CÂU HỎI TỰ LUẬN ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Phân tích văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát triển bền vững của xã hội,
thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người.
Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của
văn hóa và thường xun quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển
bền vững của đất nước.
Đảng ta xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH
theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Nền VH ấy không chỉ tiên tiến về mặt ND
mà còn về HT và phương tiện truyền tải. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt
đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lịng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm … Nền VH VN luôn chú trọng việc kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh
vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người; Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và
hoạt động văn hóa, vun đắp các tài năng, biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái
chân, thiện, mỹ theo quan điểm tiến bộ; đấu tranh phê phán những cái phản văn hóa, lỗi thời, trái
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên CNXH;
(Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống
văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt
Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt
Nam, ni dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời
sống văn hóa ở nơng thơn, vùng khó khăn, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các
vùng, các nhóm xã hội, giữa đơ thị và nơng thơn…)
Khuyến khích tìm tịi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới,
đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục yếu kém, nâng cao
tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ
thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật… Người dân VN đến hôm
nay vẫn đang bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, truyền thống tốt đẹp trong kho tàng di
sản văn hóa dân tộc, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa,, dần loại bỏ những sự lỗi thời,
lạc hậu.
2. Kinh nghiệm của Đảng trong đường lối kháng chiến
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc KC
ngay từ những ngày đầu.
(Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước,
chứng tỏ GCVS Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cách mạng Việt Nam đi theo con đường mới - con đường CMVS. Đảng chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.) (Đường lối
KC được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng: bắt đầu từ bản Chỉ thị về KC
kiến quốc (ngày 25-11-1945), Công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân KC
ngày 12-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc KC của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946),
những quan điểm cơ bản của đường lối KC đã hình thành. )
Đường lối KC chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu cuộc KC là khơng
ngừng được bổ sung hồn chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến. Về cơ bản, đường lối
chung của cuộc KC tập trung một số nội dung:
Về mục đích kháng chiến: Cuộc KC chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự kế thừa và
phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành
thống nhất, độc lập hồn tồn.
Tính chất của cuộc kháng chiến: khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân,
chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất tồn dân, tồn diện, lâu dài. Do vậy, đó là cuộc chiến
tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hịa hình có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ
mới. Đảng chủ trương liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết với
Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do. hồ bình.
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở xác định rõ
đối tượng của CMVN là CNĐQ và thế lực PK. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II của Đảng (tháng 2-1951) đã chỉ rõ kẻ thù cụ thể trước mắt của CMVN là đế quốc Pháp, kẻ
thù nguy hiểm là đế quốc Mỹ, kẻ thù phụ là các thế lực phong kiến. Lúc này là phong kiến phản
động, từ đó đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam:
● Đánh đuổi bọn ĐQ xâm lược làm cho VN hoàn toàn thống nhất và độc lập.
Xố bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân.
Tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông.
Lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng minh "lớn mạnh và
chắc chắn" của giai cấp công nhân.
Phương châm KC: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện "KC toàn dân,
toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".
Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ bản nhất là chiến lược
toàn dân kháng chiến. Đảng tổ chức cả nước thành một mặt trận, tạo nên thế trận cả nước
đánh giặc, phát huy sức mạnh của toàn dân và khối đoàn kết toàn dân tộc tham gia KC với
những biện pháp đa dạng phong phú, phù hợp như tuyên truyền giáo dục, động viên chính trị
sâu rộng từ đó xác định trách nhiệm đứng lên cứu nước nhà. Chú trọng xây dựng lực lượng vũ
trang với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Từ chiến tranh
du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp du kích chiến với vận động chiến.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, Đảng chủ trương KC toàn diện, tức là
tiến hành tiến công địch trên tất cả các mặt chính trị, qn sự, kinh tế, văn hố, ngoại giao tạo
thành sức mạnh tổng hợp.
+ Về chính trị, phải đồn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, làm cho mặt trận dân tộc thống
nhất ngày càng vững chắc và rộng rãi. Phải củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, xây dựng bộ máy
KC vững mạnh, thống nhất quân, dân, chính trong tồn quốc, phát triển các đồn thể cứu quốc,
củng cố bộ máy lãnh đạo KC toàn dân. Phải cô lập kẻ thù, kéo thêm nhiều bạn, làm cho nhân
dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động
Pháp. Coi trọng xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước và Mặt trận dân tộc thống
nhất vững mạnh. Thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành mặt trận Liên Việt (1951).
+ Về quân sự, triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến công địch ở khắp nơi, vừa đánh
địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự. Xây dựng căn cứ địa KC và
hậu phương vững mạnh. Chủ động làm thất bại các kế hoạch chiến tranh lớn của dịch, phối hợp
chặt chẽ các chiến trường với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất.
+ Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế KC theo nguyên tắc vừa KC vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia
sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt; ra sức phá kinh tế địch không cho chúng thực hiện mưu đồ
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Kinh tế KC về hình thức là kinh tế chiến tranh, về nội dung là
dân chủ mới, chú trọng phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.
Phát triển các thành phần kinh tế, từng bước thực hiện chính sách ruộng đất đối với nơng dân
(giảm tơ và cải cách ruộng đất). Phát triển kinh tế quốc doanh, gây mầm cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hố nơ dịch ngu dân, xâm lược của thực
dân Pháp và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên ba ngun tắc: dân tộc hóa, khoa học
hố, đại chúng hóa. Phát triển giáo dục, đào tạo các bậc phổ thông trung học chuyên nghiệp và
đại học. Tiến hành cải cách giáo dục. Phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn nghệ là một mặt
trận và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này
+ Về đấu tranh ngoại giao, triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân
dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc KC chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt trận các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên
Xô, Trung Quốc. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Việt Nam là bạn của các nước dân
chủ trên thế giới, khơng gây thù ốn với một ai.
KC lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu nên Đảng chủ trương
đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt
địch để so sánh lực lượng sẽ dần có lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh
thắng thù. Song, Đảng khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chủ động phát triển thế và
lực, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào đường lối đúng đắn của
Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
Đường lối KC của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền thống
của dân tộc, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh
nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt Nam. Với đường lối KC đúng đắn của Đảng, buộc kháng
cn chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ngày càng phát triển và giành thắng lợi vẻ vang.
Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày càng vững mạnh,
mặt trận Việt Minh, Liên Việt và các đoàn thể cách mạng đã tập hợp rộng rãi khối đại đoàn kết
dân tộc. Kinh tế phát triển nhất là nông nghiệp, xây dựng, văn hóa, giáo dục có nhiều thành
cơng. Ngoại giao từng bước phá thế bị bao vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng
chí, bè bạn trên thế giới. Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, quân đội và nhân dân Việt Nam đã lần
lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh lớn của thực dân Pháp: đánh bại kế hoạch chiến tranh
chớp nhoáng của địch với chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947); làm thất bại kế hoạch Rơve với
chiến thắng Biên giới (1950); đánh bại kế hoạch Đ.Tátxinhi với chiến thắng Hịa Bình (1951),
Tây Bắc(1952) và làm phá sản kế hoạch Nava với chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ (ngày 7-51954), buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, rút quân Pháp về
nước. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân vi mục tiêu giành độc lập, thắng lợi hoàn toàn.
3. CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế
● Quá trình CNH-HĐH là do con người tổ chức, thực hiện do đó phải có sự hiện diện của
con người .Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo,con người bằng trí tuệ đã tạo
ra các công cụ sản xuất ngày càng hiện đại. Con người là chủ thể của mọi hành động,vừa
là động lực vừa là mục tiêu của quá trình CNH-HĐH, Con người sáng tạo ra của cải vật
chất,tinh thần cho xã hội,có khả năng vận dụng thành tựu KHKT vào hoạt động kinh tế
thúc đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh chóng.
● Xuất phát từ thực trạng CNH-HĐH đất nước địi hỏi phải có nguồn nhân lực. Đối với
VN,nguồn lực tài chính vẫn cịn hạn chế nên nguồn lực con người đóng vai trị quyết định
tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nguồn nhân lực nếu được đào tạo và có
chất lượng cao là điều kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh và bền vững.Là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thành cơng nhiệm
vụ đó, ta phải đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp.
CNH-HĐH đất nước là q trình đầy thách thức, địi hỏi nhiều nỗ lực. Cho nên muốn thực hiện
thành công cần có sự hợp lực của tồn dân. Nguyễn Trãi) cũng đã từng nói " Đẩy thuyền là dân
mà lật thuyền cũng là dân" .
Một trong những quan điểm lớn được Đảng ta nhấn mạnh là: " CNH-HĐH là sự nghiệp của
tồn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo" . Quan điểm này
xuất phát từ nguyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. CNH-HĐH là sự nghiệp
cách mạng trọng đại của nhân dân ta, đất nước ta, nhằm mục đích “dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng văn minh”. Vì vậy, nó khơng phải là cơng việc riêng của một bộ phận, 1 giai cấp
mà là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện.
CNH-HĐH đòi hỏi phải huy động cao độ sức mạnh của toàn dân về mọi mặt : sức lao động, tiền
vốn, trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm, kỹ thuật.. Cũng như những sự nghiệp CM khác, nhân dân là
người quyết định sự thành công của quá trình CNH-HĐH đất nước.
CNH-HĐH đất nước được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tổ sản xuất, các
tiềm năng và nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần vào sự
nghiệp CNH-HĐH. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế có lợi thế so
sánh riêng về kỹ thuật, vôn, lực lượng lao động, kinh nghiệm quản lý.. trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước “làm đòn bẩy đầy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền
tảng cho chế độ xã hội mới”. Kinh tế Nhà nước nắm giữ các ngành, các lĩnh vực, các khâu quan
trọng nhất của nền kinh tế được trang bị bằng kỹ thuật và công nghệ hiện đại đủ sức chủ đạo và
định hướng phát triển các thành phần kinh tế khác.
Con người là yếu tố quyết định để tạo ra cơng nghệ hiện đại và sử dụng chóng để tạo ra của cải
cho xã hội, là yếu tố quyết định để thực hiện chuyển giao cơng nghệ trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là một nước nghèo, lại trải qua chiến tranh lâu dài, muốn công nghiệp hố thắng lợi thì phải có
vốn. Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng và nhân dân ta rằng không thể chỉ trông chờ vào sự giúp
đỡ của các nước, mà phải dựa vào dân: "Muốn xây dựng phải có tiền. Tiền ở đây ra? Tiền ở nhân
dân tức là ở nông dân và công thương" và "tiền của nhân dân trở lại làm lợi cho nhân dân".
Vì vậy, để phát huy sức mạnh của nhân dân vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh các biện pháp nhằm "bồi dưỡng sức dân":
Một là, phát triển giáo dục để nâng cao dân trí. Theo Hồ Chí Minh, trình độ dân trí là thước đo
sức mạnh của một dân tộc, Người từng nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì vậy, để bảo
vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, thực hiện cơng nghiệp hố nói riêng phải
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ vǎn hố cho nhân dân: "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải tǎng gia sản xuất. Muốn tǎng gia sản xuất tốt thì phải có kỹ thuật cải tiến.
Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có vǎn hố. Vì vậy cơng việc bổ túc vǎn hoá là cực kỳ cần
thiết" 14.
Hai là, phát triển y tế; thể dục thể thao để nâng cao sức khoẻ cho nhân dân, Người nói: "Mỗi một
người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh
khoẻ... Dân cường thì quốc thịnh" 15.
Ba là, kết hợp cơng tác giáo dục với cải tiến công tác quản lý: "Hiện nay phải phát động công
nhân, viên chức cải tiến chế độ quản lý xí nghiệp. Phát động cơng nhân, viên chức lần này là để
giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị cho cơng nhân, giáo dục cán bộ, đồng thời cán bộ và công
nhân giáo dục lẫn nhau; trong giáo dục có đấu tranh, tức là phê bình và tự phê bình để tiến bộ,
để đồn kết chặt chẽ hơn, để quản lý tốt để, sản xuất tốt" 16.
Bốn là, tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo quần chúng,
thì cách mạng mới thành cơng" 17.
4. Vì sao cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Hồn cảnh + phẩm chất:
Đa số GCCN xuất phát từ GCND, nên họ có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với GCND- vốn có
truyền thống u nước, bất khuất. Chính vì vậy, giai cấp công nhân VN sớm liên minh với ND,
tạo thành khối liên minh cơng-nơng và khối đại đồn kết toàn dân tộc,đảm bảo cho sự lãnh đạo
của giai cấp cơng nhân trong suốt q trình cách mạng.
Là LLSX tiên tiến nhất của XH, có hệ tư tưởng riêng, có ĐK LĐ, SH tập trung, có YT tổ chức,
tính kỷ luật cao. Vì có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (họ ln
muốn xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức, bóc lột, giành chính quyền và làm chủ XH cịn
GCTS khơng bao giờ tự rời bỏ những lợi ích basic đó) nên tinh thần CM triệt để, kiên quyết.
Giai cấp công nhân việt nam ra đời khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga thành công,
mở ra 1 chế độ xã hội mới lịch sử trong lịch sử nhân loại,đó là chế độ xã hội chủ nghĩa và cùng
lúc đó nguyễn ái quốc đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc là con đường cách mạng
vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Họ có ĐK tiếp thu CN Mác Lenin và trào lưu
CM TG đb là CM tháng 10 Nga
GCCN đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với thành tựu KHCN hiện đại, họ là
những NLĐ trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ SX có tính chất cơng nghiệp ngày càng
hiện đại và XH hóa cao với trình độ trí tuệ ngày càng cao.
5. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố nào
Cơ cấu kinh tế:
Cũng giống như một cơ thể sống, nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi giữa các
mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành của nó phù hợp với nhau cả về số lượng và chất lượng
cũng có nghĩa là phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại để phát huy mọi tiềm năng, nội lực,
lợi thế so sánh của toàn bộ nền kinh tế, là yếu tố tạo tiền đề, cơ sở cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Thể chế chính trị: phù hợp để bảo vệ quyền lực kinh tế thực tế của nhóm có quyền kiểm soát
nguồn lực trong quốc gia. TTCT tạo ra tạo ra hệ thống cơ cấu tác động của các chủ thể CT đối
với KT, có thể điều hành cơ cấu các TP KT của 1 QG.
Vốn: là yếu tố sản xuất cơ bản, quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế. Vốn tạo ra các yếu tố
vật chất, kỹ thuật để phát triển. Do đó, việc tăng cường huy động nguồn vốn, đa dạng hóa hình
thức huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trong đó đặc biệt là vốn đầu tư là nội dung hết
sức cần thiết cho sự phát triển kinh tế bền vững của các quốc gia.
Nhân lực:
Trong khi các nguồn lực khác như vốn,tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, nguồn lực nước
ngoài trong quá trình khai thác sử dụng đến một lúc nào đó bị cạn kiệt thì nguồn nhân lực được
xem là vơ tận và phát triển.Nó là nhân tố quyết định việc khai thác,sử dụng,bảo vệ,tái tạo các
nguồn lực khác.
Quá trình PT KT là do con người tổ chức,thực hiện do đó phải có sự hiện diện của con người.
Con người là chủ thể của mọi hành động, sáng tạo ra của cải vật chất,tinh thần cho xã hội,có khả
năng vận dụng thành tựu KHKT thúc đẩy KT phát triển nhanh chóng.
Đối với VN, nguồn lực tài chính vẫn cịn hạn chế nên nguồn lực con người đóng vai trị quyết
định tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Khoa học và công nghệ: là nền tảng và động lực cho PTKT. Chỉ bằng con đường phát triển
khoa học và cơng nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu
mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri thức khoa học
và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện
nay. Xã hội hố tri thức khoa học và cơng nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp
bách nhất để đẩy mạnh PTKT.
6. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Kinh tế Nhà nước là đòn bẩy đầy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới”. Kinh tế NN nắm giữ các ngành, các lĩnh vực, các khâu quan trọng nhất của nền kinh tế
được trang bị bằng kỹ thuật và công nghệ hiện đại đủ sức chủ đạo và định hướng phát triển các
thành phần kinh tế khác.
Để vừa Phát triển kinh tế vừa bảo đảm công bằng xã hội, thỏa mãn các yêu cầu về tiến bộ xã hội,
ổn định về chính trị thì nền kinh tế phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số
nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, của cộng đồng và xã hội.
Và, để bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, KTNN - chủ yếu dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện - phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó.
KTNN dựa trên chế độ cơng hữu về TLSX; là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hóa
của lực lượng sản xuất. Thành phần KTNN không chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước, mà còn
bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà
nước; bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước; sự gắn kết
hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý
của Nhà nước. Với sức mạnh kinh tế tổng hợp đó, thành phần KTNN có khả năng tạo ra các điều
kiện vật chất, các tiền đề kinh tế-xã hội để phát triển tất cả các thành phần kinh tế.
Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân cịn nhỏ bé, chưa
có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt
trong những lĩnh vực mới này. KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của
nền kinh tế, do đó, nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế
khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. KTNN là lực lượng có khả năng
giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Nó cịn đảm
nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đòi
hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân. KTNN tham gia vào những lĩnh vực khoa
học, cơng nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao…
về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trị quan trọng
trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành
ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện
sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng
hóa cơng cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm
nghèo,..
Khoa học và cơng nghệ Khoa học: là tồn bộ hoạt động có hệ thống nhằm xây dựng và tổ chức
kiến thức dưới hình thức những lời giải thích và tiên đốn có thể kiểm tra được về vũ trụ. Công
nghệ: là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các cơng cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một
giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể.
KHCN là cái không thể thiếu được trong đời sống KT-VH của một quốc gia. Vai trò này của KH
và CN càng trở lên đb quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát
triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại.
● Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,Đảng ta đã xác định khoa học và
công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao
trình độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Cơng nghiệp
hố,hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa
học và công nghệ phải trở thành “quốc sách hàng đầu”.
● Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định
rõ :”CNH-HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” “khoa học và công
nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường CNHHĐH, phát triển khoa học và cơng nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở
thành một nước giàu mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập
những tri thức khoa học và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu
cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay.
● Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn mạnh phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học và
công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo
của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ,
có đưa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình cơng nghệ hiện đại nhất vào nước
ta thì cũng khơng có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNH-HĐH.
● Do đó, xã hội hố tri thức khoa học và cơng nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và
cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
7. Tại sao CNH, HĐH phải gắn với kinh tế tri thức?
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cấp và ứng dụng tri thức giữ vai
trò quyết định nhất với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong
nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa
nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học cơng nghệ. Tiêu chí trong nền kinh tế
tri thức là tổng sản phẩm GDP của kinh tế thị trường làm ra là 70%.
Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
● Một là, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở trình độ cao, áp dụng những thành
tựu tiên tiến nhất về cơng nghệ kỹ thuật. Cơng nghiệp hố hiện đại hố là sự nghiệp của
toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và cơng nghệ,
khoa học quản lí cũng như đội ngũ cơng nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
● Hai là, các ngành kinh tế dựa nhiều vào kinh tế tri thức. nền kinh tế tri thức là nền kinh tế
mà trong đó q trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho
tăng trưởng cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
● Ba là, trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi
lĩnh vực của xã hội, khoa học và cơng nghệ có vai trị quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và làm cho kinh tế phát triển với
tốc độ vượt bậc.
● Bốn là, trong nền kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực được tri thức hố thì xã hội đó sẽ có
được một nền kinh tế phát triển nhất định. Nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường đòi
hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt, sáng tạo và sử
dụng các thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới.
● Năm là,trong nền kinh tế tri thức ,mọi vấn đề của xã hội đều mang tính tồn cầu hố kinh
tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống xã hội trong
mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
8.
Nguồn nhân lưc: Con người là yếu tố phát triển nhanh bền vững?
● Phát triển nhanh bền vững là nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng,phát triển cân đối giữa
3 cực tăng trưởng: xã hội,kinh tế , văn hóa. Ở nước ta quan điểm phát triển nhanh và bền
vững đã được nhận thức từ rất sớm,thể hiện trong nhiều chủ trương và nghị quyết của
Đảng
● Nguồn lực con người là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần , đạo đức, phẩm
chất,trình độ tri thức tạo nên năng lực con người
● Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH-HĐH yếu tố con người luôn được coi là
yếu tố cơ bản và quyết định . Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của
CNH-HĐH đất nước cần đặc biệt chú trọng đến phát triển giáo dục, đào tạo.
● CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân và mọi thành phần kinh tế ,trong đó lực lượng cán
bộ khoa học và công nghệ ,khoa học quản lý, đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò
đặc biệt quan trọng.Nguồn nhân lực của CNH-HĐH phải có đầy đủ số lượng,cân đối về
cơ cấu và trình độ,có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới
● Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
đột phá chiến lược bảo đảm cho phát triển nhanh,hiệu quả và bền vững.
9.
Vai trò của nguồn lực?
● Thứ nhất: trong khi các nguồn lực khác như vốn,tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất,
nguồn lực nước ngoài trong quá trình khai thác sử dụng đến một lúc nào đó bị cạn kiệt thì
nguồn nhân lực được xem là vơ tận và phát triển.Nó là nhân tố quyết định việc khai
thác,sử dụng,bảo vệ,tái tạo các nguồn lực khác.
● Thứ hai:quá trình CNH-HĐH là do con người tổ chức,thực hiện do đó phải có sự hiện
diện của con người .Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo,con người bằng trí
tuệ đã tạo ra các cơng cụ sản xuất ngày càng hiện đại.Con người là chủ thể của mọi hành
động,vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình CNH-HĐH,Con người sáng tạo ra của
cải vật chất,tinh thần cho xã hội,có khả năng vận dụng thành tựu KHKT vào hoạt động
kinh tế thúc đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh chóng.
● Thứ ba:Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những quyết định q trình chuyển
đổi căn bản,tồn diện từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang lao động được đào
tạo cùng công nghệ tiên tiến ,phương tiên và phương pháp hiện đại tạo ra năng suất lao
động cao . Đó là q trình tất yếu để tiến đến CNH-HĐH.
● Thứ tư: Nguồn nhân lực nếu được đào tạo và có chất lượng cao là điều kiện rút ngắn
khoảng cách tụt hậu,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh và bền
vững.Là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
● Thứ năm: xuất phát từ thực trạng CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực.
Đối với VN,nguồn lực tài chính vẫn cịn hạn chế nên nguồn lực con người đóng vai trị
quyết định tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.
10. Ưu điểm, hạn chế của nguồn nhân lực?
Ưu điểm:
● Lực lượng lao động dồi dào: Với một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là
một lợi thế lớn, tiềm năng và thế mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một
nước đang phát triển và đang tiến hành cơng nghiệp hố - hiện đại hố như nước ta.
● Tỷ trọng lao động trẻ cao, lực lượng lao động trẻ dồi dào và có văn hố phổ thơng có
nhiều lợi thế như là có sức khoẻ, năng động, có khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp
dễ dàng, ngay cả đối với các ngành mới và có nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một nền
kinh tế trẻ, năng động và phát triển.
● Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thơng minh, cần cù lao động và đồn kết. Đó
là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những sáng tạo,
những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được phát
huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh nghiệm
nghề nghiệp mà cịn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, giúp nhau
về công ăn việc làm. Đây là một trong những ưu điểm mạnh nhất của lao động Việt.
Hạn chế:
Nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng chất lượng không cao. Bộ phận lao
động đã qua đào tạo vẫn cịn nhiều lỗ hổng, thiếu sót, hạn chế về mặt kiến thức khoa học, năng
lực thực hành, phương pháp tư duy sáng tạo, nắm bắt công nghệ hiện đại…
Người lao động hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Phần lớn lao
động đang làm việc trong các doanh nghiệp đều hạn chế về năng lực làm việc kể cả lao động trực
tiếp và lao động quản lý. Người lao động ít được đào tạo một cách bài bản, kiến thức nghề
nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người hoặc khơng cịn phù hợp hoặc chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tế.
Thói quen làm việc NN của chúng ta dẫn tới thói quen làm việc rề rà, giờ “cao su”, vừa làm vừa
chơi. Thói quen đó rất có hại cho việc sản xuất. Chúng ta cũng đã gặp rắc rối với vấn đề lao động
thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm, tính tự giác kém.
11. Tại sao giữ vững độc lập tự chủ tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa
ĐPH: là MQH diễn ra ở nhiều nước và nhiều org QT, mà không pb mode CTXH. ĐDH: chỉ
MQH diễn ra trên nhiều lĩnh vực, KT, CT, QS, NG
Thứ nhất, Giữ vững độc lập, tự chủ là ĐK tiên quyết trong QHQT bởi vì trong QHQT nó KĐ chủ
quyền, voice của mình nếu khơng giữ được tự chủ tự cường có nghĩa là đã phụ thuộc vào nước
khác đấy là điều tối kỵ trong QH ngoại giao. Nhưng Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao
gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối mà cịn là nêu cao và phát huy
tính chủ động trong việc tham gia vào các công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.
Theo đó, để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn chiến
lược, khả năng bao quát và dữ liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời ln chủ động, tích cực tham
gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào q trình xây dựng thể
chế và kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.
Thứ hai, đối ngoại đa phương đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Thông qua
hợp tác đa phương, Việt Nam đã mở rộng thị trường, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư, du
lịch, khoa học - công nghệ, tận dụng tốt các nguồn vay ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế. Các
cơ chế hợp tác là kênh quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nguồn lực từ các đối tác phát triển
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng, liên kết vùng,
xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy thương mại.
Thứ ba, đối ngoại đa phương thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các nước thêm phần tin cậy,
hiểu biết và dành được thiện cảm của các nước. Mặt khác, với tư cách là thành viên của các tổ
chức, diễn đàn và hội nghị quốc tế, Việt Nam là một đối tác bình đẳng với các nước, tạo cơ hội
cho Việt Nam đối thoại và giải quyết các vấn đề song phương với các đối tác của mình, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam góp phần đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn vào “sân chơi” toàn cầu.
=> giữ vững độc lập tự chủ tự cường đi đơi với đẩy mạnh đa phương hóa là tăng cường vai trò
lead, hiệu lực QL của NN.
12. Tại sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam?
Nhiều doanh nghiệp nhà nước đi đầu về đổi mới cơng nghệ, có đóng góp quan trọng trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước_Ảnh: phunuvietnam.vn
Khơng thể phủ nhận sự phát triển của các nước tư bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng
cùng với đó ln tồn tại một số xu hướng khách quan sau:
- Cơng bằng xã hội đã trở thành địi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công
bằng để phát triển và phát triển để thực hiện cơng bằng khơng chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo
đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, công bằng
ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu
cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi,... điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con
người.
- Cùng với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu về tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh
thần, đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế. Yếu tố khách
quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là
kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế phải đi cùng với sự ổn định về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên
các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà
nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước
hết là giới chủ sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để
làm được điều này,.
Bên cạnh đó, vai trị chủ đạo của KTNN cịn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh
vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực
đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cơng nghệ
cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu
vực tư nhân cịn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm
nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, khơng có
nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể
hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả,
Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trị của mình trong
việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã
đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải
trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực
tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể
khơng cần giữ vai trị chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau: 1Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất,
sửa chữa vũ khí, trang bị chun dùng cho quốc phịng, an ninh,...). 2- Tham gia nắm giữ một số
vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế
quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khống sản quan trọng; một số
sản phẩm cơ khí, điện tử, cơng nghệ thơng tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).
Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trị quan
trọng trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những
ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư,
thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản
xuất hàng hóa cơng cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa
đói, giảm nghèo,...
12. Thực tế vai trị của kinh tế nhà nước ở Việt Nam thời gian qua
Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong các thành phần kinh tế.
Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trị chính trị - xã hội to lớn.
Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như
viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khống, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu
bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng
trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện
hạch tốn kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm q trình tái sản xuất
mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN này. Là lực
lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một cơng cụ của Nhà nước, các DNNN cần góp phần
tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.