Viêm cầu thận cấp do
nhiễm liên cầu khuẩn
Sau nhiễm liên cầu như viêm họng, mụn nhọt thì viêm cầu thận là một trong
những biến chứng nguy hiểm nhất. Thời tiết nắng nóng, nhiều người, nhất là
trẻ em thường bị mụn nhọt do nhiễm liên cầu, vì vậy cần chủ động đề phòng
nguy cơ bị viêm cầu thận.
Vì sao bị viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu?
Các biến chứng
Suy thận cấp: bệnh viêm cầu thận có khoảng 2% các trường hợp tiến triển
nhanh biến chứng suy thận cấp với biểu hiện: urê máu tăng, thiểu niệu hoặc
vô niệu kéo dài dẫn đến suy thận nhanh. Phù phổi cấp: do giữ nước và tăng
huyết áp. Phù não hoặc chảy máu não là hậu quả của tăng huyết áp đột ngột.
Suy tim trái hoặc suy tim toàn bộ.
Liên cầu có nhiều loại, nhưng chỉ một số chủng liên cầu tan huyết nhóm A
các type 12, 4 và type 1 gây ra trên 90% trường hợp viêm cầu thận. Đây là
một bệnh trung gian miễn dịch. Thời gian từ khi bệnh nhân bị nhiễm khuẩn
đến lúc bị viêm cầu thận là phù hợp với thời gian cần thiết cho việc hình
thành kháng thể. Phản ứng dị ứng do các phức hợp kháng nguyên - kháng
thể lắng đọng trên màng đáy cầu thận. Cầu thận nở to hơn bình thường do:
tăng sinh tế bào nội mô và gian mạch có tính chất lan tỏa; do sự xâm nhập
bạch cầu đa nhân trung tính và đơn nhân. Phản ứng miễn dịch huỳnh quang
cho thấy có sự lắng đọng của IgG, IgM và C3 ở gian mạch, dọc theo màng
đáy cầu thận. Có thể phát hiện được kháng nguyên liên cầu khi sinh thiết
trong 1-2 tuần đầu phát bệnh. Tổn thương cầu thận và các kháng nguyên,
kháng thể tìm được trong máu và ở cầu thận nói trên cho phép ta lý giải lý
do viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu như sau: liên cầu khi vào cơ thể đóng
vai trò là một kháng nguyên, kích thích cơ thể sinh ra kháng thể chống lại
liên cầu. Kháng thể này, sau khi tiêu diệt liên cầu, đến thận nhận nhầm “cầu
thận là kẻ thù - giống liên cầu” nên đã hủy hoại cầu thận.
Liên cầu nhóm A - thủ phạm gây viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu.
Dấu hiệu phát hiện bệnh
Ở một bệnh nhân trước đó bị viêm họng hay mụn nhọt ngoài da, sau 1- 2
tuần, khởi phát đột ngột hội chứng cầu thận cấp: phù, thường phù nhẹ quanh
hốc mắt và giảm nhanh trong vòng 1-2 tuần đầu. Đái ít hoặc vô niệu: nước
tiểu trong trường hợp vô niệu chỉ đái được 100-200ml/24giờ, so với lượng
nước tiểu bình thường dưới 500ml/24giờ
Đái máu: nước tiểu sẫm màu hoặc như nước rửa thịt, đái máu đại thể đỡ
nhanh sau vài tuần, nhưng đái máu vi thể (hồng cầu niệu) tồn tại trong nhiều
tuần hoặc vài tháng. Tăng huyết áp: trên 60% bệnh nhân tăng huyết áp. Nếu
tăng huyết áp nặng, đột ngột, bệnh nhân có biểu hiện đau đầu, choáng váng,
nôn, co giật và có thể có biến chứng xuất huyết não, phù phổi cấp. Suy tim
tuy ít gặp, nhưng nếu có thì bệnh rất nặng, tiên lượng xấu. Suy tim do giữ
nước, giữ muối, tăng huyết áp, có thể suy tim toàn bộ hoặc chỉ suy tim trái.
Xét nghiệm nước tiểu thấy protein niệu trung bình từ 1-3g/24 giờ, hồng cầu
niệu bao giờ cũng có trụ hồng cầu, trụ hạt. Sản phẩm giáng hóa của fibrin
xuất hiện và tăng trong nước tiểu. Xét nghiệm máu phát hiện thiếu máu nhẹ,
tốc độ máu lắng tăng; kháng thể kháng liên cầu tăng: ASLO
(Antistreptolysin-O), ASK (Antistreptokinase), AH (Antihyaluronidase) đều
tăng. Mức lọc cầu thận bình thường hoặc giảm khi có suy thận. Kali máu cao
do thiểu niệu, vô niệu, natri máu thấp do phù.
Sau viêm họng do liên cầu nhóm A, bệnh nhân dễ bị viêm cầu thận.
Lưu ý trong điều trị và phòng bệnh
Bệnh nhân viêm cầu thận cần lưu ý trong điều trị như sau: trong thời gian
mắc bệnh và đang điều trị cần nghỉ tuyệt đối tại giường, hạn chế đi lại, giảm
vận động tối đa để tránh tổn thương cầu thận nặng. Thực hiện một chế độ ăn
nhẹ, ăn nhạt để hạn chế muối và ăn ít chất đạm như thịt, cá, trứng, sữa. Dùng
kháng sinh nhóm bêta lactam như penicillin, ospen, benzathylpenicilin để
điều trị tiệt căn các ổ nhiễm liên cầu còn sót lại ở hầu họng hoặc mụn nhọt
ngoài da. Không nên dùng các thuốc giảm miễn dịch và corticosteroid vì
không có kết quả. Điều trị triệu chứng: nếu có phù thì dùng thuốc lợi tiểu
lasix như furosemid, hypothiazit. Tăng huyết áp có thể dùng một hoặc hai
loại thuốc hạ huyết áp kết hợp để giải quyết các trường hợp huyết áp khó
khống chế. Chỉ dùng thuốc trợ tim khi đã có suy tim. Nếu bệnh nhân bị kali
máu cao thì cần hạn chế thức ăn có nhiều kali như: chuối, cam, nho… Sau
điều trị ổn định, bệnh nhân cần được khám theo dõi định kỳ: trong 6 tháng
đầu, mỗi tháng khám một lần, sau đó cứ 3 tháng khám một lần. Theo dõi sau
2 năm, nếu protein niệu âm tính mới được coi là khỏi bệnh.
Theo một nghiên cứu: trên 90% trẻ em bị viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên
cầu khỏi hoàn toàn bằng điều trị bảo tồn. Có một số bệnh nhân có hồng cầu
niệu và protein niệu nhẹ, tồn tại vài tuần đến vài tháng nhưng sẽ khỏi. Còn ở
người lớn, bệnh thường nặng hơn, trong đó 60% các trường hợp sẽ hồi phục
hoàn toàn, một số chuyển sang viêm cầu thận tiến triển nhanh, số còn lại
chuyển thành viêm cầu thận mạn tính.
Viêm cầu thận sau khi nhiễm liên cầu là một bệnh nặng, tuy nhiên chúng ta
có thể phòng tránh được bằng các biện pháp sau đây: bất kể người lớn hay
trẻ em, khi bị viêm họng, hoặc mụn nhọt ở da cần được điều trị tích cực triệt
để bằng thuốc kháng sinh nhóm bêta lactam như penicillin, ospen,
benzathylpenicilin. Đối với người bị viêm họng tái phát nhiều lần, nên
phòng ngừa bằng cách dùng thuốc benzathine penicilline tiêm bắp thịt, 3
tuần/lần: 600.000 đơn vị/trẻ dưới 30kg và 1.200.000 đơn vị/trẻ trên 30kg và
người lớn. Hoặc uống penicilline V uống mỗi ngày 200.000 đơn vị x 2
lần/trẻ dưới 30kg; 400.000 đơn vị x 2 lần/trẻ trên 30kg. Giữ vệ sinh thân thể:
tắm rửa hằng ngày bằng nước sạch. Vệ sinh răng miệng: chải răng sau mỗi
bữa ăn và trước khi ngủ.