Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TLH xúc cảm, tình cảm và nhân cách của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.62 KB, 13 trang )

XÚC CẢM – TÌNH CẢM VÀ NHÂN CÁCH CỦA SINH VIÊN

1. Xúc cảm – tình cảm của sinh viên
Giai đoạn lứa tuổi thanh niên sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại
tình cảm cấp cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ, tình bạn, tình
yêu. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống của sinh
viên bởi vì nó mang tính hệ thống, bền vững và ổn định hơn rất là nhiều so với những
giai đoạn lứa tuổi trước đó.
1.1.
Tình cảm trí tuệ
Tình cảm trí tuệ là những tình cảm nảy sinh trong q trình hoạt động trí tuệ, liên quan
đến những q trình nhận thức và sáng tạo, sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu
nhận thức của con người, phản ánh thái độ của con người đối với các tư tưởng, các q
trình và kết quả của hoạt động trí tuệ.
Tình cảm trí tuệ phát triển ở lứa tuổi sinh viên chúng ta, được biểu hiện ở sự say mê tìm
kiếm, khám phá và mở rộng kiến thức, tìm hiểu sâu những môn học, chuyên ngành khoa
học cụ thể với mục đích trở thành chuyên gia về các lĩnh vực nhất định.
Vd: Chúng ta là những sinh viên theo học ngành tâm lý thì trong quá trình học tập, chúng
ta không chỉ tiếp thu kiến thức từ bài giảng mà có thể tự học, tìm kiếm thêm thơng tin, tài
liệu liên quan đến các môn đang học hay ngành học của mình với mục đích sau khi ra
trường có thể làm được những công việc nằm trong lĩnh vực mà mình đã được đào tạo.
Sự phát triển trí tuệ của sinh viên được biểu hiện qua:
-

Hoạt động nhận thức gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học
Nhận thức của sinh viên có tính mở rộng, sở trường được bộc lộ trong nhiều lĩnh
vực
Phạm vi hoạt động nhận thức của sinh viên đa dạng
Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ, sáng tạo cao, tư duy
theo hướng phân tích, diễn giải, chứng minh các tiền đề khoa học.


Hầu hết sinh viên biểu lộ sự chăm chỉ, say mê của mình đối với ngành học và nghề
nghiệp đã chọn. Ngoài việc học tập ở trên lớp hay thư viện, sinh viên cịn tích cực khám
phá tri thức bằng nhiều cách tự học khác nhau (như đọc thêm sách, tài liệu, học hỏi các
anh chị khóa trước…). Vì vậy những sinh viên có tình cảm trí tuệ ở mức cao thường có
tri thức sâu rộng hơn so với những sinh viên có tình cảm trí tuệ ở mức thấp.
Tình cảm nghề nghiệp là một động lực giúp sinh viên học tập một cách chăm chỉ, sáng
tạo khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề mà mình lựa chọn.


1.2.
Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mĩ
Khác với các giai đoạn lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh
viên được biểu lộ theo chiều sâu một cách rõ rệt. Nó khơng chỉ dừng lại ở mức độ cảm
tính. Khi yêu thích cái gì họ đều có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở.
Ví dụ như khi đưa ra ý kiến, lựa chọn của mình về một vấn đề, sinh viên thường không
chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra đáp án là tôi chọn cái này, cái kia mà cịn nêu lên quan
điểm, giải thích vì sao mình lại lựa chọn như vậy.
Điều này có thể lý giải tại sao ở lứa tuổi này, sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng,
có thể định hình cho mình phong cách riêng…
Sinh viên là người yêu vẻ đẹp, thể hiện ở hành vi, phong thái đạo đức cũng như vẻ đẹp
thẩm mỹ ở các sự vật, hiện tượng. Sinh viên xây dựng cho mình triết lý về cái đẹp, các
quan điểm về vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật, hiện tượng và có thể theo chiều hướng tương
đối ổn định.
Sinh viên sẽ chú ý đến ngoại hình của mình nhiều hơn, có ý thức chăm chút hơn cho bản
thân và định hình phong cách theo các xu hướng dễ dàng hơn.
Vd: Mình đã từng nghe nhiều người nói đùa kiểu như là sau khi lên đại học thì phần lớn
ai cũng đều lột xác, nhất là các bạn nữ, họ trở nên xinh đẹp hơn, khác hơn rất nhiều so
với thời gian trước đó. Sự thay đổi này có thể đến từ một số tác động như việc giảm cân,
niềng răng, thay đổi cách ăn mặc… Điều này cũng chứng tỏ sự phát triển về tình cảm
thẩm mĩ của sinh viên.

Sinh viên cũng bắt đầu hình thành các khn mẫu mơ ước về tài năng, ngoại hình (vd:
khi ngưỡng mộ cá nhân nào đó trong một lĩnh vực cụ thể, sinh viên thường có xu hướng
phát triển bản thân mình giống với người đó về phong thái, cách nói chuyện, cách truyền
đạt kiến thức…).
1.3.
Tình bạn
Giai đoạn này, cả tình bạn cùng giới và khác giới đều phát triển theo chiều sâu. Tình bạn
được nâng lên ở mức tình đồng chí (cùng chí hướng). Tiêu chí kết bạn ở lứa tuổi này là
sự tâm tình, thân mật, tình cảm ấm áp và cùng chí hướng phấn đấu vì giá trị nào đó. Điều
này khác với tiêu chí bạn bè ở những giai đoạn lứa tuổi trước đó, chỉ đơn thuần là những
người bạn có cùng thói quen, tính cách, sở thích với nhau…
Những người bạn thời trung học phổ thơng thường vẫn tiếp tục chiếm vị trí quan trọng.
Đối với nhiều người, tình bạn này kéo dài mãi mãi bởi đây là những tình cảm rất trong
sáng và sâu sắc. Bên cạnh những người bạn thời Trung học, sinh viên cịn có thêm những
mối quan hệ bạn mới khơng kém phần bền vững ở nơi mình học tập, làm việc. Tình cảm
bạn bè làm phong phú thêm đời sống, tâm hồn, nhân cách của sinh viên.


Tính chất và mức độ tâm tình ở sinh viên có sự khác nhau về giới. Nhìn chung, nhu cầu
tình bạn thân mật ở các bạn nữ xuất hiện sớm hơn so với các bạn nam.
Một trong những điểm nổi bật trong tình bạn tuổi sinh viên là tính xúc cảm cao. Trong
nhiều trường hợp, tình bạn khác giới ở lứa tuổi sinh viên có đặc điểm của tình u nam
nữ. Trên thực tế cũng có nhiều trường hợp từ tình bạn khác giới chuyển sang tình u và
có thể cũng nhau đi đến hơn nhân.
Có thể nói tình bạn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm và nó để lại dấu ấn
sâu sắc trong suốt cuộc đời của sinh viên. Có nhiều mối quan hệ trong giai đoạn này được
lưu giữ và duy trì trong suốt khoảng thời gian về sau.
1.4.
Tình yêu
Bên cạnh tình bạn, tình yêu ở sinh viên cũng phát triển với một sắc thái mới. Sinh viên

khi này đón nhận tình u với vị thế xã hội mới, trình độ học vấn cao hơn và nhân cách
phát triển toàn diện hơn , khác hồn tồn với các lứa tuổi trước đó.
Tình u nam nữ là một đặc trưng tâm lý của lứa tuổi sinh viên. Nó thể hiện khơng đồng
đều ở mỗi người, phụ thuộc vào hoàn cảnh, quan niệm, kế hoạch đường đời… của mỗi cá
nhân. Đồng thời trong tình yêu, sinh viên cũng gặp phải nhiều mâu thuẫn nội tại như:
Thời gian dành cho việc học, cho tình yêu, kinh tế… Trong khi giải quyết mâu thuẫn này,
sinh viên gặp không ít khó khăn và có thể dẫn tới bế tắc. Do vậy nhiều sinh viên đã chọn
cho mình con đường tập trung học tập trong thời gian học đại học. Cách này mang lại
hiệu quả trong học tập đối với sinh viên, giúp sinh viên vững vàng và chín chắn hơn
trong đời sống.
Nhưng nhìn chung, tình yêu ở sinh viên rất đẹp, lãng mạn và có trách nhiệm. So với tình
yêu ở lứa tuổi thanh niên học sinh, tình yêu ở lứa tuổi sinh viên mang tính ổn định, hiện
thực và sâu sắc hơn, có thể hướng tới hơn nhân.
Tuy nhiên có khơng ít sinh viên vẫn cịn mơ mộng, mạo hiểm và thiếu trách nhiệm trong
tình yêu dẫn tới một số hậu qua tiêu cực như: Bị nhiễm các căn bệnh lây qua đường tình
dục hoặc phải nạo phá thai do thiếu kiến thức về an tồn tình dục và sức khỏe sinh sản.
Những điều này có thể gây ảnh hưởng nặng nề và kéo dài đối với sức khỏe thể chất và
tinh thần. Nhiều cặp đôi đã phải chia tay trong tâm trạng chán nản, thất vọng và mất niềm
tin vào tình u chân chính.

2. Nhân cách sinh viên
2.1. Vấn đề chung về nhân cách
• Khái niệm
Ở góc độ Tâm lý học, nhân cách được hiểu “như là bộ mặt tâm lý, bao gồm một hệ thống
thái độ của con người với bản thân và xung quanh dựa trên một động cơ đúng đắn, vươn


theo một lý tưởng cao cả”[110, tr. 29]. Hoặc theo Phạm Minh Hạc “nhân cách là tổ hợp
các thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với tự nhiên, thế
giới đồ vật do loài người sáng tạo, với xã hội và với bản thân”[42, tr.21].

Như vậy, nhân cách xem xét dưới góc độ tâm lý học là chủ yếu hướng vào hệ thống thái
độ của con người đối với mọi vật xung quanh.
• Cấu trúc của nhân cách
Tâm lý học phân chia cấu trúc của nhân cách thành bốn khối sau:
- Xu hướng của nhân cách: là hệ thống những động lực thúc đẩy, quy định tính lựa chọn
của các thái độ và tính tích cực của con người.
- Những khả năng của nhân cách: bao gồm một hệ thống các năng lực, bảo đảm cho sự
thành công của hành động.
- Phong cách hành vi của nhân cách: do tính cách và khí chất của nhân cách quyết định.
Tính cách là hệ thống thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và bản thân,
được thể hiện trong hành vi của họ.
- Hệ thống điều khiển của nhân cách hoặc gọi là “tự ý thức” của nhân cách: thể hiện sự tự
điều chính, tăng cường hay làm giảm bớt hoạt động, tự kiểm tra, sửa chữa các hành vi,
hành động, dự kiến và hoạch định cuộc sống cũng như hành động của cá nhân.
• Q trình hình thành nhân cách của từng người
Nhân cách con người chịu sự quy định của nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố cơ
bản là:
- Về tiền đề sinh học
- Về hoàn cảnh sống (bao gồm tự nhiên và xã hội)
- Hoạt động của cá nhân (thế giới quan cá nhân)
Như vậy, ta có thể kết luận rằng Nhân cách khơng phải là cái có sẵn hay có bẩm sinh
trong mỗi con người mà nhân cách là kết quả của quá trình hình thành, lọc bỏ, phát triển
lâu dài của mỗi người gắn với hoạt động lao động, giáo dục, giao tiếp xã hội
2.2. Xu hướng phát triển nhân cách của sinh viên
Nhân cách sinh viên là nhân cách của người trẻ đang được chuẩn bị để thực hiện chức
năng người lao động có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của
xã hội.
Có thể hình dung q trình phát triển nhân cách sinh viên như sau:



Năm thứ nhất: Sinh viên chưa có những phẩm chất nghề nghiệp thuộc ngành nghề nhất
định. Tuy nhiên họ đã có một số phẩm chất tương đối ổn định, tiêu biểu cho lối sống ở
gia đình, địa phương mình. Do vậy trong tập thể sinh viên năm nhất thường có sự va
chạm mạnh, mâu thuẫn với nhau. Trong quá trình làm quen với cuộc sống thời gian đầu ở
trường đại học, sinh viên thường có hành vi bắt chước lẫn nhau thể hiện bước đầu sự
đồng nhất xã hội.
Năm thứ hai:Sinh viên đã dần quen với các hình thức giảng dạy và giáo dục ở các trường
đại học. Quá trình thích ứng với hoạt động học tập đã cơ bản hoàn thành.
Năm thứ ba: Hứng thú với hoạt động khoa học và học tập chuyên môn được phát triển
theo chiều hẹp và sâu của nghề nghiệp đã chọn (vào chuyên ngành). Những phẩm chất có
liên quan và phù hợp với nghề nghiệp tương lai được phát triển mạnh.
Năm cuối: Sinh viên đi thực tập tại các cơ sở thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Khi
đi thực tập, sinh viên được thể nghiệm mình trong đời sống, đối chiếu, đánh giá lại các
giá trị có liên quan tới nghề nghiệp của mình, tích cực tìm tịi các thơng tin có liên quan
tới nghề nghiệp và rèn luyện các kỹ năng cần thiết.
(Sơ đồ trình bày trên PPT)
Năm 1



Năm 2

Thể hiện



Năm 3

Q trình




Năm cuối

Bắt đầu vào
chun ngành




Đi thực tập

bước đầu sự

thích ứng với

thống nhất xã

hoạt động

hội

học tập cơ

liên quan tới

bản hoàn

nghề nghiệp


tịi thơng tin

thành

tương lai phát

nghề nghiệp,

triển mạnh

kỹ năng cần



Phẩm chất

Được thể
nghiệm



Tích cực tìm

thiết

 Như vậy, nhân cách sinh viên chủ yếu được bộc lộ, hình thành và phát triển trong
hoạt động và thông qua hoạt động.

Nhân cách sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú, bao gồm những đặc trưng
như sau:



2.3. Khả năng tự đánh giá, tự ý thức
• Tự ý thức
Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, giúp sinh viên hiểu biết về thái độ,
hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình theo những u cầu địi
hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội.
Mức độ phát triển sự tự ý thức, tự đánh giá của sinh viên có liên quan đến trình độ học
lực, kế hoạch sống trong tương lai của họ. Những sinh viên có kết quả học tập cao thường
chủ động, tích cực trong việc tự nhìn nhận, tự đánh giá, kiểm tra hành động, thái độ cư
xử, cử chỉ giao tiếp nhằm hướng tới sự hoàn thiện bản thân. Ngược lại, những sinh viên
có kết quả học tập thấp dễ tự đánh giá khơng phù hợp. Có một số sinh viên tự đánh giá
mình quá cao thường bị động trong học tập, nhu cầu giao tiếp thường mạnh hơn nhu cầu
nhận thức. Hoạt động của họ chủ yếu vào các quan hệ. Ngược lại một số sinh viên đánh
giá mình quá thấp thường bi quan trước kết quả học tập, thụ động trong quan hệ giao tiếp
với bạn bè, ít phấn đấu vươn lên trong học tập nên việc tự giáo dục, tự hồn thiện đạt
mức thấp.
• Tự đánh giá
Tự đánh giá về mức độ trí tuệ là thành phần quan trọng trong tự ý thức, tự giáo dục ở sinh
viên. Những sinh viên đánh giá mình quá thấp về mặt này thường gây khó khăn cho họ
trong q trình học tập. Vì vậy cần giúp những sinh viên này thay đổi sự tự đánh giá ở
mức lạc quan, tự tin hơn tạo điều kiện cho sự vươn lên trong học tập và phấn đấu, rèn
luyện nhân cách.
Khả năng tự đánh giá ở sinh viên phát triển mạnh với những biểu hiện phong phú, sâu
sắc.
Tự đánh giá ở tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức mà đối tượng nhận thức chính là
bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thơng tin về chính mình, chỉ ra được
mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân => từ đó có thái độ hành vi, hoạt động phù hợp
nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển.
Đặc điểm tự đánh giá ở sinh viên mang tính tồn diện và sâu sắc. Sinh viên khơng chỉ

đánh giá hình ảnh bản thân qua vẻ bề ngồi mà còn đi sâu vào các phẩm chất, giá trị của
nhân cách. Tự đánh giá của sinh viên không chỉ trả lời câu hỏi “Tơi là ai?” mà cịn là: Tơi
là người thế nào? Tơi có những phẩm chất gì? Tơi có xứng đáng khơng? Tại sao tơi là
người như thế?...
Những cấp độ đánh giá vừa đề cập này mang yếu tố phê phán, phản tỉnh rõ rệt giúp sinh
viên ý thức được rõ hơn “cái tôi” của bản thân và địa vị xã hội của mình trong gia đình,
nhà trường, xã hội. Vì vậy tự đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức và ý nghĩa
tự giáo dục cao.


 Những phẩm chất nhân cách: tự đánh giá, lòng tự trọng, sự tự tin, sự tự ý thức đều
phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Chính những phẩm chất nhân cách bậc cao
này có ý nghĩa rất lớn đối với sinh viên trong việc tự giáo dục, tự hồn thiện bản
thân theo hướng tích cực.
2.4. Sự phát triển định hướng giá trị
Định hướng giá trị là những đặc điểm cơ bản, quan trọng đối với đời sống tâm lý sinh
viên. Đó là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định
hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó.
Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên, đầu tuổi thanh niên khi họ
đứng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên ngành.
Về những định hướng giá trị đối với nhân cách, đa số sinh viên đã chọn và nhấn mạnh
các phẩm chất sau đây ngoài những giá trị chung khác: có tư duy kinh tế, biết tính tốn
hiệu quả, năng động, nhanh thích nghi với hồn cảnh,… sử dụng thành thạo ngoại ngữ,
dám nghĩ, dám làm, chấp nhận mạo hiểm.
Những định hướng giá trị nghề nghiệp được sinh viên lựa chọn là: biết xây dựng cuộc
sống gia đình hồ thuận, nghề có thu nhập cao, nghề phù hợp sức khoẻ, trình độ…, nghề
phù hợp hứng thú, sở thích, nghề có điều kiện chăm lo gia đình,…
Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch
tương lai của họ. Những ước mơ, hồi bão, lý tưởng của thời kì trước dần được thực hiện,
điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường đại học, cao đẳng.

2.5. Xây dựng kịch bản đường đời
Tuổi thiếu niên và thanh niên học sinh đã có kế hoạch đường đời nhưng đó chỉ là những
phác thảo có tính đại cương và mơ hồ. Khi vào các trường đại học, hầu hết sinh viên đều
có kịch bản riêng cho mình về đường đời sẽ đi, sự kì vọng về một tương lai gần và viễn
cảnh cuộc đời. Từ đó => vạch ra một kế hoạch chi tiết nhằm đạt được kì vọng đó.
Xuất phát từ các định hướng giá trị khác nhau, mỗi sinh viên xây dựng cho mình kịch bản
riêng. Có người nghĩ đến việc sau khi học xong đại học sẽ tiếp tục học lên cao học,
nghiên cứu sinh…; có người dự định về một cơng việc trong tương lai và tích cực chuẩn
bị để đáp ứng các yêu cầu của nó; cũng có người nghĩ đến việc sau khi ra trường sẽ kết
hơn và xây dựng gia đình hạnh phúc…
Đa số sinh viên sử dụng kịch bản đường đời như một bản kế hoạch để tổ chức các hành
động của mình trong q trình học tập, thậm chí thay đổi cả định hướng giá trị nghề cũng
như các hoạt động khác. Nhiều sinh viên đã cố gắng vượt qua khó khăn để thực hiện kịch
bản của mình. Tuy nhiên, khơng ít sinh viên bỏ dở giữa chừng.
Trong quá trình xây dựng kịch bản đường đời, sinh viên thường xuyên đặt cho mình các
câu hỏi và tự trả lời hoặc trao đổi với bạn bè hay người thân: Tương lai của tôi sẽ như thế


nào? Có nên lấy vợ (chồng) ngay sau khi ra trường hay không? Con đường sự nghiệp sẽ
như thế nào?… Chính trong q trình trao đổi như vậy, nhiều sinh viên có cơ hội làm
sáng tỏ hoặc chính xác hơn kế hoạch đường đời của mình.
2.6. Phát triển xu hướng nhân cách cá nhân
Lứa tuổi sinh viên là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Trong giai đoạn này, sinh
viên có sự biển đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang và định hướng giá trị xã hội có liên
quan đến nghề nghiệp, đồng thời bắt đầu thể nghiệm mình trong các lĩnh vực hoạt động
khác nhau.
Mặc dù nhân cách được hình thành và phát triển trong suốt cả đời người, nhưng trong
thời kì này là giai đoạn hình thành mạnh mẽ nhất về xu hướng nhân cách người lao động.
Sự hình thành nhân cách nghề của sinh viên được diễn ra theo các hướng cơ bản sau:
-


Xu hướng nghề và các năng lực cần thiết của nghề được hình thành, củng cố và
phát triển
Hoạt động nhận thức, đặc biệt là các quá trình nhận thức được nghề nghiệp hố
Kì vọng đối với nghề nghiệp được phát triển
Khả năng tự giáo dục, tự tu dưỡng được nâng cao
Tính độc lập và tâm thế sẵn sàng đối với nghề nghiệp được củng cố.

Quá trình phát triển nhân cách của sinh viên diễn ra trong suốt quá trình học tập từ năm
đầu đến năm cuối ở các trường đại học, cao đẳng.
2.7. Phân loại kiểu nhân cách sinh viên
Dựa vào các cơng trình nghiên cứu, các tác giả Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị chia
sinh viên thành sáu kiểu điển hình sau:
Kiểu 1: Sinh viên học xuất sắc cả về chuyên mơn và các lĩnh vực khoa học chung, có
niềm tin chính trị rõ ràng, có nền tảng văn hố chung cao, tích cực tham gia nghiên cứu
khoa học và các hoạt động xã hội. Họ gắn bó với tập thể bằng các hứng thú đa dạng. Đây
chính là các sinh viên thực sự ưu tú.
Kiểu 2: Sinh viên học khá, coi học tập một lĩnh vực chuyên môn nhất định là mục đích
duy nhất ở trường đại học, quan tâm tới khoa học và nghiên cứu khoa học trong khuôn
khổ của chương trình đào tạo, nhiệt tình tham gia hoạt động xã hội và quan hệ với bạn bè,
gắn bó với tập thể bằng các hứng thú học tập, nghề nghiệp.
Kiểu 3: Sinh viên học xuất sắc về lĩnh vực khoa học chun mơn. Những sinh viên này
có hứng thú và hoạt động chủ yếu đối với lĩnh vực khoa học; gắn bó với tập thể bằng các
hứng thú khoa học; khơng nhiệt tình với các hoạt động quần chúng như các hoạt động
đoàn thanh niên, hội sinh viên…
Kiểu 4: Sinh viên học trung bình và khá. Những sinh viên này quan tâm đến khoa học xã
hội ngồi chương trình đào tạo. Thường không tự nguyện tham gia các hoạt động nghiên


cứu khoa học, văn hóa chung được giới hạn trong phạm vi hứng thú nghề nghiệp, tích

cực trong cơng tác xã hội…
Kiểu 5: Sinh viên học trung bình và khá, không tham gia nghiên cứu khoa học. Những
sinh viên này thường khơng tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Gắn bó với tập thể
bởi các hứng thú giải trí và văn hóa. Có khả năng sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật
Kiểu 6: Sinh viên học yếu, không tham gia nghiên cứu khoa học, không yêu nghề, thụ
động các hoạt động xã hội. Hứng thú các hoạt động vui chơi giải trí. Gắn bó với tập thể
bởi các hoạt động nghỉ ngơi, giao lưu…
(Tóm tắt nội dung bằng bảng)
Học lực
Kiểu 1
Kiểu 2
Kiểu 3
Kiểu 4
Kiểu 5
Kiểu 6

Hoạt động NCKH

Xuất sắc về lĩnh vực chun Tích cực
mơn và các lĩnh vực chung
Khá, coi trọng lĩnh vực chuyên Tích cực nhưng
mơn
trong khn khổ
nhất định
Xuất sắc về lĩnh vực chun Có hứng thú
mơn
Trung bình, khá
Khơng tích cực
Quan tâm đến khoa học, xã hội

ngồi chương trình đào tạo
Trung bình, khá
Khơng tham gia
Có khả năng sáng tạo trong lĩnh
vực nghệ thuật
Yếu
Không tham gia
Hứng thú với các hoạt động vui
chơi, giải trí

Hoạt động xã
hội
Tích cực
Tích cực
Khơng tích cực
Tích cực
Tích cực
Khơng tích cực

Việc nghiên cứu những kiểu loại nhân cách sinh viên có ý nghĩa thực tiễn to lớn, góp
phần giúp các nhà giáo dục tìm ra các biện pháp cụ thể để việc dạy học ở trường đại học
đạt kết quả cáo hơn.


3. So sánh giữa thanh niên học sinh và thanh niên sinh viên
3.1. Khả năng tự ý thức
Thanh niên học sinh
Đối với thanh niên học sinh, khả năng tự ý thức của các em đã phát triển đạt tới mức
năng lực, mang tính tồn diện và sâu sắc. Các em có nhu cầu tìm hiểu về bản thân cũng
như đánh giá và xây dựng hình ảnh bản thân. Ngoại hình được các em chú ý và dành

nhiều thời gian hơn cho việc chăm sóc bản thân, đồng thời coi đó là một giá trị cá nhân
quan trọng.
Bên cạnh đó, thanh niên học sinh cũng đã chú ý tới các phẩm chất và khả năng bên trong
của bản thân mình. Các em thường liệt kê các phẩm chất cũng như năng lực của bản thân
và đánh giá sự cần thiết, so sánh chúng với vị trí của mình trong các mối quan hệ, với
mong đợi của người lớn. Việc thường xuyên tự đánh giá như vậy cũng giúp các em tự ý
thức, tự xem xét xem những điều ấy có giúp mình đạt được những mục tiêu đặt ra như
mục tiêu học tập, mục tiêu tình cảm, mục tiêu nghề nghiệp…hay chưa.
Các em khơng chỉ so sánh bản thân mình với lý tưởng sống đã chọn mà còn so sánh với
những hình mẫu mà mình theo đuổi. Yếu tố thường được các em lựa chọn để so sánh là
phẩm chất, khả năng, mục đích sống hay giá trị xã hội. Thanh niên học sinh suy nghĩ và
nhận xét về bản thân mình ở cả trong hiện tại và tương lai, đánh giá về cả những hành vi
riêng lẻ và khái quát nhiều phẩm chất hành vi của mình.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hình ảnh bản thân của các em là: vị trí của
bản thân trong gia đình, trong trường học và xã hội; yêu cầu cảu người lớn đối với các em
trong giao tiếp; yêu cầu của hoạt động học tập ở trường; mục tiêu trong cuộc đời của các
em
Thanh niên sinh viên
So với giai đoạn thanh niên học sinh, sự tự ý thức của sinh viên đã được phát triển mạnh
mẽ hơn và trở nên hồn thiện. Sinh viên khơng chỉ đánh giá bản thân mình qua hình thức
bên ngồi mà cịn đi sâu vào nội dung các phẩm chất, các giá trị của nhân cách bên trong
như danh dự, lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm…và cả năng lực cá nhân. Việc liệt kê,
đánh giá những phẩm chất, năng lực của bản thân mà đã đã khơng cịn được thực hiện
thường xun như trước bởi sinh viên đã nhận thức rõ hơn về mình. Họ có thể tự trả lời
các câu hỏi tự đánh giá mang tính phản tỉnh rõ rệt như “Tơi là người như thế nào?”, “Tại
sao tôi lại là người như thế?”, “Tơi có những phẩm chất gì?”…
Nếu như thanh niên học sinh tự so sánh mình thơng qua các lý tưởng sống hoặc hình mẫu
bản thân theo đuổi thì sinh viên cịn tự đánh giá bản thân mình thơng qua sự đối chiếu, so
sánh, học hỏi từ những người khác cũng như nhận xét, đánh giá của họ. Qua đó sinh viên



có thể tự nhận thức và điều chỉnh bản thân mình, nhận ra những khiếm khuyết để bổ sung
những phẩm chất nhân cách cần thiết cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Tự đánh giá và tự ý thức là cơ sở của sự tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng
tích cực ở sinh viên. Tuy nhiên sinh viên chỉ có thể tự giáo dục bản thân khi họ hiểu rõ về
chính mình.
Ví dụ: Hoạt động chọn nghề
3.2. Thế giới quan khoa học
Thanh niên học sinh
Thế giới quan khoa học hay còn gọi là quan điểm sống. Đây là thời kì thanh niên học sinh
xây dựng quan điểm sống cho bản thân mình. Những biểu hiện trong quá trình xây dựng
quan điểm sống ở các em là: Thường xuyên quan tâm tìm hiểu và trao đổi đến những
nguyên tắc chung của cuộc sống, quan tâm đến vai trò của con người trong lịch sử, quan
hệ giữa con người với con người, ý nghĩa của cuộc sống…Sự hình thành quan điểm sống
ở các em là cả một quá trình, từ những điều được người lớn chỉ dạy lúc nhỏ đã được các
em phân tích, tổng hợp và khái quát thành những suy nghĩ, quan điểm của mình để xây
dựng một hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội và con người.
Các em cũng đồng thời đang tìm kiếm, lựa chọn và xây dựng lý tưởng sống cho bản thân
mình. Quá trình hình thành quan điểm sống của thanh niên học sinh cũng chịu ảnh hưởng
từ nhiều yếu tố, đặc biệt là hoàn cảnh xã hội nơi các em sinh sống, điều kiện kinh tế gia
đình, sự hướng dẫn, giáo dục của gia đình và nhà trường, quan điểm và lối sống của
người lớn xung quanh cũng như sự ảnh hưởng từ nguồn thông tin đa dạng từ các thiết bị
công nghệ, nguồn tin internet…
Ở độ tuổi này, các em cũng có thêm nhiều hiểu biết mang tính khái qt về thế giới xung
quanh, nhờ đó có thể xác định được thái độ của mình đối với thế giới và đánh giá nó cũng
như có cái nhìn sâu sắc hơn. Vì thế quá trình hình thành quan điểm sống ở thanh niên học
sinh khơng mang tính rời rạc, hình thức mà đi vào bản chất, hệ thống.
Thanh niên sinh viên
Đến độ tuổi sinh viên, hệ thống những định hướng giá trị, quan điểm sống, giá trị làm
người, nhận thức về thế giới xung quanh… đã được hình thành tương đối ổn định và

hoàn thiện. Sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng và có thể định hình phong cách
riêng cho mình.
Sự hồn thiện về tự ý thức là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến q trình hồn
thiện quan điểm sống của sinh viên. Sinh viên ý thức và đánh giá cao được những giá trị
quan trọng từ đó định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của mình nhằm vươn
tới những giá trị đó.


3.3. Sự phát triển về nhu cầu
Thanh niên học sinh
Ở giai đoạn này, nhu cầu được tơn trọng, được bình đẳng với mọi người trong giao tiếp là
nhu cầu quan trọng và phổ biến của các em. Thanh niên học sinh không chỉ cần sự tôn
trọng từ bạn bè đồng trang lứa mà cịn rất cần sự tơn trọng ý kiến và đối xử bình đẳng từ
người lớn. Các em rất cần sự độc lập trong các quyết định của mình và tự cho là đúng.
Tuy nhiên đối với các vấn đề quan trọng của cuộc đời như chọn bạn, chọn nghề, xây
dựng quan điểm sống, hình ảnh bản thân, xây dựng tình u…các em vẫn rất cần sự góp
ý từ người lớn.
Bên cạnh đó, nhu cầu chứng tỏ bản thân ở các em cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua
việc các em thường cố tìm ít nhất một lĩnh vực nào đó trong đời sống cá nhân để khẳng
định sự hiện diện của mình. Có 2 cách thể hiện bản thân ở thanh niên học sinh: Thể hiện
tích cực như việc cố gắng học giỏi một môn học nào đó hoặc tham gia vào các câu lạc bộ
văn nghệ, học thuật ở trường và Thể hiện tiêu cực như chạy theo một trào lưu, lối sống xa
xỉ không phù hợp với lứa tuổi…
Thanh niên sinh viên
Đối với sinh viên, nhu cầu được tôn trọng tiếp tục phát triển sâu hơn trên bình diện các
mối quan hệ khác nhau và chuyển biến theo hướng “địi bình đẳng thực thụ” trong từng
tình huống.
Nhu cầu chứng tỏ bản thân cũng được phát triển hơn ở giai đoạn này. Họ có nhu cầu
muốn tự thể hiện, tự thực hiện mục đích của mình bằng khả năng phát triển nhân cách
bản thân. Điều này thôi thúc thanh niên sinh viên tự khẳng định mình một cách quyết liệt

và sẵn sàng thể hiện cái tơi của mình trong mọi hồn cảnh khác nhau của đời sống cá
nhân cũng như đời sống xã hội.
Giai đoạn này, nhu cầu xã hội của thanh niên sinh viên cũng có sự phát triển về chất rất
đặc biệt. Sinh viên có nhu cầu tham gia vào các nhóm xã hội khác nhau, sự kết nối với
các nhóm xã hội bởi nó liên quan mật thiết đến việc xây dựng kịch bản đường đời và
chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai của sinh viên. Việc tham gia trải nghiệm thực tế và có
cơ hội giao lưu, tiếp xúc trong các hoạt động xã hội như Chiến dịch mùa hè xanh, Xuân
tình nguyện, Tiếp sức mùa thi… giúp sinh viên phát triển kỹ năng sống của bản thân
mình.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thị Diệu Hoa (2008), Giáo trình Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Sư
phạm.
2. Trương Thị Khánh Hà (2013), Giáo trình Tâm lý học phát triển, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
3. Vũ Thị Nho (2000), Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Quốc gia.
4. Hồng Anh, (12.05.2021), Đặc điểm của sự hình thành và phát triển nhân cách ở
sinh viên Việt Nam hiện nay,
Truy xuất từ: />5. Tăng Văn Thạnh, (2016), Xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học trên
địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay, (Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Hàn Lâm Khoa
học xã hội Việt Nam)
Truy xuất từ: />


×