Là đồn viên sinh viên tôi đã được tham gia giờ
học "Tuổi trẻ VN nhớ lời di chúc theo chân Bác". Học tập tư tưởng phong
cách của Bác là cả quá trình lâu dài và mãi mãi. Nhưng ngay từ ngày hôm nay
mỗi đoàn viên thanh niên sinh viên chúng ta hãy bắt đầu từ những việc làm cụ
thể: Trước tiên, chúng ta hãy học ở Bác đức tính giản dị. Sau đó là lời nói
giao tiếp, ứng xử hàng ngày chúng ta hãy nói những lời hay ý đẹp, khơng văng
15


tục chửi thề, khơng cầu kì, lai căng, lạm dụng ngơn ngữ nước ngồi. Điều tiếp
theo chúng ta cần học tập ở Bác tinh thần tự học, tự tìm tịi nghiên cứu sáng
tạo. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Đường đời là một chiếc
thang khơng có nấc chót, học tập là một quyển vở khơng có trang cuối cùng.

Bác học bằng cách viết lên bàn tay, học dưới ánh trăng, dưới ánh đèn vàng vọt
của con tàu. Bác học ở mọi lúc, mọi nơi, những lúc có thì giờ rảnh rỗi, và
cũng chính nhờ tự học Người đã tìm ra con đường cứu nước đưa dân tộc Việt
Nam thốt khỏi ách đơ hộ của thực dân đế quốc. Bác dạy “Nếu khơng chịu
khó học thì khơng tiến bộ được. khơng tiến bộ là thối bộ. Xã hội ngày càng đi
tới, công việc ngày càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà khơng chịu
học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
Thấm nhuần lời dạy đó tơi ln tâm niệm mình phải chăm chỉ, chịu
khó, cố gắng trong học tập, rèn luyện. Ngoài kiến thức được tiếp nhận từ thầy
cơ, sách vở, tơi chịu khó đọc sách tham khảo, các tài liệu, xem tin tức thời sự.
Chịu khó ghi chép lại một cách khoa học những lời giảng hay, những tài liệu
q, ngồi ra tơi cịn học từ bạn bè, những người xung quanh để hồn thiện
bản thân góp một phần mình xây dựng đất nước ngày giàu đẹp hơn "sánh vai
với các cường quốc năm châu". Nhưng thật đáng tiếc vẫn cịn những bạn đồn
viên khơng chịu khó học hành, lười suy nghĩ, ỉ lại vào người khác, trơng chờ
vào sự may rủi, phung phí tiền bạc vào những thói vơ bổ, chạy theo những
trào lưu phản cảm. Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt
được. Luôn là người sinh viên mẫu mực xứng đáng với niềm tin yêu của thầy
cô và nhà trường. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, để trở thành sinh viên
ba tốt.
Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh ở
trường Đại học Điện Lực đã có những việc làm cụ thể, thiết thực, ý nghĩa như
đẩy mạnh các phong trào học tập làm theo lời Bác, đoàn viên thanh niên sinh
16


viên có những kế hoạch học tập rèn luyện cụ thể, xác định lý tưởng sống đúng
đắn, chủ động rèn luyện Trí - Đức - Thể - Mĩ

17



KẾT LUẬN
Vấn đề giá trị của con người Việt Nam là một nội dung quan trọng trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên cơ sở tiếp thu những tư
tưởng, văn hóa của dân tộc và nhân loại và từ phẩm chất cá nhân kiệt xuất của
Người. Theo Hồ Chí Minh, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam
đã hun đúc nên nhiều giá trị, tiêu biểu đó là: Yêu nước, tinh thần tự tơn dân tộc;
đồn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đó là hệ thống giá
trị phản ánh đặc trưng bản chất con người Việt Nam, tạo nên sức mạnh tinh thần
to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội mới.
Để phát triển giá trị của con người Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cần thực hiện
tốt các phương pháp: Thông qua giáo dục và tự giáo dục giá trị; thông qua các
cuộc vận động, phong trào xã hội; phát huy giá trị đi đôi với khắc phục các yếu
tố phản giá trị. Những quan điểm của Người có giá trị lý luận to lớn, là cơ sở để
Đảng và Nhà nước ta xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, kinh tế thị trường và cuộc Cách mạng 4.0 đang tạo cơ hội cho
nước ta tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của nhân loại; kinh tế - xã hội không
ngừng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng nâng
lên. Song bên cạnh đó đã tác động tiêu cực làm biến đổi chiều sâu tâm thức
người Việt: Từ đề cao giá trị tinh thần sang đề cao giá trị vật chất; từ đề cao
giá trị cống hiến sang đề cao giá trị hưởng thụ, làm cho hệ giá trị truyền thống
tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam biến đổi theo xu hướng tích cực lẫn
tiêu cực, được biểu hiện ở những hình thức, mức độ khác nhau. Thực trạng đó
đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết đó là: Mối quan hệ giữa mục tiêu định
hướng giá trị với thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam; mối
quan hệ, tác động tích cực, tiêu cực của các nhân tố khách quan, chủ quan đến
18



sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam; mối quan hệ giữa bảo tồn và
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển giá trị của con
người Việt Nam, quan điểm cơ bản trong thời gian tới đó là: Phát triển giá trị
của con người Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và
quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng về giá trị con người; phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc giá trị
của nhân loại; phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam
phù hợp với điều kiện hiện nay. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ giá
trị của con người Việt Nam đó là: 1) Xây dựng, hồn thiện cơ chế, chính sách
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay. 2)
Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng giá trị của
con người Việt Nam. 3) Phát huy năng lực tự giáo dục giá trị của mỗi người
dân. 4) Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thực thi trong thực tiễn
nhằm phát huy yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực của con người Việt Nam.
5) Thực hiện tổng kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh trong quá trình hiện thực
hóa hệ giá trị của con người Việt Nam. Mỗi một giải pháp đều có vai trị, tác
dụng nhất định đến sự phát triển giá trị của con người Việt Nam. Vì vậy, cần
được thực hiện đồng bộ trên tinh thần sáng tạo; đồng thời, mỗi một giải pháp
cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với sự biến đổi
không ngừng của thực tiễn khách quan. Quan điểm: Nhân tài là yếu tố quyết
định cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước luôn được đặt lên hàng
đầu trong thời đại nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19



(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995,
T3; (tr 569).
(2) Sđd, T3; (tr11).
(3) Sđd, T1; (tr337).
(4) Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, T5; (tr644).
(5) Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, T4; (tr152).
(6) Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, T7; (tr18).

20



×