Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Tình hình phát triển thể lực ở nông thôn trung du tỉnh Phú Thọ năm 2004 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.32 KB, 5 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 15
1. Đặt vấn đề
Dinh dưỡng ngày nay đã được coi là một trong
những chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội. Sự phát
triển về thể chất của con người đồng thời cũng phản
ánh sự phát triển của kinh tế xã hội, điều này đã
được nêu lên từ năm 1829 bởi Louis- Réne Villermé
- Người sáng lập ra ngành y tế công cộng Pháp
1
. Sự
biến đổi của các chỉ số dinh dưỡng không những
chòu ảnh hưởng của những biến đổi sinh lý trong chu
kỳ vòng đời của con người mà còn chòu tác động của
xu thế phát triển của thời đại.
Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu về tình
hình thể lực và sự tăng trưởng thể lực trên một số
đối tượng, chủ yếu là trẻ em lứa tuổi học đường
2,3,4,5,6
.
Nghiên cứu này được tiến hành như một bước
thăm dò sơ bộ tình hình phát triển thể lực của nhân
dân ở nông thôn Việt Nam ở các lứa tuổi khác nhau
cùng sinh sống trên một đòa bàn thuần nhất, từ đó
cho phép ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về
tình hình thể lực của các tầng lớp dân cư, những biến
đổi về thể chất do thời gian và ảnh hưởng của sự
phát triển kinh tế xã hội. Kết quả nghiên cứu sẽ gợi
ý đònh hướng cho các can thiệp dinh dưỡng tại đòa
phương cũng như đònh hướng cho các nghiên cứu
rộng hơn về tình hình thể lực có tính chất vùng miền


trên phạm vi toàn quốc.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.Thiết kế nghiên cứu - Đòa điểm
Nghiên cứu mô tả dựa trên kết quả của một cuộc
điều tra cắt ngang trên đòa bàn 12 xã trung du thuộc
tỉnh Phú Thọ tháng 8 năm 2004. Hầu hết các xã nằm
bên tả sông Hồng và có trình độ phát triển kinh tế
xã hội vào mức thấp so với mặt bằng chung của
toàn tỉnh.
2.2.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ dân cư từ 0 đến
60 tuổi có mặt tại thời điểm thu thập số liệu trên đòa
bàn nghiên cứu.
2.3.Chọn mẫu
Tình hình phát triển thể lực ở nông thôn
trung du tỉnh Phú Thọ năm 2004
TS. Từ Ngữ, ThS. Huỳnh Nam Phương và cs
Nghiên cứu được tiến hành trên đòa bàn nông thôn Phú Thọ nhằm đánh giá tình hình thể lực của
các lớp tuổi ở cả hai giới nam và nữ trong một quần thể dân cư đồng thời tìm hiểu ảnh hưởng của
xu thế phát triển kinh tế xã hội đến tình trạng dinh dưỡng của người dân. Số liệu nhân trắc được
thu thập từ điều tra cắt ngang toàn bộ dân từ 0 đến 60 tuổi ở một đơn vò dân cư lựa chọn ngẫu
nhiên ở 12 xã trung du Phú Thọ. Kết quả cho thấy tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em và người trưởng
thành trên đòa bàn điều tra còn ở mức kém (suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ em 35.4%, thiếu năng
lượng trường diễn ở phụ nữ 20-29 tuổi 39.4%), chiều cao của người trưởng thành không có sự cải
thiện đáng kể trong những năm qua.
Từ khóa: tình trạng dinh dưỡng, trẻ em, người trưởng thành, Phú Thọ
This study was carried out in rural areas of Phu Tho province in order to evaluate the physical sta-
tus of the population and to understand the impacts of socio-economic development tendency on its
nutritional situation. Anthropological data was collected from a cross-sectional survey involving
people from 0 to 60 years of age randomly selected from 12 midland communes in Phu Tho. The sur-

vey findings show that there are a poor nutritional status of children, a chronic energy deficiency
of child-bearing age women in the age group of 20-29 years (39.4%) and there is no improvement
with regards to the height of adults in rural areas.
Key words: nutrition status, children, adult, Phu Tho
16 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Xuất phát từ công thức để đánh giá thể lực của
trẻ em n = 4 σ
2
/ e
2
Với độ lệch chuẩn σ = 5 cm qua các cuộc điều
tra trước và e = 0,5 cm thì số trẻ dưới 5 tuổi cần được
cân đo sẽ là 400 trẻ.
Với ước tính số trẻ này bằng 10% dân số, tổng
số mẫu dân cư cần cân đo sẽ là 4000 người. Cuộc
điều tra được tiến hành ở 12 xã trung du. Mỗi xã
chọn 1 đến 2 thôn (mẫu ngẫu nhiên đơn) để có dân
số khoảng 450-500 người, trừ số vắng nhà (30-40%
dân số - theo điều tra sơ bộ), mỗi cụm sẽ đạt được
mẫu khoảng 350 người.
2.4.Thu thập số liệu
- Cân nặng: cân nặng của trẻ dưới 2 tuổi được
thu thập bằng cân Seca lòng máng, cân nặng của trẻ
lớn và người lớn được thu thập bằng cân Seca điện
tử với độ chính xác là 0,1kg. Các cân được kiểm tra
2 lần/ngày.
- Chiều cao: Chiều dài nằm của trẻ dưới 2 tuổi
được đo bằng thước gỗ đo chiều dài nằm của
UNICEF. Chiều cao đứng được đo bằng thước

microtoise. Với độ chính xác là 0,1cm.
- Tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi: dựa
theo phân loại của WHO (W/A, H/A, W/H), sử dụng
quần thể tham khảo NCHS
- Tình trạng dinh dưỡng tuổi học đường và người
trưởng thành: cân nặng, chiều cao trung bình, chỉ số
BMI (theo phân loại của WHO 1995)
2.5.Xử lý số liệu
Các số liệu được làm sạch và xử lý trên EPI-
INFO 6.0.
3.Kết quả nghiên cứu
3.1.Mô tả mẫu
Tổng số người được điều tra thể lực là 4388
người thuộc 1371 hộ gia đình ở 12 xã trong đó nam
là 1878 và nữ là 2510, số trẻ em dưới 15 tuổi là 939
nam và 960 nữ. Số người trong độ tuổi điều tra
không ra cân (không có hoặc có lí do, ví dụ như: ốm,
đi học, đi bộ đội, đi làm xa) chiếm tỷ lệ 30% tập
trung chủ yếu vào lứa tuổi lao động, nam nhiều hơn
nữ. Trên thực tế nhân khẩu, tỷ lệ nam giới vắng nhà
khá cao nên cân bằng giới ở nông thôn Phú Thọ
đang bò thay đổi.
3.2.Tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
Hình 1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi
phân theo nhóm tuổi
Ở trẻ dưới 5 tuổi trên đòa bàn nghiên cứu, tỷ lệ
nhẹ cân là 35.4%; tỷ lệ còi cọc là 31.5% ; và tỷ lệ
gày còm là 7.4% (Hình 1). Tỷ lệ SDD tăng cao đột
biến ở lứa tuổi 12-24 tháng (tỷ lệ nhẹ cân tăng từ
10.1% lên 35.5%). Sau 24 tháng, tỷ lệ SDD tiếp tục

tăng, cho đến lớp tuổi 48-60 tháng thì cứ 2 trẻ là có
1 trẻ bò SDD.
3.3.Thể lực của trẻ em 0-15 tuổi
Nhìn chung, trẻ nam có chiều cao tương đương
với trẻ nữ, chỉ số trung bình có cao hơn một chút hoặc
bằng so với trẻ nữ ở các lớp tuổi (trừ độ tuổi 12 - 13,
do ở độ tuổi này trẻ gái dậy thì trước trẻ trai và chiều
cao của trẻ gái phát triển trước).
Hình 2. So sánh chiều cao trung bình của trẻ nam
0-15 tuổi ở Phú Thọ năm 2004 với các số
liệu khác.
Hình 2 và 3 so sánh chiều cao trung bình của trẻ
em nam và nữ 0-15 tuổi theo kết quả điều tra tại Phú
Thọ với các số liệu thể lực trước đây cũng của Phú
Thọ
7
, với hằng số sinh học Việt Nam
3
và quần thể
tham khảo NCHS.
60
80
100
120
140
160
180
123456789101112131415
tuoi
cao

PT2004
VN1975
NCHS
PT1999
tuổi (năm)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 17
Hình 3. So sánh chiều cao trung bình của trẻ nữ 0 -15
tuổi ở Phú Thọ năm 2004 với các số liệu khác
3.4.Tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành.
Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn (CED)
với BMI <18,5 ở người trưởng thành (nam và nữ) ở
Phú Thọ phân bố theo lớp tuổi và so sánh với số liệu
thể lực của tổng điều tra toàn quốc năm 2006 được
thể hiện theo hình 4 dưới đây.
Hình 4. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở người
trưởng thành Phú Thọ phân theo giới và
lớp tuổi, so sánh với số liệu toàn quốc
Hình 4 trên đây cho ta thấy ở nữ, tình trạng suy
dinh dưỡng trường diễn phổ biến ở lớp tuổi sinh đẻ
(20-49), cao nhất ở lứa tuổi 35-39 và có xu hướng
giảm dần sau 49 tuổi. Tình trạng suy dinh dưỡng ở
nam gần như không có biến động trong lứa tuổi
trưởng thành (20-49), nhưng có xu hướng tăng cao
sau 49 tuổi. Còn ở phụ nữ tình trạng suy dinh dưỡng
khá cao ở lứa tuổi 20 -29 (39.4%), BMI trung bình
đạt cao nhất ở lứa 21 tuổi (khoảng thời gian sinh con
đầu lòng) và giảm dần không có xu hướng hồi phục
trong giai đoạn này. Trong độ tuổi này, không có
người phụ nữ nào có BMI đạt cao hơn 23.

3.5.Tình trạng thừa cân:
Ở trẻ em dưới 5 tuổi trên đòa bàn nông thôn Phú
Thọ, tình trạng thừa cân rất hiếm gặp (2/517 trẻ =
0.4%), mà chủ yếu vẫn là thể nhẹ cân với WAZ
score trung bình chỉ đạt 1.52 (1.06). Hình 5 trình bày
sơ đồ biến thiên của chỉ số WAZ trung bình theo các
lớp tháng tuổi. Như vậy đối với trẻ em nông thôn
Phú Thọ, suy dinh dưỡng thiếu cân vẫn là mối quan
tâm hàng đầu.
Hình 5. Biến thiên của chỉ số WAZ ở trẻ em 0-5
tuổi theo lớp tuổi
Hình 6. Tỷ lệ thừa cân ở Nam và Nữ trưởng thành
Phú Thọ , so sánh với kết quả tổng điều
tra toàn quốc
Đối với người trưởng thành ở Phú Thọ, nếu tính
tỷ lệ thừa cân theo phân loại của WHO (1995) với
BMI 25 thì tỉ lệ thừa cân ở cả nam và nữ hầu như
không đáng kể trong độ tuổi lao động (20-49 tuổi),
so sánh với các số liệu về tỷ lệ thừa cân toàn quốc
6
.
4. Bàn luận
Nhìn lại phân bố mẫu, thấy rõ sự chênh lệnh về
giới do phân bố nhân khẩu hiện tại ở nông thôn Phú
Thọ. Do thiếu công việc, thiếu đất, người dân nông
thôn đổ xô ra thành thò kiếm việc làm và đa phần là
nam giới khoẻ mạnh. Sinh sống tại nông thôn chủ
yếu là nam giới sức khoẻ không tốt, nhà neo người,
còn đa phần là phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi. Xét
về tình hình dinh dưỡng, sự phân bố này ảnh hưởng

đến các kết quả điều tra nhân trắc học trên thực đòa
vì những đối tượng nam giới đi làm việc xa này
60
80
100
120
140
160
180
123456789101112131415
Tuổi
Cao
PT2004
VN1975
NCHS
PT1999
0
10
20
30
40
50
60
70
20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-60
Lớp tuổi
%CED
Nam PT
Nam VN
Nu PT

Nu VN
WAZ score
-0.45
-2.01
-1.86
-1.7
-1.66
-2.5
-2
-1.5
-1
-0.5
0
0-12 12-24 24-36 36-48 48-60
Tháng tuổi
WAZ score
0
2
4
6
8
10
12
20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-60
Lớp tuổi
% thừa cân
Nam PT
Nu PT
Nam VN
Nu VN

Tuổi (năm)
Lớp tuổi (năm)
Lớp tuổi (năm)
18 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
thường là đối tượng bò bỏ sót trong các cuộc điều tra
(họ không có mặt ở nông thôn nhưng lại không đăng
ký nhân khẩu tại thành thò). Điều đó có khả năng
gây ra sai số về chọn mẫu và chiều cao trung bình
của nam giới trưởng thành tại nông thôn điều tra
được có thể có xu hướng thấp hơn so với chiều cao
thực. Đứng trên góc độ kinh tế xã hội, sự mất cân
bằng về giới có khả năng ảnh hưởng nhiều đến sinh
hoạt và thu nhập của người dân nông thôn, và điều
đó lại có ảnh hưởng ngược lại đối với tình trạng
dinh dưỡng của họ, đặc biệt là đối tượng trẻ em và
phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi trên
đòa bàn điều tra ở mức cao (W/A 35.4%; H/A
31.5%; W/H 7.4%) Tỷ lệ này cũng tương đương với
tỷ lệ chung của tỉnh Phú Thọ, tương ứng là 34.4%;
38.5% và 12.5% (theo Niên giám thống kê y tế
2001). Theo một mô hình chung về thay đổi tỷ lệ
suy dinh dưỡng theo lớp tuổi, suy dinh dưỡng tăng
cao ở trẻ 12-24 tháng và tiếp tục duy trì ở mức cao.
Nguyên nhân chủ yếu có thể là do chuyển chế độ
ăn từ bú mẹ sang ăn bổ sung, thiếu chăm sóc trực
tiếp của mẹ và tình trạng nhiễm khuẩn cao cũng như
chăm sóc trẻ bệnh kém (W/H tăng từ 0.9% ở 1 tuổi
lên đến 14% ở 2 tuổi).

Chiều cao trẻ em nam và nữ Phú Thọ ở lứa tuổi
0-5 tuổi thấp hơn so với hằng số sinh học người Việt
Nam 1975. Chiều cao có sự cải thiện rõ rệt khi trẻ
bước vào tuổi học đường (6 tuổi).
So với năm 1984, 1993, 1999, chiều cao trẻ nam
và nữ ở Phú Thọ năm 2004 đều có sự cải thiện ở
lứa tuổi cấp một và cấp hai
7,8
. Ở thời điểm điều tra,
đã thấy được gia tốc tăng trưởng sau 10 năm (2004
so với 1993) khi sự cải thiện chiều cao có ý nghóa
thống kê với (p<0.05) còn khi so sánh với số liệu
cách đây 5 năm (1999), cũng như so sánh số liệu của
khoảng cách 10 năm từ 1984 đến 1993 thì sự cải
thiện này còn chưa có ý nghóa.
Ở lứa tuổi cuối cấp 2 (ở nữ) và đầu cấp 3 (ở cả
nữ và nam), chiều cao trẻ em Phú Thọ năm 1999 có
phần tốt hơn so với trẻ cùng giới cùng tuổi năm
2004. Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý rằng, mẫu
điều tra năm 2004 là trẻ ở cộng đồng còn mẫu 1999
là trẻ em ở trường học, do đó có khả năng trẻ còn
có điều kiện đi học (yếu tố kinh tế, xã hội, gia đình)
có tình trạng dinh dưỡng tốt hơn trẻ ở cộng đồng nói
chung. Để tìm hiểu rõ ràng hơn về sự liên quan giữa
học đường và thể lực, loại trừ yếu tố nhiễu do kinh
tế gia đình hoặc sức khoẻ, một cuộc điều tra trên đối
tượng này với cỡ mẫu lớn hơn cần được tiến hành.
Phân tích các số liệu thể lực của người trưởng
thành ở Phú Thọ, ta thấy chiều cao trung bình của
nam là 162,2 cm, và của nữ là 152,4 cm. Những con

số này tương đương với kết quả tổng điều tra năm
2000 của toàn quốc (tương ứng là 162,3 cm và 152,3
cm)
6
. So sánh chiều cao trưởng thành của các lớp
tuổi từ 20-24 đến 55-60 ở cả nam và nữ đều không
thấy có sự khác biệt có ý nghóa thống kê giữa các
thế hệ. Điều đó cho thấy gần như không có sự biến
đổi về tầm vóc của người dân ở Phú Thọ trong
khoảng thời gian cách đây từ 20 đến 60 năm.
Một điều đáng suy nghó là chiều cao của nữ giới
bắt đầu tăng từ khi trẻ bước vào lứa tuổi dậy thì (ở
đòa bàn này là vào khoảng 12-13 tuổi), tăng nhanh
nhất vào khoảng 12-18 tháng sau khi xuất hiện kinh
nguyệt và kéo dài tiếp đến 7 năm sau, quan trọng
hơn cả là vài năm sau khi chiều cao không phát
triển nữa thì xương chậu vẫn còn phát triển thêm
9
.
Với đặc điểm là tuổi dậy thì ở nông thôn thường
muộn hơn so với thành thò, điều đó cũng tương ứng
là chiều cao tối đa của phụ nữ ở nông thôn sẽ đạt
được muộn hơn so với thành thò. Nhưng có một thực
tế là phụ nữ nông thôn thường kết hôn sớm hơn và
tuổi sinh con đầu lòng trung bình là 20 - 21 tuổi, khi
mà cấu trúc cơ thể vẫn chưa phát triển đến mức tối
đa để có thể mang thai và sinh con thuận lợi. Điều
đó ảnh hưởng đến kết quả của thai nghén (nguy cơ
sinh con nhẹ cân, đẻ non cao) và gây những cản trở
nhất đònh khi sinh (do mẹ thấp, khung chậu hẹp).

Như vậy, can thiệp để tăng tuổi sinh con lần đầu ở
nông thôn cần được quan tâm.
Như vậy có thể nói rằng trên đòa bàn nghiên
cứu, suy dinh dưỡng ở hầu hết tuổi trong quần thể
dân cư vẫn là phổ biến và cần được ưu tiên hàng đầu
để giải quyết trong các vấn đề dinh dưỡng. Tình
trạng thừa cân ở cả trẻ em và người lớn lứa tuổi lao
động chưa phải là vấn đề quan trọng.
Tóm lại, chúng tôi thấy cần quan tâm đến việc
giải quyết ưu tiên vấn đề suy dinh dưỡng ở phụ nữ
tuổi sinh đẻ, chủ yếu ở nhóm 20-29 tuổi. Vấn đề
chọn mẫu trên cộng đồng so sánh với chọn mẫu tại
các trường học, công sở cần phải đặt ra trong việc
phân tích kết quả các cuộc điều tra về thể lực. Trên
thực tế, rất nảy sinh sai số chọn mẫu do người khoẻ
mạnh thường đi làm xa, đi học, đi bộ đội nên vắng
mặt tại đòa phương vào thời điểm điều tra. Số vắng
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 19
mặt chiếm tới hơn 30% dân số (nam nhiều hơn nữ),
gợi ý một hình ảnh nông thôn thiếu việc làm và
thừa lao động. Để đảm bảo sự cân bằng về gia đình
và dân số nông thôn, các biện pháp tạo công ăn
việc làm tại chỗ để tăng thu nhập gia đình cần được
đẩy mạnh ở nông thôn Phú Thọ.
Tác giả: TS.BS. Từ Ngữ, Trưởng khoa dinh dưỡng ứng
dụng, Viện Dinh dưỡng. Đòa chỉ: 48 Tăng Bạt Hổ, Hai Bà
Trưng, Hà Nội. E.mail:
Ths.Bs. Huỳnh Nam Phương, khoa dinh dưỡng ứng dụng,
Viện Dinh dưỡng. E.mail:

Tài liệu tham khảo
1. Lê Nam Trà. 1997. Tăng trưởng trẻ em. Trong "Bàn về
đặc điểm tăng người Việt Nam". Chương trình KHCN cấp
nhà nước. Đề tài KX07-07. Hà Nội.
2. Huard P., Bigot A. 1938. Les caractéristiques anthropo-
biologiques des Indochinois. Trav. De l'Inst. Anat. De l'
école sup. de Méd. de l' Ind. Tome IV. Hanoi: 15-46.
3. Bộ Y tế . 1975. Hằng số sinh học của người Việt Nam. Nhà
xuất bản Y học. Hà Nội.
4. Hà Huy Khôi, Bùi Thò Như Thuận. 1988. Assessment of
some physical measures of rural and Hanoi children at present
time. Proceedings of the International conference on Applied
Nutrition. National Institute of Nutrition UNICEF. Hanoi.
5. Lê Thò Hợp. 2006. Xu hướng tăng trưởng về thể lực và tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em từ sơ sinh đến 17 tuổi - nghiên
cứu theo chiều dọc tại Hà Nội. Báo cáo Hội thảo khoa học
"Cải thiện dinh dưỡng và gia tăng tăng trưởng ở người Việt
Nam". Hội Dinh dưỡng. Hà Nội.
6. Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng. 2002. Tổng điều tra dinh
dưỡng 2000. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội.
7. Từ Ngữ, Huỳnh Nam Phương và cộng sự. 1999. Tìm hiểu
tình hình thể lực trẻ em lứa tuổi học đường. Báo cáo Hội nghò
khoa học Viện Dinh dưỡng. Hà Nội.
8. Trần Văn Dần. 1997. Một số nhận xét về sự phát triển thể
lực của học sinh ở lứa tuổi từ 8-14 trên một số vùng dân cư
miền Bắc Việt Nam trong thập kỷ 90. Trong: Lê Nam Trà
(chủ biên). "Bàn về đặc điểm tăng trưởng người Việt Nam".
Chương trình KHCN cấp nhà nước KX-07. Hà Nội.
9. ACC/SCN . 2001. What Works? A Review of the Efficacy
and Effectiveness of Nutrition Interventions, Allen LH and

Gillespie SR. ACC/SCN: Geneva in collaboration with the
Asian Development Bank, Manila: 16-22.

×