Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Phân tích các tác phẩm văn xuôi lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.05 KB, 96 trang )

NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
Nguyễn Tn
Phần chung
Tác giả Nuyễn Tn: Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn khơng ai
nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại lại thuộc về Nguyễn Tuân. "Ông
là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX"
(Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tn là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một
vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như những
giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tịi, sáng tạo nên các giá trị mới.
Ðọc văn ông, người đọc khơng chỉ có khối cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngơn từ mà
cịn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh...
Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực
nghệ thuật. Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ
thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra
lơi lỏng, hời hợt; mà ngược lại, ln nghiêm khắc với chính mình. Ðây là một nhà văn "suốt
đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ
Thuật với hai chữ viết hoa".
Tùy bút Người lái đị sơng Đà:
- Hồn cảnh sáng tác: Là kết quả của chuyến đi thực tế đầy hào hứng và gian khổ khi
lên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn và xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cơn đói của thú xê dịch mà
chủ yếu là tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa của con người lao
động và chiến đấu của miền đất TB. Với cảm hứng được gợi nên từ những nét đẹp và đặc
biệt của chính dịng sơng này:
“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”
Hay:
“ Chúng thuỷ giai Đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Viết Sông Đà nhà thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng
sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người
Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật.
- Đặc sắc nghệ thuật: Tuỳ bút pha bút kí, kết cấu kinh hoạt, vận dụng được nhiều tri


thức văn hoá và nghệ thuật vào trong tác phẩm. Nhân vật mang phong thái đời thường giản
dị. Bút pháp: hài hoà hiện thực với lãng mạn. Ngơn ngữ: hiện đại có pha ngơn ngữ xưa. Với
tay bút nở hoa đã cho vị thế xứng đáng là một trong số những tùy bút hàng đầu của văn học
VN hiện đại.
Phân tích hình tượng nhân vật con sơng Đà
MB.
Đất nước VN ta với trăm sơng nghìn núi. Biết bao nhiêu con sông đã bước vào thơ ca,
khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ. Trong sớ những dịng sơng ấy, ta phải kể đến con
sơng Đà. Nó là đối tượng cảm hứng của các bậc tao nhân mặc khách nhưng có lẽ đến với NT,
sơng Đà mới thực sự trở nên chân thực sống động. Là nhà văn cả đời theo chủ nghĩa duy mĩ,
trước CM ông đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Sau CMT8, NT lại tìm thấy cái đẹp ở
ngay trong cuộc sớng nhân dân lao động. Ơng gọi đó là “chất vàng mười đã qua thử lửa”
cịn theo Nguyễn Minh Châu đó là “viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn của con người
VN”. Toàn bộ vẻ đẹp ấy ánh lên trong thiên tùy bút “Sông Đà” sáng tác năm 1958 – 1960
với linh hồn là bài kí “Người lái đò sông Đà”. Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, ngịi
bút của NT đã nở hoa trên dịng sơng văn chương của mình.
TB.

1


1. Tình yêu riêng biệt của Nuyễn Tuân giành cho Tây Bắc và sông Đà.
Khác với những người nghệ sĩ cùng thời, đến với mảnh đất Tây Bắc – mảnh đất trước
cách mạng, Nguyễn Tuân đã từng đặt chân, ông ào đến như nai về śi cũ và đã có những
áng văn rất đẹp như những bài thơ trữ tình viết về thiên nhiên nơi đây. Đến với trang văn của
Nguyễn Tuân, ta bắt gặp thiên nhiên Tây Bắc diễm lệ bởi nơi ấy có thung lũng lúa chín vàng,
có đá chìm đá nổi, có gió ćn mây bay, có nắng vàng rực rỡ… Nhưng Nguyễn chỉ say mê
dùng bút lực của mình để mơ tả Đà giang bởi với ông, Đà giang là nơi hội tụ tập trung nhất
vẻ đẹp của núi sông Tây Bắc. Đến với Tây Bắc là phải đến với sông Đà. Chỉ đến khi gặp
được sông Đà mới thấy hết được thần thái của núi sơng hùng vĩ, diễm lệ. Vì vậy, Nguyễn say

sưa viết về con sông Đà và đã đặt tên cho 15 bài kí của mình là Tùy bút “Sơng Đà”. Để đặc
tả nhân vật trữ tình này, Nguyễn đã sử dụng chủ yếu nghệ thuật nhân hóa để viết về Đà giang.
Ơng viết về Đà giang như đang ngồi khai lí lịch cho đứa con tinh thần của mình. Ơng thổi
hồn mình vào sơng Đà. Con sơng ấy qua ngịi bút của Nguyễn Tuân như oằn mình, cựa quậy
trên từng trang viết. Có thể khẳng định sơng Đà đẹp hơn cả, trở về đúng với bản tính của
mình chỉ đến khi gặp được ngịi bút của Nguyễn. Ơng khơng viết “khơi nguồn” mà ơng viết
“khai sinh”. Ơng khơng viết con sơng Đà chảy từ Trung Quốc vào VN mà ông viết sơng Đà
“xin nhập quốc tịch Việt Nam”. Ơng khơng viết sông Đà trải rộng ra trên lãnh thổ nước ta mà
viết “sông Đà trưởng thành dần lên”… Với cách viết này, Đà giang thực sự trở thành một
nhân vật, trở thành một hình thể, một cơ thể sớng và Nguyễn xứng đáng là một nhà ngôn ngữ
bậc thầy, xứng đáng được văn giới cùng thời mệnh danh là người chẻ sợi tóc làm tư.
2, Cái ngơng của sơng Đà gặp cái ngơng của Nguyễn Tn.
Nguyễn Tn cịn chọn Đà giang bởi ông là một nhà xê dịch, một chủ nghĩa xê dịch.
Đề tài xê dịch được du nhập từ văn học phương Tây. Nguyễn chịu ảnh hưởng lớn bởi nhà
văn Pháp A.Gide – một người đi đầu trong chủ nghĩa xê dịch ở Pháp. Người viết về đề tài xê
dịch thường viết về đường xá, xe cộ, sông nước, thác dữ. Mảnh đất Tây Bắc là nơi có Đà
giang dữ dội. Con sông ấy đã từng bước vào trong thơ Nguyễn Quang Bích:
“Chúng thủy giai đơng tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Khi tất cả dịng sơng đều chảy về hướng Đơng, riêng con sông Đà lại chảy về hướng
Bắc. Một con sơng đầy cá tính gặp một nhà văn phong cách cũng rất lạ mà giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh đã đóng đanh trong một chữ ngông và trên diễn đàn văn chương Việt Nam xuất
hiện những áng văn tuyệt bút viết về sông nước.
Người viết về đề tài xê dịch cũng rất thích đi đó đây để thay đổi thực đơn trong nhãn
quan tâm hồn mình. Nguyễn Tn cũng vậy, ơng khơng thích những gì gọi là nhàm chán. Ta
thấy đây là sự đồng điệu trong tâm hồn những người nghệ sĩ lớn bởi Ma-xim Gor-ky nói “cái
bình thường là cõi chết của nghệ thuật”. Nam Cao trong “Đời thừa” cũng từng viết: “văn
chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.” Chính
sự đặc sắc của Đà giang đã hấp dẫn ngòi bút của Nguyễn Tuân, trở thành nguồn cảm hứng
bất tận để thăng hoa những sở trường, phong cách rất ngông của mình.

3, Vẻ đẹp của sơng Đà.
Nói đến Nguyễn Tn là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là
đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ơng khơng
thích những gì tầm thường. Con sơng Đà đáp ứng được hai xúc cảm của Nguyễn Tn vì con
sơng Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất với nhau. Ở phần thượng
lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội. Nhưng ở hạ nguồn, nó lại tốt lên một vẻ đẹp rất trữ
tình, thơ mộng.
3.1. Con sông Đà hung bạo.

2


Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dịng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai
đơng tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, khơng khn mình vào lẽ thường.
Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch VN. Nó phải trải
qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sơng Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều
luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác
thường của dịng sơng. Nhưng khi xi về phần hạ lưu, lịng sơng như được mở rộng ra, con
thác khơng cịn nữa, dịng nước trơi êm đềm, hiền hịa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà
lại hiện lên vơ cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngồi ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo
của con sơng Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xốy. Ơng cịn nhìn thấy
sự hung bạo ấy ở những qng sơng huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây
Bắc.
1. Cảnh đá bờ sông.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ

sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lòng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện”.
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo
khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án
ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo,
Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dịng sơng, một nơi hẹp như thế mà lưu tớc dịng
nước vớn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái
khe ấy thì tiến khơng được, lùi cũng khơng xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà
thôi.
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đị qua
qng sơng hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như
ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm
như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng của liên tưởng
cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn.
2. Cảnh mặt ghềnh Hát Loóng.
Cũng như đá bờ sơng, thì“qng mặt ghềnh Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá,
đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt
bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước
xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn
sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Khơng có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá
nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông,
nước mạnh xơ ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè
quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người.
Với nghệ thuật nhân hóa con sơng như một kẻ thù tính khí thất thường, địi nợ vơ dun cớ
khơng bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay


3


có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi
Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lóong. Đọc tên địa danh
mà phải nén hơi, ́n lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng,
với đá, với ghềnh thác của sông Đà.
3. Cảnh những cái hút nước.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn
nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước
ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho
vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi
vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm
theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng
Nguyễn Tn khơng dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so
sánh và liên tưởng với cái cửa cớng cái bị sặc nước. Khi dịng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng
kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xốy tít đáy,
như cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh
quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào, ći
cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy
tan xác ở khuỷnh sơng dưới. Hình ảnh sơng Đà qua ngịi bút của Nguyễn, có lẽ khơng chỉ làm
những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình
chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những
vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho

nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn
tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp.
Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã
dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng x́ng cái hút nước
sơng Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay.
Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong
cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khới pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp
vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép
lá rừng vừa bị cho vào cái cớc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng
của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong
lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang
nở hoa trên dịng sơng Đà và trên trang văn của Nguyễn.

4. Cảnh những cái thác nước.
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng
những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ,
nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai

4


ngun tớ có sức hủy diệt rất lớn lại ln tương khắc với nhau, có nước thì khơng có lửa,
ngược lại, có lửa thì khơng có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một
nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt
cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được
thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đớt cháy và nóng thì

chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thốt thân. Khi chạy nó va đập mạnh vào những
cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang na não bạt, kinh
thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang
đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế để
khiêu khích người lái đị. Nó biết: ốn trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế - kẻ thù số một của con người.
5. Cảnh những trùng vi thạch trận đá.
Phới hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sơng Đà đã
giao việc cho mỗi hịn, để chúng phới hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch
trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối
tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bớn cửa tử, một cửa sinh, cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ
hở, thực chất chúng đóng vai trị dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này
sóng nước đóng vai trị chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công
chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ
khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể qn liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc
gối vào bụng và hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô
vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não nạt.
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt
lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sơng tung ra để thử
thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ơng lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ơng lái đị phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc
thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đị. Khi
chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái
thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng

nước dở những món địn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke
chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một
trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa
giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và
ći cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đị tài ba với “tay lái ra hoa”.
Con Sơng Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy
trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và
tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng
thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sơng
hãy cịn dài – Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen.

5


* Đặc sắc nghệ thuật khi miêu tả cong sông Đà hung bạo:
Viết về Đà giang, ngòi bút của NT vơ cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái Đị
Sơng Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện.
Có khi ớng kính của nhà văn tiếp cận con sơng Đà từ phía viễn cảnh. Có đơi lúc, ớng kính
của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái
sự hung bạo của những đoạn sơng với hình ảnh “đá bờ sơng, dựng vách thành, mặt sông chỗ
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng
Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có
quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ
yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dịng nước. Ơng cũng cảm
nhận con sơng bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả. Bởi vậy, con

sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và ngơn ngữ. Một nhà thơ Ba Lan có lần đã
từng viết:
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”
Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động
từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng
và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Lng: “dài hàng cây số nước xơ đá,
đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt
bất cứ người lái đò Sơng Đà nào tóm được qua đấy.” Ta còn thấy NT tập trung vào miêu tả
sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vơ cùng táo bạo. Đó là đoạn
Tà Mường Vát ở phía dưới sơng La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sơng dưới.” Thêm vào đó, NT cịn nhìn thấy sự hung bạo ở
mùa lụt của con sơng Đà. Mùa lụt của sơng Đà vẫn cịn cái ngấn nước ở cổng châu Quỳnh
Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai cùng gỗ Chị Vẩy, Chị Hoa trơi lềnh bềnh trên
mặt sơng. NT ví lúc này dịng sơng Đà chẳng khác nào “kẻ thù số một” của người dân Tây
Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến tột cùng.
=> Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết,
vực xốy mà NT cịn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia
ngăn dịng sơng Đà, khiến con sơng trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân TB. Đó
cịn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bớt ở hai bên bờ sơng khiến Đà giang trở nên càng hung
bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cớt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những
con sông hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua. Nếu “sơng Hương”
của Hồng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cớ đơ và người dân Huế thì con sơng
Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng
định Đà giang qua ngòi bút của NT hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ
phong cách rất riêng của NT –một phong cách rất “ngông”.
3.2. Con sơng Đà trữ tình.
1. Hình dáng con sơng Đà.
Nguyễn Tn miêu tả hình dáng sơng Đà nhìn từ trên cao x́ng để phát hiện ra vẻ đẹp
tịan diện của con sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên cao, tác giả

nhìn thấy con sơng Đà dài như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình. Nó biết mềm
mại, ́n lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm cho mình trở nên dịu dàng,
nữ tính.
Sơng Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà cịn đậm nét
thơ mộng, trữ tình: “Con Sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một câu văn với nghệ thuật kết cấu trùng điệp và cách so
sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp

6


e lệ, dịu dàng. Cơ gái ấy có mái tóc tn dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩm hiện trong
mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân
với những chùm hoa ban với sắc trắng, sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng
phất vị Đường thi. Nếu nhìn và cảm nhận, con sơng hiện lên hiền hịa và dịu dàng như một
cơ gái đang e lệ với mái tóc dài bng xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông
hoa ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng
manh màu trắng khi bước những bước chân ngập ngừng, e ấp về nhà chồng. Cịn gì đẹp, thơ
mộng và trữ tình hơn khi ví dịng sơng Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ đang thẹn thùng cất
bước chân về nhà chồng. Ngịi bút của Nguyễn khơng chỉ thể hiện sự tài hoa mà cịn là sự
tinh tế thơng qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp, một cách so sánh tài hoa,
đượm chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ
trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người. Làm sao
quên được hình ảnh:
“Cổ tay em trắng như ngà
Đuôi mắt em sắc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”
Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên

lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ
trụ. Vì vậy, ơng nhìn sơng Đà như áng tóc của người thiếu nữ.
2. Màu nước sơng Đà.
Nước Sơng Đà cịn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xn
dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sơng Đà khơng xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông
Lô. Mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn tả sắc xanh của
nước sơng Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch
mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy được sắc xanh như màu xanh của sông Đà là
hiếm và khác biệt với nhiều dịng sơng khác NT đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với
màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu của
sơng Đà tựu thân nó khơng thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm
dun của con sơng. Mùa thu nước sơng Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt
người đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ thu
về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi
vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà
giận dỗi được ngay. Khơng chỉ có tính cách đa dạng mà chúng ta thấy sông Đà hiện lên như
một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy tự thay tấm áo đã cũ màu, khốc
cho mình tấm áo mới, ln ln thay đổi, ln tự làm mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
3. Con sông Đà gợi cảm.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông“vui như thấy
nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Với nghệ thuật so sánh
cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình đới với con sơng của
miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một con người đới với một con sơng
mà đó là xúc cảm của những “cố nhân” sau bao ngày xa cách. Niềm vui ấy như tiếng cười
giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một
giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta chồng tỉnh giấc và giờ đây lại được nới lại. Niềm vui
của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi chờ.


7


Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh
lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà
khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con
sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình nhân chưa quen biết”.
4. Cảnh sắc hai bên bờ sông.
Sông Đà cịn có những khoảng khơng gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven
sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, qng sơng này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi”. Cái lặng lẽ của thanh bình, n ả mà có lẽ bất cứ một tâm hồn khó tính nào cũng
ḿn ở trọ nơi đây.
Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Chút hoang dại của lịch sử đất
nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mơ mộng gửi theo những
câu chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên bờ sông Đà vừa
hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ.
Cảnh sơng Đà cịn là “những nương ngơ nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp trong mùa xuân với sự sống đang cựa mình, sinh sôi. Thực
và mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và
tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của
một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, được đánh thức bởi
sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh khơng một bóng
người”, “một nương ngơ nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa” mà khơng có ai chăm sóc, mà
dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ
quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con
người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi
đều đầy ắp tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ
nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tn có mới giao cảm kì lạ với lồi

vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi
trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái tiếng nói
riêng của con vật lành: Hỡi ơng khách sơng Đà, có phải ơng cũng vừa nghe thấy một tiếng
còi sương?”. Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình.
Cảnh sơng Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm
giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã
dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng
nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như
Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của
“một người tình nhân chưa quen biết”. Con sơng Đà như một sinh vật có linh hồn, dịng nước
trơi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang
lắng nghe những giọng nói êm êm của người xi”. Con sơng trở nên hiền hịa và thơ mộng,
nó “trơi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đi én thắt mình
dây cổ điển trên dòng trên”. Đó là niềm mong ước của nhà văn nửa muốn gìn giữ những
nét ngun sơ của con sơng, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó để phục vụ con người –
đó phải chăng cũng là lịng u nước thầm kín của Nguyễn?
Đà giang hiện lên qua ngịi bút của NT thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng thời vô cùng
kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, NT miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền
chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc
thì đến đoạn văn này, NT chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và kiến thức
văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của “thuyền tôi trôi trên sông Đà”.

8


Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến 14 câu văn NT kết thúc tồn với thanh bằng
để tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn có thể dễ dàng chuyển thẳng những
đoạn văn NT viết về dịng sơng Đà ở hạ lưu thành những bài thơ trữ tình viết bằng văn xi.
Phong cách NT này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện

không mâu thuẫn, khơng kịch tính, khơng gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng
văn xi. Đến đây, ta lại bắt gặp ở nhà ngôn ngữ tài ba NT một phong cách nghệ thuật tương
tự.
* Tình yêu đất nước thầm kín của NT.
Khi viết về sơng Đà, NT đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương đất
nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết
về giang sơn, là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong cuộc đời cầm bút của nhà
văn. Trước CM, tình u q hương Tổ q́c của NT được bộc lộ một cách thầm kín thơng
qua tác phẩm “Thiếu q hương”. Đó là nỗi lịng của những con người “sống giữa quê hương
nhưng vẫn thấy mình thiếu q hương.” Cịn nói như Chế Lan Viên:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy
Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như khơng”
Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng CM rọi chiếu vào tâm hồn của nhà văn, phù
sa của nhân dân bồi đắp. Ơng đứng giữa dịng sơng Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc
lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc qua từng câu chữ. Không yêu sao được khi ông đến với Đà
giang, viết về một con sông hùng vĩ, ông đã đọc hàng trăm trang cổ sử, hàng trăm trang “Dư
địa chí”, đọc biết bao nhiêu áng thơ trữ tình của Tản Đà, của Lí Bạch, của Nguyễn Quang
Bích,… nhưng viết về Đà giang, Nguyễn khơng bị lệ cổ, không bị tập cổ, không bị ảnh hưởng
bởi người xưa mà đã tái tạo mới trên từng trang viết vì nói như Nam Cao: “Văn chương chỉ
dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những cái gì chưa có.”
Cần phải khẳng định rằng khi viết tập tùy bút “Sông Đà”, NT đã đi thực tế ở trên Tây
Bắc. Trong chuyến đi, NT đã thâm nhập vào đời sống của nhân dân Tây Bắc và đã trở thành
người đầu tiên kể ra chính xác 50 trên tổng sớ 73 con thác dữ từ ngã 3 biên giới Việt – Trung
về tới Chợ Bờ. Tớ Hữu đã từng nói: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật ứ
đầy”. 15 bài kí trong tập tùy bút “Sơng Đà” nói chung và “Người lái đò sơng Đà” nói riêng
thực sự đã được tràn ra từ trong trái tim NT khi cuộc sống của nhà văn trên Tây Bắc đã đủ
đầy để chảy tràn thành những áng văn đẹp.
Tình yêu nước ấy còn được bộc lộ khi NT nhớ lại một lần nhà văn bám gót anh liên lạc.
Nhìn thấy con sông Đà từ rất xa, NT gọi con sơng ấy là một cớ nhân, một người tình chưa hề

biết mặt theo ý thơ của Tản Đà. Thế là bao nhiêu những vần thơ của các bậc tao nhân mặc
khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn NT. Ơng nguyện theo người xưa để thơ lên sóng
nước sơng Đà. Như vậy, 15 bài kí mà Nguyễn gửi trong kho tàng văn chương Việt Nam là gì
nếu khơng phải là những vần thơ đẹp được ông thả trên dịng sơng nghệ thuật?
Bên cạnh đó, tình u nước của NT cịn được thể hiện khi ơng say sưa kể về những lồi
cá q hiếm chỉ có ở Đà giang. Đó là cá anh vũ, cá dầm xanh “vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi.” Như vậy rõ ràng, đây chính là “chất vàng mười” của rẻo cao Tây Bắc. Đó
khơng chỉ là “chất vàng mười” của thi ca mà còn là “chất vàng mười” của kiến thức. Khơng
phải ngẫu nhiên mà trong bài kí này, NT ước ao được nghe một tiếng còi tàu xúp - lê từ Yên
Bái, Việt Trì vọng lên trên Tây Bắc. Điều ấy khiến ta liên tưởng tới Chế Lan Viên với mong
ḿn được hóa thành đồn tàu để chở mọi người lên khai phá mảnh đất nơi đây.
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của NT vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng vơ cùng
mĩ lệ, trữ tình và vơ cùng lãng mạn. Hai tính cách ấy đặt bên cạnh nhau nhưng không hề bài
trừ nhau mà lại tôn vinh nhau, khiến con sông Đà trở nên chân thực sống động, cựa mình trên
trang viết. Quan trọng hơn, đằng sau dịng sơng ta thấy hiện lên một bức chân dung của một

9


NT với tình yêu quê hương đất nước; một NT đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù
sa của nhân dân bồi đắp; một NT với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Như vậy, NT viết bài kí “Người lái đị sơng Đà” bằng một tâm hồn rộn ràng tiếng chim
như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt. Rõ ràng ông là người chiến sĩ
trên mặt trận văn chương.
Phân tích hình tượng người lái đị
MB :

Tuỳ bút "Người lái đị sơng Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của NT được in
trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ
vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm
trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây
Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người
lái đị sơng Đà. Dưới ngịi bút tài hoa của NT người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người
nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
2. TB (nói cả phần chung trong đề phân tích hình tượng con sơng Đà)
a. Lai lịch và ngoại hình người lái đị sơng Đà.
* Lai lịch :
Ơng lái đị sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu
thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khới óc nên ơng lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu
tường tận, cặn kẽ dịng sơng.
* Ngoại hình :
Khi NT có dịp kiến diện với người lái đị thì cũng là lúc người lái đị đã 70 tuổi, cái tuổi
của buổi xế chiều. Ơng làm nghề lái đị dọc sơng Đà mười năm liền và đã nghỉ đơi chục năm.
Ấy thế mà ơng có ngoại hình thật đặc biệt «ơng có thân hình quắc thước sánh như chất sừng,
chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười
năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ơng lão: Tay ơng lêu nghêu
như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gị lại như kẹp lấy một ćng lái tưởng
tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sơng, nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc
nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ơng có vết củ nâu tròn,
dấu tích tì sào của nghề lái đị mười năm liền trên sơng nước, vượt qua bao ghềnh thác mà
NT đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà NT đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc
một hình ảnh nhân vật ơng lái đị gần gũi với với mơi trường lao động trên sông nước, sinh
ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác,
đá, sóng, nước sơng Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được
nhà văn viết ra khơng chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà cịn để ca ngợi sự gắn
bó, u q nghề ở chính con người đó.

a. Vẻ đẹp tâm hồn người lái đị qua cuộc chiến với sơng Đà.
1. Sự từng trải và am hiểu dịng sơng:
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải,
thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người
lái đò còn là một linh hồn mn thuở của sơng nước này; ơng làm nghề đị đã mười năm liền,
trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ơng giữ lái độ sáu chục

10


lần…Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sơng Đà với thác, nước, sóng, đá
mà để lái đị dọc sơng Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của người lái đị cịn thể hiện, dịng sơng Đà với bảy mươi ba con thác
nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lịng tất cả những luồng nước của tất
cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sơng Đà đới với ơng lái đị ấy, như một trường thiên
anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn
xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của
mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ơng lái đị làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy
hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ơng lão lái đị. Đấy cũng là cách nhà văn
bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng,
ngọn thác hung dữ ở sơng Đà.
2. Cuộc chiến đấu giữa ơng lái đị và con sơng Đà :
Ơng lái đị đã từng ngược xi trên ghềnh thác sơng Đà nhiều năm trong cuộc đời nên
ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn
tại, lao động và sáng tạo. Ơng lái đị hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại
VN, nhưng có điều ơng khơng có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị,
đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó địi hỏi phải có

lịng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đốn nữa. Nguyễn Tn đưa nhân
vật của mình vào trong hồn cảnh khớc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ,
nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sớng của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến
đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận
sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt
như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
a, Trùng vi thạch trận thứ nhất : Đương đầu với mặt trận đá.
a1, Sông Đà :
* Trận địa đá :
Kẻ thù nham hiểm và hung ác, mặt mũi khó nhìn : Ngoặt khúc sơng lượn, thấy sóng
bọt đã trắng xố cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sơng,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần
có chiếc nào nhơ vào đường ngoặt sơng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với
những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham
hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bát cứ khi nào và tai họa sẽ
ập đến mà khơng báo trước. Mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm
méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ
mặt khác nhau: hịn thì ngỗ ngược, hịn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách
thức... mỗi hịn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì khơng có chút nào thiện cảm
bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.
* Bày binh bố trận :
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa
chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính tốn kĩ lưỡng. Sơng Đà đã giao
việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sơng. Đám tảng hịn chia làm
ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc khơng cịn biết
lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá
cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con

11



sơng Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hịn canh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở
nhưng thực chất đang đóng vai trị dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã
bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khúyp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của
ơng đị đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boong - ke chìm và pháo đài đá nổi là
phải đánh tan con thuyền.
Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phới hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn
đánh hiểm độc : khúyp quật vu hồi, đưa ra những địn độc : đá trái, thúc gới, đội thuyền, túm
thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đị...rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm,
hồi lùng...
-> NT đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn
và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tơn lên vẻ đẹp
của ơng lái đị bấy nhiêu vì con sơng coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đị hiện lên
anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sớng trên dịng sơng chết.
Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
a2, Người lái đị :
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hị la vang dậy như ḿn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy
nhất có trên tay ơng lái đị. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông
thẳng vào người lái đị tiến sát nách mà đá trái, thúc gới vào bụng và hơng thuyền. Khi sơng
Đà tung ra miếng địn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng
lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ơng lái đị vẫn khơng hề nao núng,
bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi
bị thương, người lái đị vẫn cớ nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt
trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của
người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái
đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con
thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đị phải tiếp tục “phá ln vịng vây

thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá. Biết ở vịng vây thứ hai
con sơng đã bớ trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bớ trí lệch
qua bờ hữu ngạn. Với vịng vây thứ hai khơng phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất
mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như
thấy ơng lái đị khơng phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sơng Đà. Hơn
nữa bằng nghệ thuật miêu tả địn bẩy tác giả đã ví thác sơng Đà như một con hổ hung bạo đã
vào cuộc chiến sinh tử với người lái đị. Nên ơng lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng
như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có
chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ơng đị ghì cương lái của con thuyền, chắc đơi bàn tay để bám chắc
lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó
khơng để chút sơ hở cho con thuyền có lới thốt. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ
đá đang mai phục. Khơng chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ
con thuyền đến là xơ ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ơng đị đã nhớ mặt từng đứa
một, đứa thì ơng tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ơng đè sấn lên, chặt đơi ra để lấy đường
tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hị
của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ơng lái đị lại anh
hùng, linh hoạt và chủ động đới phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đị, nhưng
với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải
trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba
với con sơng Đà. Và cũng đến vịng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vơ cùng thì

12


ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình.
Đến vịng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ
động “tấn cơng”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao

tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của
giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền khơng bơi trên sóng nước sơng Đà
mà nó như đang bay trên dịng sơng hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước. Còn người lái đị như một tiên ơng với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút
vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở
hoa. Thế là kết thúc.
* Nghệ sĩ tài hoa :
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đị sơng Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những
người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật
cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong
người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn đã xây dựng một hình tượng người lái đị nghệ sĩ mà nhà
văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của
sơng Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc
sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi
dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ơng lão lái
đị vừa thuộc dịng sơng, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ơng thật khơn khéo, bình tĩnh như vị
chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phới hợp nhịp
nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác:
Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sơng nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đị đớt lửa trong
hang đá, nướng ớng cơm lam và tồn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá
hang ca mùa khơ nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy
ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa
rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm
khơng mấy ai tự tán dương về cơng sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận
xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành
lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng khơng có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ

thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đị anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đị
tài hoa, người lái đị chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!
3. KB. Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở
phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8-1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà
nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc
sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đị vơ danh, khơng tên tuổi,
nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ
thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù sớ
một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh
giá trị con người vào lao động.

13


AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG
Hồng Phủ Ngọc Tường
Mở Bài
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng
nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Mỗi lần nghĩ về Huế là lịng tơi lại ngân nga
câu hát ấy. Phải chăng mảnh đất của các lăng tẩm, đền đài, của cố đô trầm mặc đã đi vào thơ
ca nhạc họa để lại bao mê đắm trong lịng người. Nói đến Huế ta cịn nhớ về sơng hương, núi
ngự, lục bình trơi - những hình ảnh khơng thể tách rời kinh thành cổ. Dịng sơng Hương, dịng
sơng chỉ thuộc về Huế, dịng sơng thơm ngát hương hoa ấy đã vấn vương lịng bao du khách,
thậm chí cũng để lại nỗi băn khoăn với cả những người con của đất cớ đơ “ai đã đặt tên cho
dịng sơng?”để rồi nó mang tên Hương giang. HPNT, một người con của xứ Huế đã trả lời
cho câu hỏi ấy bằng một bài bút kí giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê
đắm và tình yêu thiết tha giành cho mảnh đất quê hương. Ai đã đặt tên cho dòng sơng chính
là câu trả lời ấy.
Thân Bài
* Nét chính về tác giả HPNT.

HPNT là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời
văn của HPNT được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất
trữ tình của cái tơi uyên bác, tài hoa.
* Hoàn cảnh sáng tác bài bút kí.
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên
bờ sông Hương, sớng trong lịng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương
cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian. Khi tác giả ngồi đọc
truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những lồi hoa đang nở, trái
cây đang chín, n tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng

14


sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh - xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sơng
Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
Bằng tài năng nghệ thuật viên mãn kết hợp với kiến thức uyên sâu ở nhiều lĩnh vực,
nhà văn HPNT đã đưa người đọc đến với dịng sơng Hương thiết tha và lãng mạn. "Ai đã đặt
tên cho dịng sơng" là linh hồn của tập truyện cùng tên xuất bản năm 1986, được tác giả viết
năm 1981 và được đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của
HPNT nói riêng, của thể kí ở văn học Việt Nam thời hậu chiến nói chung. Thành cơng của
HPNT là nhà văn đã xây dựng được con sông thơ mộng, lãng mạn để từ đó bộc lộ cái "Tơi"
với tình u q hương đất nước nồng nàn, sâu sắc.
*Thể bút kí.
Trước hết cần phải khẳng định "Ai đã đặt tên cho dòng sơng" là một áng văn tiêu biểu
viết theo thể kí. Đây là một thể loại rất kén độc giả bạn đọc và khó sáng tác. Người viết tùy
bút phải có phông kiến thức uyên sâu ở nhiều lĩnh vực, câu văn co duỗi, nhịp nhàng. Đằng
sau ơng hồng của thể loại tùy bút Nguyễn Tuân thì ta phải kể đến HPNT. Nhận định về ơng,
Ngun Ngọc nói: " HPNT là một trong những nhà văn viết kí hay nhất trong văn học ta hiện
nay." Bằng sự am hiểu trong lĩnh vực địa lí HPNT đã làm tốt lên dịng sơng Hương một vẻ
đẹp thiên nhiên đến mê hoặc lòng người.

* Phân tích dịng Hương giang.
1. Dịng sơng của địa lí.
HPNT đã cảm nhận dòng Hương ở các lĩnh vực như địa lí, lịch sử và thơ ca, nhưng có
lẽ dịng Hương giang đẹp và để lại dấu ấn sâu sắc nhất là qua cảm nhận trên phương diện địa
lí với cái nhìn đầy mới mẻ như kết tinh tình yêu và tài năng của tác giả. Tác giả đã cảm nhận
con sơng Hương qua bớn chặng đường khi nó tìm về thành phố Huế.
1.1. Sông Hương ở thượng nguồn – Cơ gái Di –gan phóng khống, man dại.
HPNT đã mở đầu bài kí của mình bằng một câu văn đầy chủ quan: "Trong những dòng
sông đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến, hình như chỉ sơng Hương là thuộc về một
thành phố duy nhất." Nhận xét của HPNT thể hiện được niềm tự hào của mình với dịng sơng
Hương đồng thời ơng đã đặt ngang hàng Hương giang với vẻ đẹp của các dịng sơng trên thế
giới. Bằng trí tưởng tượng phong phú và niềm say mê bất tận đối với Hương giang, HPNT
đã gợi nên vẻ đẹp hoang dại của dịng sơng ở thượng nguồn.
Ơng gọi đó là "bản trường ca của rừng già". Tên gọi ấy xuất phát từ cội nguồn của
dịng sơng đó là đại ngàn của Trường Sơn hùng vĩ. Sông Hương ở phần thượng nguồn tốt
lên vẻ đẹp dữ dội khi nó đi qua dãy Trường Sơn hoang dại của núi rừng và người yêu văn
khó có thể quên được những câu văn tùy bút đẹp như một bản nhạc với đầy đủ những nớt
trầm nớt bổng: "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy
như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng." Những vế đầu của câu văn rất ngắn
gọn và những âm vực cao tạo nên những nốt bổng, nốt thăng trong bản nhạc của sông Hương,
nhưng vế sau lại là một tổ hợp như những câu phức với nhiều vế dàn trải để người đọc được
ngân nga những nốt nhạc nhẹ của sông hương dịu dàng và say đắm.
Người đọc nhớ tới con sông Đà của Nguyễn Tuân khi nhập quốc tịch Việt Nam, chảy
qua phần thượng nguồn nó cũng vơ cùng dữ dội. Nguyễn Tn đã tập trung miêu tả độ dốc
của con sông khi đi qua những quãng sông hẹp: “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sơng chỗ
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có ánh mặt trời.” Thậm chí có những qng hẹp đến mức "con nai
con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.” Nếu con sông Đà của Nguyễn Tuân hiện lên dữ
dội qua những câu văn có kết cấu điệp trùng như "nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sơng Đà

nào tóm được qua đấy.” thì con sơng Hương của HPNT lại hiện lên với những câu văn tạo
ra âm hưởng hùng tráng rất riêng cho bản trường ca rầm rộ của rừng già. Để tạo nên sự man

15


dại của dịng sơng ở phần thượng nguồn, HPNT đã sử dụng dày đặc nghệ thuật đối lập, tương
phản, so sánh để kích thích trí tưởng tượng của người đọc và từ đó độc giả hình dung ra vẻ
đẹp khác nhau của dịng sơng. Tác giả cũng chọn lựa những tính từ miêu tả để làm nổi bật vẻ
đẹp riêng của sông Hương trên thượng nguồn: rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu dàng và say
đắm để cho thấy những nét tính cách đới lập, đa dạng nhưng lại vơ cùng thớng nhất của sơng
Hương. Khó ai có thể hiểu những tính cách đới lập ấy lại hội tụ trong một cơ gái. Tưởng rằng
ví sơng Hương như một cơ gái thì sẽ thật dịu dàng, nữ tính. Khơng chỉ dừng lại ở đó, HPNT
cịn khốc lên cho dịng sơng Hương một vẻ đẹp vô cùng độc đáo: "Giữa lòng Trường Sơn,
sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cơ gái Di - gan phóng khống và
man dại". Như vậy, ngay ở những câu đầu tiên của bài kí này, HPNT đã sử dụng rất thành
cơng nghệ thuật nhân hóa để ví dịng sơng như một cô gái với sức mạnh của rừng già: với
bản lĩnh gan dạ và một tâm hồn tự do, trong sáng. Cá tính của một cơ gái Di – gan phóng
khống và man dại. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn hình tượng cơ gái Di – gan
để ví với dịng sơng Hương trên thượng nguồn. Nếu ai đã từng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một
cô gái Di – gan thì tơi dám chắc sẽ bị ćn hút bởi sự bí ẩn nhưng mạnh mẽ vơ cùng, với làn
da nâu rám nắng, đôi mắt xanh thăm thẳm như những thảo nguyên, mái tóc vàng đầy nắng
và gió. Đặc biệt những cơ gái này cịn biết đến bởi nhưng vũ điệu bớc lửa, đắm say và thuật
bùa chú. Và dịng Hương của Huế trên thượng nguồn cũng vậy. Sống cuộc đời phóng khống,
tự do của dân du mục, của những con người không bao giờ chịu khuất phục. Đặc biệt cô gái
ấy mang chút man dại, hoang sơ của núi rừng như con sơng Hương khi cịn ẩn mình trong
rừng đại ngàn Trường Sơn. Nhưng cũng chính rừng già nơi đây cũng đã chế ngự nó để sơng
Hương tạo được cho mình một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ - phẩm chất cần thiết của một người
con gái khuôn mực. Nếu khơng có vẻ đẹp dữ dội ở trước đó tạo nên sự lạ lẫm thì đến đây
dịng Hương giang lại trở về với vẻ đẹp muôn thủa. Hai nét tính cách này của sơng Hương

làm cho chúng ta liên tưởng đến sự trưởng thành của một người con gái: Khi cịn trẻ thì cịn
ngang ngược, thậm chí bướng bỉnh với lới sớng phóng khống. Nhưng qua thời gian và sự
trải nghiệm thì người con gái ấy dần trưởng thành để mang cho mình những phẩm chất để có
thể làm một người vợ, người mẹ. Nên trong cảm nhận của HPNT, đến đây dịng Hương giang
đã có thể trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Như vậy, với những hình
ảnh phong phú, nghệ thuật đặc sắc, liên tưởng đa dạng, HPNT đã đưa đến những tính cách
của dịng sơng Hương ở phần thượng nguồn và từ đó ta hiểu sâu thêm phong cách và lới tư
duy có chiều sâu trí tuệ của nhà văn. Đây là bộ mặt và nét tính cách mà sơng Hương ḿn
giấu kín nên ít ai biết đến mà chỉ hiểu sông Hương một con sông trầm mặc và dịu dàng. Bởi
trước khi đi ra khỏi rừng sông Hương đã đóng kín lại và ném chiếc chìa khóa vào trong những
hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
1.2. Sông Hương trước khi đi vào kinh thành Huế - hành trình đi tìm người tình
trong mộng.
Tiếp theo, HPNT đã miêu tả con sông Hương từ cội nguồn trở về ngoại vi thành phớ
Huế. Tác giả đã miêu tả dịng sơng Hương bằng cái nhìn rất đa tình, thể hiện một tâm hồn
nghệ sĩ lãng mạn và bay bổng. Trước khi trở thành người tình thủy chung dịu dàng của mảnh
đất Huế, Hương giang đã trải qua một hành trình đầy gian khổ, thử thách. Với sự cảm nhận
đầy tinh tế của HPNT, tồn bộ hành trình đi từ cội nguồn đến ngoại vi rồi neo đậu ở thành
phố Huế như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình mong đợi của người con gái trong câu
chuyện cổ tích ngày xưa. Đến đây, sơng Hương mang một vẻ đẹp trữ tình, một lần nữa lại
được ví như một "người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa
dại" được người tình đến đánh thức. Người đọc nhớ đến câu chuyện cổ tích Nàng cơng chúa
ngủ trong rừng, đang ngủ say sưa trong lời nguyền của mụ phù thủy và chờ đợi người tình
trong mộng đến đánh thức bằng một nụ hơn định mệnh của tình u. Và người tình ấy với

16


Hương giang khơng ai khác ngồi kinh thành Huế. Rõ ràng, HPNT liên tiếp sử nghệ thuật
nhân hóa, liên tưởng để cho dịng sơng vừa mang vẻ đẹp trữ tình, vừa bừng lên sức sống.

Tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, người đẹp Hương giang đã: “Chuyển dòng một cách
liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, rồi
đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đơng – bắc, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ". Đoạn
văn đẹp này như một câu thơ, nó gợi lên dịng sơng đẹp miên man và duyên dáng. Đọc đoạn
văn này, người yêu văn lại liên tưởng đến Nguyễn Tuân khi miêu tả con sông Đà ở hạ lưu
với những câu văn đẹp: “con sông Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xn”. Vậy vì sao mà con sơng phải chuyển dịng liên tục, có
phải chăng HPNT ḿn nói rằng cuộc tìm kiếm một người tình trong mộng là khơng hề dễ
dàng, có thể đơi bàn chân phải bôn ba trên khắp các nẻo đường như dân gian đã từng viết :
Anh đến tìm hoa
Thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò
Thì đò đã sang sơng
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng
Và sơng Hương trong cuộc hành trình tìm kiếm người u đích thực của mình cũng
vậy. Nó phải Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột – thì mới gặp
được Huế. Dịu dàng và đầy e ấp, nó uốn mình theo những đường cong thật mềm, nhưng lại
bất giác rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ. Phải chăng chính khúc quanh đột ngột này là nàng Hương đã nhìn thấy thấp thống bóng
dáng người tình trong mộng của mình. Và nó khơng chần chừ một giây phút để lỡ và quay
về phương đó. Con sơng Hương chảy qua đơi bờ cỏ cây tươi tớt, góp nhặt sắc núi Ngọc Trản
rồi qua Tam Thai, Lưu Bảo để trở nên mềm mại như một tấm lụa. HPNT đã vẽ một bức tranh
bằng nghệ thuật ngược sáng của điện ảnh. Dòng sơng in bóng những ngọn đồi tạo nên phản
quang nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ta lại hình dung đến vẻ đẹp thật dịu
dàng, e lệ của sông Hương trước khi gặp thành phố Huế. Nàng Hương ấy điệu đà mà chuẩn
bị để đi gặp người tình trong mộng: nàng chuẩn bị cho mình ba sắc áo nàng yêu thích nhất:
xanh, vàng, tím để làm duyên, làm dáng với tình nhân. Dịng sơng thật yểu điệu trong con
mắt của HPNT. Nếu sông Hương đổi sắc màu theo ngày thì sơng Đà của Nguyễn Tn lại
đổi sắc màu theo tháng trong năm. Mùa xuân nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích” chứ

khơng “xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
Hương giang khơng rực rỡ kiêu sa nữa bởi nó đã thấm vào mình một vẻ đẹp của rừng
thơng u tịch. Đó là vẻ đẹp triết lí như cổ thi và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ giấc ngủ ngàn
thu của vua chúa. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sơng Hương. Khi thốt khỏi những vách
núi, những đá vực, Hương giang bừng tỉnh, khi ngân nga tiếng chuông chùa Thiên Mụ rồi xa
cách tiếng gà ở làng đồi núi trung du. Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của Hương giang là sự hắt
bóng kì diệu, vẻ đẹp mơ mộng của phong cảnh miền đất cố đô.
1.3. Sông Hương khi đi vào kinh thành Huế - cuộc gặp gỡ người tình trong mộng.
Điều đầu tiên tác giả muốn cho người đọc thấy nét thay đổi của sơng Hương khi gặp
kinh thành Huế là nó vui tươi hẳn lên. Đó là quy luật tình cảm tất yếu. Có ai từng q nửa
hành trình trong cuộc đời mình đi tìm một người tình trong mộng với bao gian nan, vất vả
giờ đây khi gặp được chủ nhân của lịng mình lại khơng vui hay sao? Chính điểm vui tươi
của một người con gái trong tình yêu là thời gian đẹp nhất. Có lẽ vì thế mà Hương giang thật
sự muốn vấn vương, muốn sống chậm lại để cảm nhận.
Miêu tả vẻ đẹp quyến rũ của Hương giang khi chảy qua lịng thành phớ Huế, HPNT đã
cảm nhận vẻ đẹp của dịng sơng bằng cảm quan của một người nghệ sĩ: một người họa sĩ

17


kiêm một nhạc sĩ. Dưới con mắt của hội họa, Hương giang hiện lên với đường nét mềm mại,
màu sắc hài hịa. Sơng Hương đã tìm thấy tình u của mình khi trở về với thành phớ Huế.
Đến đây sơng Hương như một tiếng "Vâng" khơng nói ra của tình yêu – vẫn dịu dàng, nhẹ
nhàng và e thẹn, sông Hương mang chút ngập ngừng của một người con gái khi nhận lời yêu
thương từ người yêu của mình. Tiếng vâng này cho ta nhớ đến cái lắc đầu như chấp thuận
của người con gái đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau
Khi gặp người yêu, gặp chủ nhân của lịng mình thì có ai ḿn nỡ rời xa, bởi khi ấy
mỗi giây phút đều đong đầy yêu thương nên ai cũng muốn thời gian như ngừng lại để níu giữ
lấy tình u. Thế mới hiểu vì sao HPNT lại ví sơng Hương như một điệu « Slow » tình cảm
giành riêng cho Huế.
Nhệ thuật nhân hóa khiến cho sơng Hương trở nên gần gũi như con người và mảnh đất
cố đô nơi này. Hai chữ "yên tâm" trong đoạn văn chính là cảm giác của Hương giang khi tìm
được tình u đích thực của mình. Sau cảm giác bình n giữa lịng thành phớ Huế, Hương
giang lại hiện ra với những đường cong mềm mại, thướt tha, dun dáng, quen thuộc như vớn
có. Nó đang uốn lượn trước mắt, đang làm duyên làm dáng với người tình chung của.
So sánh giữa sơng Hương và sơng Xen ở Paris, sơng Nêva ở Leningrad càng làm cho
dịng sơng Hương trở nên cổ kính và q giá hơn. Điểm giống nhau giữa ba con sông này là
đều nằm trong lịng thành phớ thân u của nó. Nhưng khác với những dịng sơng trên sơng
Hương khi đi trong lịng thành phớ thân u nó trơi đi thực chậm, chứ khơng chảy nhanh như
đồn tàu tớc hành của dịng Nê – va để khi chảy đi rồi mà vẫn chưa kịp nói gì với thành phớ
thân u của nó. Sơng Hương khi vào đến kinh thành Huế, nếu giải thích về mặt địa lí thì do
các chi lưu nhỏ dẫn nước của con sông đi khắp các biền bãi và với hai hịn đảo nhỏ trên sơng
làm cho lưu tớc của dịng nước chậm hẳn lại. Sơng Hương trơi đi thực chậm, thực chậm, cơ
hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Nhưng nếu nhìn đồng nhất trong sự so sánh của tác giả sông Hương như một cô gái trong hành trình đi tìm người tình trong mộng, thì đến đây sơng
Hương đã bắt gặp người tình nhân của mình.
Hơn thế, HPNT cịn thổi vào dịng Hương giang vẻ đẹp VH. Đó là vẻ đẹp của cớ đơ, vẻ
đẹp của Việt Nam. Tác giả hướng tới cái nhìn xưa cũ của "những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa
vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít", của những ánh lửa thuyền chài lập lịe. Khơng chỉ
gợi nên bằng đường nét, sơng Hương cịn được gợi nên với màu sắc.
Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, HPNT đã gợi nên dịng sơng Hương với đầy
đường nét quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong
trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền
trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Những ánh hoa đăng bồng bềnh trôi trên sông bỗng
ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một
nỗi lịng. Phải là người u q hương, u dịng sơng Hương, yêu mảnh đất Huế đến nhường

nào thì HPNT mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy. Qua cảm quan của
người nhạc sĩ, HPNT đã cảm nhận sông Hương qua liên tưởng độc đáo và thú vị. Sơng Hương
như một điệu nhạc tình cảm dành riêng cho Huế. Dịng sơng chảy chậm như điệu chảy lững
lờ vì nó q u thành phớ Huế. Đó là tình cảm của sông Hương dành cho thành phố Huế và
cũng là tình cảm của tác giả dành cho dịng sơng Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt
sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mới quan hệ biện chứng giữa dịng sơng Hương mềm mại với
con người xứ Huế. Sơng Hương dịu dàng, dun dáng như đã góp phần hình thành nên tính
cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
1.4. Sông Hương chia tay kinh thành Huế - cuộc chia tay người tình trong mộng.

18


Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương chếch về phía chính bắc, ơm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng trong sương khói. Như một giấc mộng tình u để Hương giang
đứng trước cuộc chia tay rồi mà còn chưa tỉnh mộng. Trước khi xa dần thành phớ, dịng sông
đã lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ
Dạ với màu nắng tinh khiết tinh khôi mà đã từng bước vào thơ Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thơn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Dù vấn vương, dù lưu luyến không muốn rời xa nhưng đâu ai “tắm được hai lần
trên một dịng sơng” – Hương giang phải chia tay thành phố thân yêu, người tình trong mộng
của mình. Nhưng đi rồi, sơng Hương mới chợt nhận ra cịn một điều chưa nói với người tình
chung nên nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đông-tây để gặp lại thành phố lần cuối
ở góc thị trấn Bao Vinh cổ xưa. Về địa lí đây là một nơi khá cao của kinh thành Huế, nơi có
thể dõi mắt nhìn xa hàng dặm trường đình khi chia tay. Hình ảnh và khơng khí mang đậm
chất Đường thi, “đăng cao viễn vọng” trong mỗi cuộc chia ly. Cái đổi dịng này về mặt địa lý
mà nói thì thực bất ngờ bởi sơng Hương đã chảy x́ng vùng đồng bằng phù sa êm ái thì

khơng ai nghĩ nó cịn đi ngược lên vùng cao này, bởi nước chảy xi dịng. Nhưng nhìn theo
cái lí của tình u thì nó thật dễ hiểu và dễ chấp nhận. Vì thế HPNT mới nói dịng Hương có
cái rất lạ, rất con người ở đây, hay nói đúng hơn đó là cái “lẳng lơ, kín đáo” của tình u. Mà
nhà văn liên tưởng ngay đến nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng ở
ngã rẽ này để nói một lời thề trước khi về biển cả: “còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn
nhớ…”. Và lời thề ấy của dòng Hương chung thủy để đến nay nó vẫn cịn vang vọng khắp
lưu vực sơng thành điệu hị dân gian dìu dặt: Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. Hay đó
cũng là tấm lịng chung tình của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương
xứ sở, của HPNT với xứ Huế u thương.
2 . Dịng sơng của văn hóa.
Sơng Hương được nhà văn cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Từ đó, nhà văn đã mở
ra cho tác phẩm này chiều sâu của lịch sử, của văn hóa. Sơng Hương – dịng sơng của lịch sử
văn học thi ca – có mặt từ thuở đầu lập nước. Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng
Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi
viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ
thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dịng sơng Hương như Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sơng thi ca về sơng Hương
và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sơng ấy khơng bao
giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Qt đã từng nhìn sơng Hương
mà thớt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sơng trắng,
lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền
ai đậu bến sơng trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dịng nước lững lờ
của sông Hương mà bâng khuâng “Con sông dùng dằng con sông không chảy / Sông chảy
vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí
quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn Hèn chi thơm
thảo nỗi buồn Niềm riêng nhuộm tím hồng hơn đến giờCon sơng nửa thực nửa mơ Nửa
mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Ngun”
Đất nước Việt Nam có rất nhiều dịng sơng chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy
vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hồng Cầm khi nghe

tin sơng Đ́ng bị qn thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thớt lên: “Sơng Đuống trơi đi/Một dịng
lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Cơng chúng yêu văn cũng đã

19


chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang
hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sơng
Hương - dịng sơng chỉ tự thu mình khiêm tớn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua
những trang kí tài hoa của HPNT sơng Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp
phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
Hơn thế, sơng Hương cịn là dịng sơng lịch sử, văn hố, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là
một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên
cho dịng sơng?” của HPNT đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về
một dịng sơng ngỡ là q quen, hố ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như
vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú
Việt Nam.
3 . Dịng sơng của lịch sử.
Nó đã tham gia vào chứng kiến biết bao nhiêu biến cố quan trọng của lịch sử dân tộc.
Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trị của một dịng sơng biên thùy xa xôi
của đất nước, của các vua Hùng khi cịn mang tên Linh Giang trong "Dư địa chí" của Nguyễn
Trãi. Sau đó, nó cịn đảm nhận là dịng sơng Viễn Châu – dịng sơng ở chớn xa xơi của Tổ
quốc đã chảy vào trận chiến oanh liệt để bảo vệ đất nước Đại Việt thân yêu. Nó cũng đã từng
soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ ở thế kỉ 18. Sông Hương đã
từng sống hết bi tráng của thế kỉ 19 với những cuộc khởi nghĩa, trong hai cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại của thế kỉ 20. Sơng Hương lại có thêm sức mạnh để làm nên chiến thắng. Cùng
với Huế, sông Hương đã trở thành một nét son trong lịch sử dân tộc. Đặt sông Hương trong
chiều dài của lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng cho đến ngày hơm nay, HPNT đã
thể hiện tình u, niềm trân trọng, niềm tự hào sâu sắc đối với sông Hương. Tác giả đã gọi
đó là dịng sơng của thời gian, ngân vang của lịch sử. Khi viết về màu xanh biêng biếc, cách

miêu tả tinh tế cùng cách so sánh liên tưởng ấy đã làm hiện ra các sắc thái khác nhau cùng
tồn tại trong một dịng sơng bởi sử thi hay anh hùng ca là một thể loại gắn liền với những
chiến cơng cịn màu lá xanh biêng biếc là màu sắc của tính chất trữ tình, của sự sớng bình
n, của tình u.
Có thể nói rằng HPNT là một nhà văn hố Huế, ơng khơng chỉ nhìn sơng Hương trơi
ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những
cánh đồng Châu Hồ, cho cuộc sớng người dân xứ Huế; mà ơng cịn nhìn sơng Hương như
là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều
đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dịng sơng viễn châu đã chiến
đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ q́c nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng
kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi śt qua hai cuộc kháng chiến
chớng Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến cơng lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời
đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành
phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
KB.
Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dịng sơng nhưng chỉ có một dịng sơng để
thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi
mang theo”. Vâng, “một dịng sơng để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. HPNT
đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”.
Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngơi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì
u quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sơng Hương đã nấu nước của trăm lồi hoa
đổ x́ng dịng sơng cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Cũng như tình u của
sơng Hương với Huế, tình u của Hồng Phủ Ngọc Tường với sơng Hương cũng là q trình
dâng tặng, khám phá và hồn thiện chính mình.

20


VỢ CHỒNG A PHỦ
Tơ Hồi

MB.
Có những mảnh đất chỉ một lần đặt chân đến trong đời nhưng để thương, để nhớ. Những
kí ức, kỉ niệm như một vùng sáng đã hằn in trong tâm khảm để mỗi khi nhớ lại lịng chợt
dâng trào bao xúc cảm. Và có lẽ nhà văn Tơ Hồi cũng có ấn tượng như vậy về mảnh đất Tây
Bắc. Và hơn một cánh thư, là cả một tấm lòng gửi về Tây Bắc “Vợ chồng A Phủ” đã trả lại
cho Tơ Hồi niềm thương nỗi nhớ đầy vơi với cảnh và người nơi đây.
TB.
* Hoàn cảnh sáng tác.
Tơ Hồi là nhà văn ln cớ gắng đi tìm sự thật trong đời sớng để phản ánh vào tác
phẩm. Nhà văn quan niệm phải nói lên sự thật dù có đập vỡ thần tượng trong lịng bạn đọc.
Chính vì thế các trang văn của ơng thấm đẫm chất hiện thực nhưng bằng vốn ngôn ngữ phong
phú và lối diễn đạt tinh tế, hóm hỉnh mà độc giả yêu mến các trang văn của Tơ Hồi.
Năm 1952 Tơ Hồi đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này
nhà văn đã có dịp sớng găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu sớ ( Thái, Mường, Mông, Dao
...) nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi. Tất cả những yếu
tố trên và với một tài năng tuyệt vời đã thơi thúc Tơ Hồi viết tập "Truyện Tây Bắc" gồm ba
truyện: Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
"Vợ chồng A Phủ” được giải nhất Truyện và kí Việt Nam năm 1954-1955. Tác phẩm
gồm hai phần, đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.
CÁC ĐỀ PHÂN TÍCH THƯỜNG GẶP
1. Phân tích nhân vật Mị.
* Khái quát về nhân vật Mị:
Có thể nói cuộc đời của Mị trong câu chuyện cũng là cuộc đời và số phận tiêu biểu cho
người phụ nữ vùng cao Tây Bắc suốt những năm kháng chiến chống Pháp. Tô Hồi ḿn
làm sáng tỏ quy luật tất yếu của con đường nhân dân đến với cách mạng để giải phóng chính
mình. Cuộc đời Mị vừa là bi kịch của sớ phận nhưng cũng là tất yếu của cách mạng. Điều đó
đã làm nên thành cơng cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi cũng như hình tượng
nhân vật Mị.

21



Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, mà mỗi chặng là một bước tiến quan trọng
đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do hơn, cho dù có lúc Tơ Hồi phải để nhân vật
của mình đi qua bóng tới khổ đau.
* Cách giới thiệu nhân vật của nhà văn.
Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy và cách giới thiệu có vấn đề, nhà văn đã gây ấn tượng
mạnh mẽ cho độc giả. Không đơn thuần là sự miêu tả hồn cảnh và tính cách nhân vật như ta
thường gặp mà có một điều gì như đặc biệt, như đổi mới ở đây. Khung cảnh đầu truyện cũng
chính là khung nền mà Mị xuất hiện. Ai ở xa về có việc vào nhà thớng lí Pá Tra cũng trông
thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Không phải ngẫu nhiên
mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cơ cũng là một con người đang
chết ngay khi cịn sớng: khơng cảm nhận, khơng buồn vui. Những chi tiết đắt giá làm nổi
hình sắc nhân vật. Con người LẪN VÀO với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa. Lúc nào
cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cô cũng buồn rười
rượi. Mâu thuẫn nảy sinh để ai cũng phải băn khoăn một câu hỏi: vì sao con gái một nhà giàu
như nhà thớng lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy
người đọc ḿn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật, và nhà văn cũng có cái cớ
để kể lại cuộc đời, sớ phận của nhân vật Mị. Đây là một cách mở truyện khá thành cơng, hấp
dẫn của Tơ Hồi.
Kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ khơng dựng
theo trình tự thời gian. Cũng như Nam Cao lựa chọn giới thiệu nhân vật Chí Phèo khi nhân
vật đã bị tha hóa, lưu manh hóa thì Mị cũng đến với bạn đọc khi cơ về làm dâu nhà thớng lí,
khi sức sớng của cơ đã bị vùi dập. Vậy là giá trị tố cáo thông qua hình tượng nhân vật đã xuất
hiện ngay trang văn đầu tiên của truyện. Từ đó tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xun
śt cuộc đời nhân vật để làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dịng
thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng
trầm trong cuộc đời nhân vật.
a, Trước khi về làm dâu
Mị được coi là một cô gái với nhiều đức tính tớt. Là một người con của núi rừng Tây

bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và u tự do, cơ có tình u đẹp và niềm tin vào
cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha
mẹ .
Có lẽ u Tây Bắc bao nhiêu thì Tơ Hồi gửi gắm tình u vào Mị bấy nhiêu, ơng đã
mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con
gái. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng
Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống
trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu
và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người u, một tình u đẹp với ngón tay đeo
nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hị.
Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì bản chất của một người lao động không mất đi trong con
người Mị - một cô gái của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô
trả nợ cho bố mẹ:“bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”. Mị
hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, khơng ngại ngần mà làm nương trả nợ. Nhưng
cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là
hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị.
Xuất hiện với vẻ đẹp tồn diện của một cơ gái khơng chỉ có ngoại hình xinh đẹp như
bơng hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị cịn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài
thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ tồn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị
khơng theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà
Thớng lý Pá Tra ép sớng kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người
phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xơi ấy.

22


b, Mới về làm dâu.
Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai,
nhưng bàn tay vơ hình của sớ phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu - Mị như chết đứng
với số phận từ đây. Tô Hoài phải thật sự am hiểu về phong tục tập quán của người dân miền

núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là đêm ći cùng Mị cịn tự
do với tình u trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là đêm bắt đầu cho những chuỗi
ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà thớng lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự
nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị
vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào
bàn tay có đeo nhẫn ở đúng ngón tay mà người u Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu
để cho Mị nhấc tấm vách gỗ bước ra với người yêu. Một hành động tưởng như viết ra thật
đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình u của cơ Kiều trong trang thơ
của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang
hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tơ Hồi khơng chỉ là để
cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi
họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một
dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những
hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật khơng
may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực
thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu.
* Sự phản kháng của Mị khi mới về làm dâu.
1. Về nhà thống lý Pá Tra, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau “có đến mấy tháng liền đêm
nào Mị cũng khóc”. Giọt nước mắt của nhân vật Mị chính là sự phản kháng đối với thực tại.
Sự phản kháng ở cấp độ thấp nhưng cũng đủ để thấy Mị không thỏa hiệp, đầu hàng chấp
nhận số phận. Bởi trong người con gái ấy khao khát tự do chưa thể lụi tàn.
2. Những tháng ngày sống trong nhà Pá Tra, Mị không thể thỏa hiệp với nó. Mị sẵn
sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sớng và tháng ngày sau này
mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống không đáng sống. Đây là cấp độ phản kháng
cao hơn để khẳng định khao khát sớng đang bùng cháy trong cơ. Bởi khi cịn ḿn chết tức
là con người ta cịn ý thức được về một cuộc sớng khơng đáng sớng của mình, và cịn khao
khát được sớng. Một điều tưởng chừng như phi lí nhưng lại nằm trong quy luật tâm lí tự nhiên
của con người. Mị quyết định vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về qùy lạy
bớ để chết. Có lẽ để có đủ dũng cảm cầm nắm lá ngón trên tay Mị đã phải băn khoăn, trăn trở
rất nhiều. Ai chẳng hiểu sự sống là đáng quý bởi cuộc đời ai sinh ra cũng chỉ được sớng một

lần, nên khao khát sớng chính đáng là điều ai cũng mong muốn. Mị đã dám từ bỏ cuộc đời
khi đang xuân thì phải chăng cuộc đời Mị khơng cịn ý nghĩa. Hành động này của Mị là một
lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến miền núi, đã đè nén, áp bức đẩy con
người ta đến bước đường cùng. Trong Mị thấp thống sớ phận của những chị Dậu, những
anh Pha, những Chí Phèo – người nông trước cách mạng tháng Tám.
Tưởng dứt hết nợ duyên với đời để tìm đến cái chết nhưng vì một chữ hiếu mà Mị
khơng đành lịng nhìn bớ mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cơ ném nắm lá ngón
x́ng đất như ném đi khát vọng ći cùng của cuộc đời mình. Vậy ra, trong cơ gái trẻ kia,
mạng sớng, tình u, và tự do không phải là thứ cô đặt lên hàng đầu. Bên tình và bên hiếu
trong giờ phút quyết định khiến cơ phải lựa chọn và tất nhiên cô cũng như bao người con gái
khác sẵn sàng:
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Mị đã coi việc làm dâu trong nhà thống lý Pá Tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho
cha mẹ năm xưa, làm trịn chữ hiếu. Đây chính là phẩm chất đáng q, đáng ngợi ca của nhân
vật mà Tơ Hồi đã tìm thấy nơi đáy sâu cùng cực của sớ phận.

23


c, Khi làm dâu đã quen.
* Sự tê liệt trong tâm hồn Mị.
Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm
sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì "Mị quen cái khổ rồi.
Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi
làm mà thôi". Cách so sánh bằng đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để
nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri, vơ giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một
cơng cụ lao động của nhà thớng lí, khơng có chút quyền tự do nào. Mị chỉ cịn ý niệm về công
việc nối tiếp công việc, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái
thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp…Còn nỗi đau nào của một

kiếp người mà phải mang thân trâu ngựa: « con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn
được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày ».
Sự so sánh đòn bẩy cho thấy Mị còn không bằng cả kiếp trâu ngựa. Người đọc không chỉ
ngậm ngùi, xót thương cho thân phận tủi cực của Mị mà cả những người phụ nữ miền núi
trong xã hội xưa.
Thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần - thần quyền đã hỗ trợ
đắc lực cho giai cấp thớng trị. Nó thực sự là thứ "th́c phiện tinh thần ». Bởi nó tạo thành
một lới mịn trong suy nghĩ của Mị : đã bị bắt về nhà Pá Tra, đã cúng trình ma nhà nó rồi thì
cả đời sớng ở nhà này, và chết cũng là ma nhà này mà thôi. Mị đã khơng cịn phản kháng để
tìm lới thốt cho mình. Điều này xét về một góc độ nào đó, nếu nhìn về mặt đấu tranh giai
cấp, thì nó cịn nguy hại hơn là sự áp bức về thể xác.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngịi bút Tơ Hồi cịn nêu lên một sự thực đau
lịng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê
liệt cả tinh thần phản kháng. "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó
cửa" thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu,
con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa ni trong xó cửa, chỉ biết
ngồi trong cái buồng kín mít, trơng ra cửa sổ vng mờ mờ trăng trắng, "đến bao giờ chết thì
thơi". Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy
sau đó những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ nói chung và người phụ nữ
Mơng nói riêng là nơi chia sẻ mọi buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian
theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi cịn trẻ đó là căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với
bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là
căn buồng đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười ngày, khi ni con bế
bồng với bao tin yêu, hi vọng...Tưởng như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp
nhưng với Mị thì khơng. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vng cửa sổ chỉ nhỏ
bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngồi lúc nào cũng thấy « mờ mờ, trắng trắng
khơng biết là sương hay là nắng ». Người đọc có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một ngục
thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sớng. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức
sống trong người con gái đầy xuân xanh.
Khi một "nạn nhân" đau khổ, còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thốt, thì phải chăng,

trong họ vẫn cịn khao khát sớng. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cơ đã
dường như phó mặc thân phận cho định mệnh, khơng cịn ý thức về thời gian. Với Mị, sự
chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng khơng cịn ý nghĩa, khơng gợi cho
cơ cảm xúc gì, cuộc sớng chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương
lai. Một con người sớng mà chỉ như tồn tại, khơng có một ý niệm nào về cuộc sớng. Có lẽ
đây là bản án đanh thép mà nhà văn đã gửi đến cho xã hội thực dân nửa phong kiến đương
thời - bóp nghẹt sức sống của con người.
* Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc,
khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực

24


tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sớng
âm thầm mà mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le
lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân về. Sức sớng ấy như hịn than nhỏ đang bị vùi
lấp trong cái vẻ ngồi lặng câm vơ cảm. Vơ tình cơn gió mùa xuân đã làm hồi sinh con người
Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sớng, lịng ham sớng đến cuồng nhiệt
nhưng cũng đầy bi kịch.
- Những nhân tố tác động làm bùng lên sức sống của nhân vật.
1. Thiên nhiên đầy đột biến ở Hồng mùa Ngài xuân ấy như một dự báo.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Một năm với tiết xuân mới: các
nương ngô, nương lúa đã thu hoạch xong. Trẻ con đi chăn trâu tinh nghịch đốt những mái lều
canh nương để lửa khói sáng trắng trên nương. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng
của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá
xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Cái rét đến sớm và dữ dội, công việc cũng đã xong và
năm ấy Hồng Ngài ăn tết sớm. Sự đột biến của thiên nhiên của mùa xuân năm ấy liệu có báo
hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị, con người vẫn đang trong tuổi xuân và đầy sức xuân trong
mình ?

2. Rượu.
Đêm tình mùa xuân, mọi người ́ng rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng
khơng phải để tìm vui mà là để giải sầu "Mị uống ực từng bát rồi say". Cách ́ng rượu của
Mị như ńt căm, ńt hận vào lịng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng
có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần
đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không cịn lặng câm nữa. Mị đã hồi sinh! Rượu chính là chất
men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị
khơng thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí
và hành động của Mị trong đêm tình mùa xn. Có lẽ chúng ta khơng thể cảm nhận và phân
tích những nét tâm lí ấy bằng lí trí của một người tỉnh táo mà phải là sự chuyếnh choáng trong
hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiến sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật
Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để
đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế của nhân vật, «khơng phải người viết mà là
thần viết».
3. Tiếng sáo.
Mùa xuân năm ấy với Mị không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu". Chính thanh
âm quen thuộc ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc
biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người
đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác
động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vơ hình nới
mị với q khứ và hiện tại làm sớng dậy trong Mị một kí ức đẹp tươi. Nói đúng hơn nó đánh
thức cái tài hoa trong Mị ngày nào. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với hiện tại buồn mênh mang. Tác
giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi cịn xa Mị cảm thấy « lấp ló» ngồi đầu núi. Nhưng rồi
nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn để rồi nghe thấy «thiết tha bổi hổi» Mị nghe rõ và nhẩm
được cả lời của bài hát. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người u

Ngay sau đó là một câu văn ngắn gọn, chắc nịch : «Những đêm tình mùa xuân đã tới».
Mùa xuân mới, sự bùng trỗi dậy của sức sống, của những khao khát và đổi thay của đất trời,
vạn vật. Phải chăng với Mị điều đó cũng đang đến gần.
* Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xn.

25


×