Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tìm hiểu về hộ nông dân làm kinh tế giỏi ở xã quảng phước, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.58 KB, 22 trang )

ĐỀ TÀI:
Tìm hiểu về hộ nông dân làm kinh tế giỏi ở xã Quảng Phước,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Với cánh cửa của WTO ngày càng mở rộng khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của tổ chức này, thì đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để Việt Nam
phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trong giai đoạn hội nhập. Gia nhập WTO
chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế từ kinh tế nông nghiệp đến kinh
tế ngoại thương. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp và nông
nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Lao động nông
nghiệp chiếm trên 70% lao động xã hội. Diện tích đất tự nhiên của nước ta trên 33
triệu ha thì đất nông nghiệp chiếm 28,4 %. Thành tựu to lớn mà nông nghiệp nông
thôn đạt được trong những năm qua đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta trong việc khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của các
đơn vị, thành phần kinh tế trong đó có kinh tế hộ nông dân. Hộ nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ, được coi trọng khuyến khích phát triển trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà
nước. Trong chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Đảng ta chỉ rõ “Bản
thân kinh tế hộ nông dân có vị trí không thể thay thế được. Do vậy, việc tăng
cường vai trò, vị trí của kinh tế hộ nông dân trong tình hình hiện nay là đòi hỏi tất
yếu, nhất là khi chúng ta coi “cả trước mắt và lâu dài nông nghiệp và nông thôn
nước ta có vai trò cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển và ổn định kinh tế
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Dù vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng với các chính sách, định hướng phù
hợp của nhà nước và sự phát triển của khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền nông
nghiệp nước ta ngày càng phát triển vững mạnh và có đóng góp đáng kể vào tổng
thu nhập quốc dân.
Quảng Phước là một xã thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; nằm cách
thành phố Huế 14km, nằm dọc theo bờ phá Tam Giang. Đây là một xã thu nhập
còn ở mức thấp, sinh kế chính của người dân là nông nghiệp. Các hoạt động nông


nghiệp ở đây bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ và các nghề phụ khác. Phần
lớn diện tích đất bị bạc màu, nhiễm mặn, lại là một vùng thấp trũng nên năng suất
cây lúa, hoa màu còn thấp. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề làm
kinh tế của hộ gia đình ở xã Quảng Phước là rất quan trọng. Nó sẽ là cơ sở để các
nhà kế hoạch đưa ra các chính sách phù hợp để nền nông nghiệp ở xã Quảng
Phước nói riêng và huyện Quảng Điền nói chung phát triển hơn. Do đó, chúng tôi
đã tiến hành đề tài “ Tìm hiểu về hộ nông dân làm kinh tế giỏi ở xã Quảng
Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung: Nhằm thấy được hệ thống nông nghiệp của một hộ nông
dân trong quá trình phát triển kinh tế.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế hộ nông dân ở xã Quảng
Phước- Huyện Quảng Điền- Thừa Thiên Huế.
• Phân tích và đánh giá tình hình phát triển kinh tế của hộ, đồng thời đánh giá
những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ.
• Tìm ra những giải pháp nhằm định hướng cho hộ nông dân phát triển kinh
tế được bền vững hơn.
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Phạm vi nghiên cứu
• Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên địa bàn xãQuảng Phước- Huyện
Quảng Điền- tỉnh Thừa Thiên Huế.
• Phạm vi thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến nay.
• Phạm vi nội dung: Nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân và
những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
1.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống nông nghiệp của hộ nông dân xãQuảng Phước - huyện Quảng Điền –
Tỉnh Thừa Thiên Huế.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp tổng hợp và rà soát tài liệu: kế thừa và chọn lọc các tài liệu và

tư liệu có liên quan.
• Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: dữ liệu này được thu thập qua lãnh
đạo xã, trưởng thôn. Công việc này tùy từng cấp mà có cachs thu thập thích
hợp. Cấp xã thu thập bằng các văn bản thống kê, những báo cáo của xã .
• Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu.
• Phương pháp khảo sát thực địa và phỏng vấn hộ nông dân về tinh hìn kinh
tế của gia đình.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ nông dân
 Khái niệm:
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát
triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động của nông nghiệp và phi nông nghiệp ở
nông thôn chủ yếu được thể hiện qua sự hoạt động của hộ nông dân.
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng bao
gồm cả nghề rừng, nghề cá, và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong các
hoạt động phi nông nghiệp khó phân biệt các hoạt động có liên quan với nông
nghiệp và không liên quan tới nông nghiệp. Cho đến gần đây có một khái niệm mở
rộng hơn là hộ nông thôn, tuy vậy giới hạn giữa nông thôn và thành thị cũng là
một vấn đề còn tranh luận.
Khái niệm hộ nông dân gần đây được định nghĩ như sau: “ Nông dân là các nông
hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về
cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với
một trình độ hoàn chỉnh không cao” (Ellis-1998).
 Hộ nông dân có những đặc điểm sau:
•Hộ nông dân vừa là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng.
•Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng biểu hiện ở trình độ phát triển tự cấp, tự túc.
Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân và thị trường.

Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động phi
nông nghiệp với các mức độ rất khác nhau.
Lý thuyết về doanh nghiệp gia đình nông dân, coi hộ nông dân là một doanh
nghiệp không dùng lao động thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình. Do đó khái niệm
kinh tế thông thường không áp dụng cho kiểu doanh nghiệp này. Do không thuê
lao động nên hộ nông dân không có khái niệm tiền lương và tiếp theo là không thể
tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Hộ nông dân chỉ có thu nhập chung của tất
cả hoạt động kinh tế của gia đình là giá trị sản lượng hàng năm trừ chi phí. Mục
tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao không kể thu nhập ấy do nguồn gốc nào,
trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề, đó là kết quả chung của lao động gia đình.
Khái niệm gốc để phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng lao động – tiêu dùng
giữa sự thỏa mãn nhu cầu gia đình và sự nặng nhọc của lao động. Giá trị sản lượng
chung của hộ gia đình trừ đi chi phí sẽ là giá trị sản lượng thuần mà gia đình sử
dụng cho tiêu dùng, đầu tư tái sản xuất và tích lũy. Người nông dân không cần tính
giá trị tiền công lao động đã sử dụng, mà chỉ lấy mục tiêu là có thu nhập thuần
cao. Bởi vậy, muốn có thu nhập cao hơn thì các hộ nông dân phải tăng thời gian
lao động của gia đình. Số lượng lao động bỏ ra gọi là trình độ tự bóc lột của lao
động gia đình. Mỗi một hộ nông dân cố gắng đạt được một thu nhập thỏa mãn nhu
cầu thiết yếu bằng cách tạo một sự cân bằng giữa mức độ thỏa mãn nhu cầu gia
đình với mức độ nặng nhọc của lao động. Sự cân bằng này thay đổi theo thời gian,
theo quy luật sinh học do tỷ lệ giữa người tiêu dùng và người lao động quyết định.
1.2. Vai trò, vị trí kinh tế của hộ nông dân
Muốn phát triển nông nghiệp – nông thôn không thể không bàn đến nông dân,
nhất là các nước chưa phát triển như nước ta. Nông dân quản lý và sử dụng đại đa
số các nguồn lực sản xuất: đất đai, lao động, tư liệu sản xuất (chiếm khoảng 80%
dân số và trên 70% lao động xã hội). Vì vậy mà kinh tế hộ nông dân (kinh tế nông
hộ) luôn đóng vị trí, vai trò quan trọng trong bất cứ thời đại nào và bất cứ thời
điểm lịch sử nào.
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân lực,
vừa là nguồn của cải vật chất cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất

để bảo đảm cuộc sống không những cho gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác
được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn
đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở
phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Ngày nay kinh tế nông hộ đang trở thành một nhân tố quan trọng của sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây
dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại
và phát triển của kinh tế nông hộ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Kinh tế nông hộ đã góp phần làm tăng nhanh sản lượng sản phẩm cho xã hội như
lương thực, thực phẩm, các sản phẩm cây công nghiệp, nông sản xuất khẩu… ở
nước ta, kinh tế nông hộ tuy quy mô nhỏ, phân tán và lượng vốn còn ít nhưng theo
thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn nghành nông nghiệp là:
35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn gạo, đã trồng được
717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu cà phê đạt 694 nghìn tấn, cao su đạt 280
nghìn tấn, sản lượng thịt trứng liên tục tăng với tốc độ cao, không những đảm bảo
nhu cầu lương thực, thực phẩm trong nước mà còn vươn lên trở thành một trong
những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới.
- Kinh tế nông hộ là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang nền
kinh tế hàng hóa.
Kinh tế nông hộ được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong
giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ tạo đà cho
bước chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ sang nền kinh tế hàng hóa quy mô lớn.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ trên quy mô hộ
gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu như chưa trải qua thì khó có thể phát triển
sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát
triển.
- Kinh tế nông hộ là đơn vị tích tụ vốn của xã hội.
Kinh tế nông hộ với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ đã đóng vai trò là
đơn vị tích tụ vốn của xã hội, cùng với các đơn vị trong các thành phần kinh tế

khác tạo nên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu về vốn của xã hội.
Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển từ kinh tế tự
cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa với hiệu quả cao. Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện
cho việc chuyển dịch cơ cấu nghành nghề trong nông nghiệp, góp phần tích cực và
to lớn vào sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, kinh tế nông hộ vừa là đơn vị tích
tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó vào việc tái sản xuất
hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các ngành khác.
- Góp phần nâng cao sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
Theo kết quả Tổng điều tra nông nghịêp nông thôn năm 2001 do Tổng cục Thống
kê thực hiện, thì hiện khu vực nông thôn có 13,07 triệu hộ, chiếm 73% dân số cả
nước và thu hút 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Không những sử dụng lao
động trong độ tuổi lao động mà nông hộ còn sử dụng lao động ngoài độ tuổi lao
động (trẻ em và người lớn tuổi), với cách tính cứ hai người này bằng một lao động
chính đã góp phần tăng thu nhập cho hộ, giải phóng dần sức lao động chính ra
khỏi nông nghiệp đến một mức hợp lý. Ngoài ra, nông hộ còn thuê lao động ngoài
với tiền công hợp lý đã tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những
lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Chính vì vậy có thể nói kinh tế nông hộ đã
giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông thôn nước ta, góp phần quan trọng vào
công cuộc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
- Thúc đẩy sự phân công lao động, dần tới chuyên môn hóa, tạo khả năng hợp tác
lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế nông hộ ngày càng có điều kiện để
tích lũy tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa học kỹ thuật và công
nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng vào sản xuất ngày càng được
nâng lên rõ rệt, thêm vào đó là sự phù hợp trong cơ chế và các chính sách của nhà
nước sẽ giúp cho sản xuất ngày càng phát triển, số lao động phục vụ cho nhu cầu
của kinh tế hộ về nông nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa lao
động trong nông nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình độ ngày càng được
nâng lên sẽ chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề khác, nhất là các ngành

nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển. Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện
tích đất nông nghiệp trên đầu người sẽ tăng, năng suất lao động tăng và hiệu quả
sản xuất của một lao động sẽ không ngừng tăng lên.
Sự tự phân công lao động dẫn đến quá trình chuyên môn hoá trong các hộ nông
dân. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ thì sự chuyên môn hoá càng cao thì một
yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện, đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ nông dân với
nhau. Nếu như chuyên môn hoá làm cho năng xuất lao động tăng cao, chất lượng
sản phẩm tốt hơn thì hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được
hoàn thiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chính các hộ nông dân và từ đó đáp ứng
nhu cầu thị trường.
- Góp phần sử dụng đầy đủ và hiệu quả các yếu tố sản xuất khác như đất đai, tiền
vốn và tư liệu sản xuất. Sản xuất của hộ nông dân mang tính đa dạng, tình thích
ứng cao. Sự phân bố của kinh tế nông hộ mang tính rộng khắp. Sản phẩm của
nông nghiệp mang tính liên tục, không phân chia thành bán thành phẩm, không
tính đượckết quả ngay ở mỗi giai đoạn. Kinh tế nông hộ tồn tại và phát triển khắc
phục được những khó khăn tưởng chừng như không khắc phục nổi, khai thác được
những tiềm năng mà không một chủ thể nào khai thác được.
- Hộ nông dân có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng
hóa.
Ngày nay, hộ nông dân hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh
trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ phải quyết định
mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào để
trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các đơn vị kinh tế nói chung
và hộ nông dân nói riêng đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản
phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu từ đó
mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ nông dân có thể dễ dàng
đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến
tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính
sách khuyến khích, hộ nông dân không ngừng vươn lên tự khẳng định vị trí trên

thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển đầy đủ, đa dạng, thúc đẩy quá
trình sản xuất hàng hoá. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường,
hộ nông dân đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường
tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH KINH TẾ ĐIỂN HÌNH CỦA HỘ NÔNG DÂN TẠI
XÃ QUẢNG PHƯỚC HUYỆN QUẢNG ĐIỀN- THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Tình hình chung của xã Quảng Phước huyện Quảng Điền – Thừa Thiên
Huế
2.1.1 Vị trí địa lý
Xã Quảng Phước thuộc huyện Quảng Điền là một vùng thấp trũng, ở cuối hạ lưu
sông Bồ, nằm cách thành phố Huế 14km, dọc theo bờ phá Tam Giang với chiều
dài 5km, tiếp giáp với thị trấn Sịa. Phía Nam giáp xã Quảng Thọ. Phía Bắc giáp thị
trấn Sịa và vùng ven đầm phá Tam Giang. Phía Đông giáp xã Quảng An. Phía Tây
giáp huyện lỵ xã Quảng Điền.
Với tổng dân số năm 2012 là 7069 người.
Tổng diện tích là 1048 ha
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Khí hậu Thừa Thiên Huế nói chung và Quảng Điền nói riêng có hai mùa rõ rệt:
-Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng gió Tây Nam nên không khí khô
nóng, oi bức.
Mùa mưa từ tháng 9 năm trước đến tháng giêng năm sau. Tháng 9 – 10 thường
kéo theo lũ lụt. Tháng 11 mưa dai dẳng. Nhiệt độ trung bình là 25
0
C, nhiệt độ
trung bình tháng nóng nhất là 29,4
0
C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là
19,7
0
C. Nhiệt độ lúc cao nhất 39,9

0
C và lúc thấp nhất là 8,8
0
C. Các tháng 7, 8, 9,
10 thường hay có bão.
- Do cấu tạo điạ hình có độ dốc từ Tây sang Đông khá lớn (15
0
) cùng các đợt gió
mùa kèm theo mưa lớn bị chặn ngang đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế nói chung và
Quảng Điền nói riêng luôn luôn phải chịu sự đối xử tương đối khắc nghiệt của
thiên nhiên “chưa mưa đã úng, chưa nắng đã hạn” ở một số vùng.
Điều kiện tự nhiên bao gồm diện tích, đất đai và nước. Nó cũng bao gồm động vật,
cây cối, hoa màu và các sinh vật sống trong vùng. Theo báo cáo của UBND xã,
diện tích đất tự nhiên của toàn xã có 1048 ha. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm
509,3 ha, đất nuôi trồng thủy sản 161, 4 ha, đất phi nông nghiệp 367,27 ha, đất
chưa sử dụng là 10, 03 ha. Đất nông nghiệp có hai loại đất: đất pha cát( là vùng đất
xung quanh khu dân cư sử dụng trồng vườn) và đất thịt nặng được sử dụng để
trồng lúa. Xã Quảng Phước nằm dọc theo phá Tam Giang với chiều dài 5km, có
diện tích nước mặt 217 ha. Các nguồn lực tự nhiên ở đầm phá như tôm, cá, cua,
kềnh, lươn, lệt… ngoài ra, còn có các loại như rong xanh, rong mềm, rong câu
thường có trong đầm phá tự nhiên.
2.1.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Trong tổng dân số toàn xã thì có 2650 người trong độ tuổi lao động. Theo báo cáo
của UBND xã, lực lượng lao động của xã rất dồi dào, con người rất cần cù chịu
khó, đặc biệt là phụ nữ. Họ có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản,đánh bắt thủy hải sản. Nguồn lực con người thì chất lượng của lực lượng
lao động ngày càng được cải thiện do được tiếp cận với nhiều kênh thông tin, đào
tạo, tập huấn từ các cơ quan nhà nước, chương trình dự án. Mặt bằng dân trí ngày
càng được nâng cao. Tuy nhiên, lực lượng lao động đi làm ăn xa ngày càng nhiều
ảnh hưởng đến nguồn lao động tại chỗ. Trình độ tri thức văn hóa của người dân

ngày càng được nâng cao cả về chất lượng đến số lượng, 100% trẻ em được phổ
cập giáo dục tiểu học.
Nguồn lực xã hội nhìn chung có xu hướng phát triển tốt như làng văn hóa, gia đình
văn hóa, các hoạt động đoàn thể hoạt động tích cực. Số lượng gia đình văn hóa
trong xã ngày càng nhiều, bởi vì một trong những tiêu chí quan trọng để công
nhận làng văn hóa là mối quan hệ tốt giữa người dân trong làng.
Nguồn lực vật chất bao gồm các công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng đang ngày càng
được cải tiến và hoàn thiện. Hệ thống trường học và trạm y tế ngày càng được cải
thiện, nâng cao. Giao thông nội đồng, hệ thống kênh mương phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp được chính quyền địa phương và người dân trong xã quan tâm cải
thiện.
Các đại lý, cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đánh bắt
ngày càng được mở rộng ở địa phương.
2.2. Hộ nông dân làm kinh tế giỏi tại xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế
2.2.1. Tình hình cơ bản của hộ điều tra
Kinh tế mỗi hộ gia đình phát triển hay không phụ thuộc khá nhiều vào khả năng tổ
chức, quản lý, bố trí sản xuất của chủ hộ. Chủ hộ là người đưa ra phương hướng,
kế hoạch sản xuất cho mỗi mùa vụ, là người quyết định trồng cây gì? Nuôi con gì?
Số lượng bao nhiêu… Mỗi chủ hộ có khả năng nhận thức và tiếp thu khác nhau
điều này phụ thuộc vào tuổi, giới tính và đặc biệt là trình độ văn hóa của mỗi
người.
Trong những năm gần đây, phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi
trên địa bàn huyện xuất hiện ngày càng nhiều mô hình, tấm gương nông dân tiêu
biểu, góp phần tạo công ăn việc làm, tạo thu nhập cho gia đình, xóa đói giảm
nghèo. Anh Phan Văn Chương xóm 4, thôn Thủ Lệ 2- xã Quảng Phước – huyện
Quảng Điền – Thừa Thiên Huế là một điển hình như thế.
Gia đình anh gồm có 5 thành viên, trong đó chỉ có 2 vợ chồng là lao động chủ lực
của gia đình. Anh Chương là là trưởng thôn của thôn Thủ Lệ 2 xã Quảng Phước
huyện Quảng Điền, nên anh hiểu được rất rõ tình hình về điều kiện kinh tế xã hội

của địa phương. Đồng thời anh cũng thường xuyên tham gia các lớp tập huấn
khuyến nông của huyện nên anh có được phương thức canh tác phù hợp với điều
kiện kinh tế của mình. Để từ đó phát triển được quy mô kinh tế của gia đình lớn
hơn, và gia đình anh đang hướng tới quy mô trang trại.
2.2.2. Tình hình kinh tế hiện nay của hộ điều tra
Cũng như bao gia đình khác trong thôn, gia đình anh Phan Văn Chương cũng là
một gia đình thuần nông nhưng kinh tế của gia đình anh tương đối ổn định nhờ thu
nhập từ việc chăn nuôi và làm ruộng.
Gia đình anh có 5 thành viên, tuy nhiên lao động chủ lực của gia đình chỉ tập trung
vào hai vợ chồng, ba người con đang là học sinh và sinh viên nên không tham gia
vào hoạt động sản xuất.
Kinh tế gia đình hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào nuôi heo, nuôi vịt và sản xuất lúa.
Trước đây kinh tế gia đình chủ yếu là nhờ vào mô hình nuôi tôm xen lúa, nhưng
do thất bát quá lớn nên gia đình anh chuyển sang chăn nuôi, diện tích nuôi tôm
này được chuyển sang trồng lúa hoàn toàn.
Trong diện tích đất 1.5 mẫu ruộng mà gia đình anh hiện có, chỉ có 3 sào là được
nhà nước giao số còn lại là do gia đình anh thuê từ những hộ gia đình trong vùng
và của hợp tác xã. Vì số đất mà nhà nước giao cho chỉ có hạn nên muốn mở rộng
sản xuất thì cần phải thuê mướn thêm từ bên ngoài. Để có được diện tích đất này
ngoài sản lượng nộp cho nhà nước ra gia đình anh sẽ phải trả cho chủ đất 1 tạ
thóc/ sào/ năm. Năng suất lúa bình quân của gia đình anh vào khoảng 300 kg/ sào.
Đối với nuôi heo, gia đình anh chủ yếu nuôi theo hướng nuôi thịt, khoảng 3 tháng
thì sẽ có 1 lứa lợn được xuất ra khoảng 10 đến 15 con. Và anh còn nuôi thêm 2
con heo nái để có thể chủ động con giống. Heo thịt xuất ra có thể cho nhưng nhà
buôn nhỏ trong xã, còn nếu thuận lợi thì sẽ nhập cho công ty thu mua theo lứa.
Đối với đoàn thủy cầm, gia đình chủ yếu là nuôi vịt và nuôi với số lượng 100 con,
được nuôi theo hướng chăn thả tự nhiên. Vì biết được ưu ái của thiên nhiên cho
vùng đất xã Quảng Phước là vùng trũng, có nước thường xuyên, lượng thức ăn tự
nhiên đa dạng, nên rất thuận lợi cho việc phát triển đàn thủy cầm. Vịt này chủ yếu
nuôi theo kiểu vịt lấy thịt, chứ không phải nuôi theo kiểu vịt lấy trứng.

Tóm lại, nhìn chung kinh tế gia đình của anh tương đối ổn định, tuy nhiên nếu như
gia đình anh có thể phát triển nó theo hướng VAC có được không? Theo như
chúng tôi tìm hiểu thì ở vùng này để phát triển mô hình VAC là rất khó khăn, bởi
vì đây là vùng thấp trũng nên mưa lũ thường kéo dài. Chỉ tính riêng sản xuất lúa
vụ đông xuân mà gia đình anh cũng phải gieo đi gieo lại đến 3, 4 lần. Và mô hình
VAC thì phải có diện tích vườn, và ao cá, tuy nhiên diện tích vườn không có, đối
với gia đình anh thì việc kết hợp đó là không thể vì nó không có sự liên kết.
Nhưng nếu nuôi với mô hình như cũ và phát triển theo chiều hướng tăng số lượng
và chất lượng thì có thể kinh tế của gia đình anh tương đối tốt.
2.2.3. Tình hình sản xuất chăn nuôi của hộ trong năm qua
2.2.3.1. Chi phí
 Đối với việc nuôi heo:
 Con giống
 Thức ăn từ việc sản xuất nông nghiệp
 Thức ăn mua từ công ty thức ăn chăn nuôi khoảng 25 kg/con đến khi
xuất bán ( tương đương với 200 ngàn đồng).
 Thuốc thú y
 Nước tắm, điện cho heo hằng ngày
 Tổng chi phí cho 1 lứa heo khoảng 15 triệu đồng trong vòng 3 tháng
 Đối với nuôi thủy cầm (vịt):
 Con giống và ấp
 Thức ăn từ sản xuất nông nghiệp
 Thức ăn mua từ công ty thức ăn chăn nuôi
 Thuốc thú y
 Tổng chi phí cho 1 lứa vịt này khoảng 7 triệu đồng trong khoảng thời gian
3 tháng
 Đối với sản xuất lúa:
 Giống( tùy vào vụ hè thu hay vụ đông xuân để có những giống lúa
thích hợp)
 Phân bón

 Thuốc trừ sâu
 Tiền thuê ruộng
 Chi phí sản xuất lúa khoảng 10 triệu đồng/ vụ ( thời gian gieo cấy vụ đông
xuân là từ tháng 11 đến tháng dương lịch, vụ hè thu từ tháng 5 đến tháng 9
dương lịch).
2.2.3.2. Thu nhập
Theo như chúng tôi điều tra được tại hộ gia đình anh Chương thì:
• Đối với nuôi heo: Tùy theo mức giá cả của từng năm mà thu nhập từ
nuôi heo thu được nhiều hay ít. Trung bình hằng năm thu nhập từ một vụ
nuôi heo là khoảng 25 triệu đồng, chưa trừ chi phí.
• Đối với nuôi vịt: Mỗi lứa vịt gia đình anh thu về được khoảng 12
triệu đồng ( chưa trừ chi phí).
• Đối với sản xuất lúa: Mỗi vụ lúa của gia đình anh thu về khoảng 5
tấn đến 5.5 tấn. Lúa thu về này chủ yếu phục vụ lương thực và chăn nuôi
của gia đình. Và cũng có một phần bán cho lái buôn về thu mua tận nơi.
 Từ thu nhập và chi phí của gia đình mỗi vụ ta có thể tính được hằng năm
thu nhập trung bình của gia đình như sau:
• Đối với nuôi heo: Trừ chi phí thì mỗi lứa heo cho lợi nhuận khoảng
10 triệu đồng, như vậy 1 năm lợi nhuận từ việc nuôi heo của gia đình
khoảng 30 đến 35 triệu đồng.
• Đối với nuôi vịt: Sau khi trừ chi phí thì mỗi lứa vịt như vậy gia đình
anh thu được từ 5 đến 7 triệu đồng. Vậy trung bình mỗi năm gia đình anh
thu được từ nuôi vịt khoảng 20 triệu đồng.
• Sản xuất nông nghiệp: Một phần được bán cho các lái buôn về thu
mua tận nơi, mỗi năm thu được từ việc bán lúa khoảng 25 đến 26 triệu
đồng.
Vậy mỗi năm gia đình có thu nhập khoảng 70 đến 80 triệu đồng từ chăn
nuôi và sản xuất. Thu nhập như thế này đối với gia đình anh tương đối ổn
định.
2.3. Ảnh hưởng của các nhân tố tới thu nhập của hộ nông dân

• Thời tiết khí hậu: xã Quảng Phước là một xã thuộc vùng trũng của
Thừa Thiên Huế, nên mưa lũ xảy ra thường xuyên, ảnh hưởng đến việc gieo
trồng và thu hoạch lúa. Tuy nhiên lại cũng nhờ vậy mà lượng nước ở vùng
này tương đối nhiều phù hợp cho trồng lúa, nuôi trồng thủy sản và chăn thả
đàn thủy cầm.
• Thị trường: trong chăn nuôi và sản xuất lúa, không phải khi nào giá
cả cũng ổn định, chỉ cần một biến động nhỏ của môi trường hay là một tin
đồn nhỏ về thị trường có thể ảnh hưởng rất lớn tới việc thu mua các sản
phẩm nông nghiệp.
• Vốn: Nguồn vốn của các hộ nông dân không nhiều, vì thiếu vốn nên
việc đầu tư trang thiết bị phục vụ nông nghiệp là còn khó khăn.
• Thành phần loài: Đa dạng về thành phần chủng loại, có nhiều loại
cây trông vật nuôi được các hộ nông dân đem vào sản xuất.
• Lãi suất ngân hàng: Nếu như lãi suất hạ, thì người dân có nhiều cơ
hội cho việc đầu tư chăn nuôi sản xuất với quy mô lớn hơn, đầu tư cho
trang thiết bị phục vụ sản xuất.
• Các loại thuế, phí trong sản xuất nông nghiệp
Bảng đánh giá thuộc tính
Thuộc tính Miêu tả Đánh giá
Khả năng sản xuất Mức sản xuất hay thu nhập trên 1 Trung bình
vùng tài nguyên
Tính ổn định Khả năng duy trì sức sản xuất theo
thời gian dưới tác động nhỏ của môi
trường
Thấp
Tính bền vững Khả năng duy trì sức sản xuất dưới
các tác động như stress, shock hoặc
các đảo lộn của môi trường
Trung bình
Tính công bằng Đánh giá sự phân phối sản phẩm

hay lợi nhuận đến những người tham
gia vào quá trình sản xuất
Cao
Tính tự chủ Khả năng tự vận hành của hệ thống
sao ít lệ thuộc vào các yếu tố bên
ngoài
Thấp
Tính lợi nhuận Khả năng mang lại hiệu quả kinh tế
của toàn bộ hệ thống
Cao
Tính đa dạng Thành phần các giống, loài, hoạt
động trong hệ thống nông nghiệp
Cao
2.4. Thuận lợi và khó khăn của hộ điều tra
 Sản xuất nông nghiệp
Là vùng trũng có nước thường xuyên nên rất thuận lợi cho việc trồng cây lúa
nước. Việc thực hiện chủ trương “ dồn điền đổi thửa”, đã giúp cho người dân giảm
bớt chi phí trong các khâu sản xuất, diện tích không bị manh mún như trước. Phân
bón, thuốc trừ sâu, giống lúa hiện nay được hợp tác xã cung ứng đầy đủ tận nơi.
Hệ thống trạm bơm và kiên cố kênh mương để cung cấp nước cho các xứ đồng,
đặc biệt là hệ thống giao thông nội đồng đang dần được hoàn thiện. Thị trường
tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn vì có lái buôn về thu mua tận nơi.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp của bà con nơi đây cũng gặp không ít khó khăn
như chuột phá mùa màng, sản phẩm giá trị thấp, mất mùa xảy ra liên tiếp, giá cả
vật tư ngày càng tăng, thiếu vốn trong sản xuất, thiếu ruộng để sản xuất, lại là một
vùng thấp trũng, nguồn nước nhiễm mặn, thời tiết khó khăn, giao thông nội đồng
không ổn định, phí cước dịch vụ trong nông nghiệp cao.
 Chăn nuôi gia súc, gia cầm:
Nhìn chung hoạt động chăn nuôi của xã có cơ hội phát triển. Xã thành lập một tổ
chức thú y để phòng trừ dịch bệnh cho đàn gia súc. Đặc biệt có sự giúp đỡ của hội

phụ nữ và hội nông dân một số nông dân có cơ hội để tiếp cận khoa học kỹ thuật
và vốn vay để nuôi gà, vịt, lợn siêu nạc. Thức ăn cho heo được tận dụng từ hoa
màu trong vườn và sản phẩm nông nghiệp. Thị trường cho sản phẩm đầu ra luôn
có sẵn.
Tuy nhiên, thường xuyên xuất hiện một số bệnh ở súc vật như bệnh sốt rét, bệnh tả
và thương hàn. Còn đối với đàn gia cầm thì thường xảy ra dịch bệnh tràn lan, khó
kiểm soát. Thị trường tiêu thụ sản phẩm còn thất thường, nếu thuận lợi mới có
công ty về thu mua, còn nếu không thì hàng hóa chỉ bán cho bà con trong xa,
huyện tiêu thụ với giá không cao.
2.5. Giải pháp khắc phục khó khăn
+ Đối với hộ nông dân:
- Hộ cần chủ động tìm cách ứng phó với những trường hợp bệnh tật, sâu bệnh
cũng như là thiên tai đối với cây trồng, vật nuôi của gia đình nhằm giảm thiểu thiệt
hại cho nông hộ.
-Cần linh hoạt trong hoạt động canh tác và chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật
nuôi sao cho phù hợp với điều kiện canh tác cũng như các điều kiện kinh tế xã hội.
- Cần sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý tránh trường hợp thiếu hoặc lãng
phí.
- Nên tham gia các buổi tập huấn về kỹ thuật trong nông nghiệp. Và thường xuyên
cập nhật thông tin về các lĩnh vực trong nông nghiệp trên các đài phát thanh, ti vi,
sách báo để đúc rút kinh nghiệm làm bài học cho quá trình sản xuất của hộ sau
này.
- Nâng cao tay nghề, trình độ sản xuất của lao động ở trong hộ, đặc biệt là đối với
lao động chính, không những về tay nghề mà còn cả về nhận thức đúng đắn khoa
học và thực hiện một cách đúng đắn khoa học, đúng với pháp luật .
+ Đối với nhà nước.
- Cần quan tâm tới sản xuất nông nghiệp của các hộ dân, lắng nghe và giải quyết
các vấn đề khó khăn của người dân như về vốn, kỹ thuật….
- Cần tổ chức các buổi tập huấn về kỹ thuật canh tác, công nghệ chế biến, bảo
quản cũng như kiến thức về kinh tế thị trường qua nhiều kênh thông tin khác nhau;

tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ môi trường trong sản xuất nông
nghiệp nhằm tiến tới nền nông nghiệp bền vững.
- Cần có các chính sách hỗ trợ về vốn như cho vay với lãi suất ưu đãi, giảm thuế
nhập khẩu phân bón, hỗ trợ giá đầu vào cho nông hộ….
- Giải quyết các quan hệ ruộng đất trong nông thôn phù hợp với cơ chế thị trường,
cần hoàn thiện phân vùng qui hoạch sử dụng đất đai để đảm bảo khai thác được lợi
thế của từng vùng riêng, đẩy mạnh quá trình giao lưu kinh tế, giúp cho các cấp
ngành quản lý tốt và sử dụng đúng mục đích vấn đề đất đai. Nhà nước cần hoàn
thiện các văn bản pháp qui về đất đai, có chính sách về đất cho phát triển kinh tế
hộ nông dân. Thực hiện tốt quá trình tập trung giả quyết sự manh mún của sản
xuất nhưng vẫn phải đảm bảo lợi ích của hộ nông dân thì khi thực hiện phải xếp
hạng đất để tử đó đưa ra hệ số và giá chuyển nhượng đất đai nông nghiệp.
- Bổ sung một số chính sách và đất đai để khuyến khích quá trình dồn điền, đổi
thửa hoặc chuyển nhượng đất để thuận lợi cho chuyên canh thâm canh, cơ giới hóa
nông nghiệp. Các diện tích đất đấu thầu cần nâng thời hạn lên 10 năm trở lên để
chủ thầu yên tâm đầu tư phát triển. Tiến hành kiểm kê, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đảm bảo sử dụng đúng mục đích.
- Cần đơn giản hóa các thủ tục cho vay, nghiên cứu lại các hình thức thế chấp cho
vay, thời gian vay, khoản tiền vay như thừa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất làm thế chấp để cho vay, và thực hiện chính sách tín dụng của hộ nông dân vay
không cần thế chấp 10 triệu đồng vay chỉ cần đưa ra dự án sản xuất có khả thi
chứng nhận của chính quyền địa phương. Tạo hành lang pháp lý thông thoáng về
các khoán để kinh tế hộ dễ hoạt động và phát triển với ngành nghề mà mỗi hộ
nông dân lựa chọn sản xuất có hiệu quả.
- Nhà nước cần đầu tư cho việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ về
giống cây trồng, vật nuôi…áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất. Đầu tư cơ sở hạ
tầng thủy lợi, giao thông nông thôn, hỗ trợ vốn cho các chương trình khuyến nông
trên địa bàn.
- Khuyến khích các hình thức hợp tác trong nghiên cứu ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất một cách hợp lý.

- Định hướng, bố trí sản xuất cây trồng vật nuôi phù hợp, khoa học cả về tự nhiên
lẫn tác động của con người vào quá trình sinh trưởng và phát triển.
- Tổ chức các dịch vụ kỹ thuật như bảo vệ thực vật, thú y, thủy lợi…Bên cạnh đó
cần hoàn thiện các hệ thống khuyến nông ở các cơ sở xã. Đây là vấn đề không thể
thiếu cho sự phát triển kinh tế hộ nông dân của huyện.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đối với huyện Quảng Điền, nông nghiệp luôn là ngành kinh tế chủ đạo trong phát
triển kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển của cả nước, các chủ trương chính
sách lớn về phát triển kinh tế nông nghiệp được triển khai thực hiện rộng rãi toàn
huyện.
Huyện chú ý đến đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp,
phục vụ dân sinh. Mặc dù đã có sự nỗ lực của các cấp, các ngành, chính quyền địa
phương và toàn dân song kinh tế nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng của huyện, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết. Kết quả đạt được còn
thấp, các thế mạnh tiềm năng nông nghiệp chưa được khai thác hiệu quả, chưa có
chiến lược lâu dài phát triển nông nghiệp. Việc huy động sử dụng các nguồn lực,
thâm canh tăng năng suất lao động, đẩy mạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp còn
nhiều khó khăn. Hoạt động sản xuất nông hộ phân tán, nhỏ lẻ, manh mún, hao tổn
trong thu hoạch, bảo quản lớn, giá thành sản xuất cao, giá bán thấp, thu nhập nông
dân thấp, đời sống còn nhiều khó khăn.
2. Kiến nghị
 Tăng cường năng lực cho nông hộ, định hướng các loại hình sản xuất nông
nghiệp chính
Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sản xuất nông nghiệp cho nông
dân và cán bộ làm công tác quản lý nông nghiệp. Thực hiện liên kết đào tạo với
các trường dạy nghề của tỉnh, cử người đi học các lớp nâng cao kỷ thuật tổ chức
sản xuất nông nghiệp, tăng khả năng thương mại trong nông nghiệp. Xây dựng cơ
chế hỗ trợ đào tạo nhóm nông dân nòng cốt, phát huy vai trò của nhóm nông dân
này trong việc xã hội hóa kiến thức phát triển kinh tế nông nghiệp. Cấp tài liệu sản

xuất nông nghiệp đơn giản dễ đọc, dễ hiểu và hướng dẫn để nông dân thực hiện.
Định hướng các loại hình kinh tế cho nông dân, tương ứng với quy mô, mức độ
ảnh hưởng và tạo ra hiệu quả kinh tế nông nghiệp.
 Thâm canh tăng năng suất cây trồng, con vật nuôi phù hợp
Cần tổ chức triển khai ứng dụng nhanh các thành tựu của khoa học và kỹ thuật vào
sản xuất nông, lâm, thuỷ sản. Đầu tư trang thiết bị máy móc, giống mới chất lượng
năng suất cao chống chịu bệnh tốt, ứng dụng khoa học công nghệ phù hợp với
điều kiện tự nhiên. Cũng như trình độ canh tác của nhân dân trên địa bàn huyện
nhằm không ngừng tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, rút ngắn chu kỳ sản xuất,
nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích.
 Giải pháp về thị trường sản xuất
Nắm bắt thị trường, dự báo giá cả, nhằm định hướng sản xuất nông nghiệp hợp lý.
Liên kết doanh nghiệp hỗ trợ sản xuất. Thành lập các Hội liên kết nhà nông chủ
động tiêu thụsản phẩm, ngăn chặn hiệu quả tình trạng tư thương ép giá. Tăng
cường xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm nông nghiệp, xây dựng thương
hiệu nông sản trên địa bàn. Cần kiểm soát tốt thị trường đầu vào phục vụ nông
nghiệp như giống, phân bón, thức ăn, thuốc bảo vệ thực vật. Tổ chức tốt hoạt động
của các chợ trên địa bàn, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm, tăng thu nhập để tái
đầu tư.
 Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp và tổ chức hệ thống nông
nghiệp theo hướng nông thôn mới
Tranh thủ các nguồn vốn ngân sách cấp trên, ngân sách địa phương, vốn tín dụng,
vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn các chương trình mục tiêu Quốc gia vào đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn. Tăng cường năng lực cho nông
hộ, chủ trang trại.
Hỗ trợ xây dựng các mô hình sản xuất mới, nhân rộng mô hình có hiệu quả, hỗ trợ
lãi xuất vốn vay để nông dân đầu tư sản xuất nông nghiệp.
Đẩy mạnh tổ chức lại hệ thống nông nghiệp theo hướng nông thôn mới. Tập trung
thực hiện các tiêu chí nông thôn mới, bao gồm: tập trung đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng nông thôn.

Quy hoạch phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản thành vùng sản xuất hàng
hóa tập trung. Đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ
tiên tiến vào sản xuất, trọng tâm là công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất, thu
hoạch và bảo quản. Khuyến khích các hoạt động tiêu thụ nông sản. Xây dựng
mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, thú y, bảo vệ thực vật ở cơ sở. Hỗ trợ
khuyến khích phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp để áp dụng có hiệu
quả các tiến bộ khoa học kỷ thuật và sản xuất.
 Phát huy vài trò của Nhà nước về phát triển kinh tế nông nghiệp
Tăng cường sự lãnh đạo của các Cấp ủy Đảng, năng lực triển khai thực hiện của
hệ thống chính quyền từ huyện đến cơ sở thực thi các chính sách của Nhà nước về
phát triển kinh tế nông nghiệp. Xác định được tầm quan trọng và mối quan hệ hữu
cơ giữa phát triển kinh tế nông nghiệp với giải quyết các vấn đề xã hội.
Trên cơ sở các mục tiêu, chỉ tiêu lớn đặt ra, các cấp, các ngành cần hoạch định các
chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, kết hợp đồng bộ sự phát triển
các ngành kinh tế khác. Cần có cơ chế vận dụng linh hoạt, phù hợp để nhận được
sự đồng tình hưởng ứng nhân dân.

×