Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Lệch lạc xã hội và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.55 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC

LỆCH LẠC XÃ HỘI VÀ BIỂU HIỆN CỦA NĨ TRONG
THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 10 NĂM 2021


NHẬN XÉT CỦA GIÁO
VIÊN ....................................................................................................................................
............
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................


................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
……………............................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN


MỤC LỤC


A-LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong xã hội học, vai trò, vị thế và các hành động xã hội đều được chi phối bởi các
yếu tố xã hội, bất cứ một tổ chức, một cộng đồng một xã hội nào cũng đều có những quy
định chung để cộng đồng đó tn thủ gọi là các chuẩn mực, mục đích của chuẩn mực là
đảm bảo sự ổn định và phát triển ổn định của xã hội.
Nhưng ngày nay kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh hơn thì các biểu
hiện lệch lạc như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm, bạo lực, tham ô, hối lộ… cũng
đồng thời gia tăng gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho xã hội và nó cũng là lý do khiến chủ
đề này ngày càng nóng bỏng, đáng lo ngại cho cộng đồng xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu
Với mong muốn làm sáng tỏ vấn đề về hành vi lệch lạc trong xã hội ngày nay
cũng như vai trò và những ảnh hưởng của nó đến đời sống của cá nhân và xã hội từ đó
tìm kiếm các giải pháp phù hợp với mong muốn xã hội ngày càng tốt đẹp, đời sống con
người ngày càng hạnh phúc, lành mạnh hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tơi đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng
hợp lý thuyết, cùng với đó là liên hệ và khảo sát thực tiễn để mang lại kết quả khả thi,
chính xác nhất có thể.



B-NỘI DUNG
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ LỆCH LẠC XÃ HỘI
1.1. Lệch lạc xã hội là gì?
Lệch lạc xã hội là một khái niệm của xã hội học được định nghĩa là sự vi phạm có
nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của một nhóm hay của xã hội. Các tiêu chuẩn văn
hóa và kỳ vọng định dạng một dải rộng các hoạt động của con người nên khái niệm sự
lệch lạc cũng mang nghĩa rộng tương ứng. Một dạng hiển nhiên của lệch lạc là tội phạm,
sự vi phạm các quy phạm được ban hành chính thức thành luật pháp. Ngồi ra nó cịn là
rất nhiều những dạng khơng tuân thủ tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng khác ở rất nhiều mức độ từ
ơn hịa đến cực đoan.
Lệch lạc xã hội là một hiện tượng khơng có khn mẫu chung mà nó phụ thuộc vào
hồn cảnh lịch sử của từng xã hội. Theo cách chung nhất, để kết luận về hành vi là lệch
lạc người ta thường dựa trên kết quả hành động của cá nhân hoặc nhóm xã hội tỏ ra
khơng phù hợp với mong đợi chung của tồn xã hội. Hiện tượng lệch lạc chỉ thể hiện qua
sự tương tác giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và tập thể. Khi hành động của cá nhân
không phù hợp với những quy định của tập thể, cá nhân đó được xem là lệch lạc. Như
Becker (1961) đã nói: “Sự lệch lạc khơng phải là một đặc tính hiện diện trong một số loại
hành vi mà nằm trong mỗi động tác qua lại giữa những ai hành động và những ai đáp lại
chúng”
1.2. Bản chất của lệch lạc xã hội
Trong cuộc sống, con người thường có khuynh hướng coi sự lệch lạc là do lựa
chọn tự do hay sự thất bại của cá nhân. Tuy nhiên, vấn đề hoàn tồn ngược lại, sự lệch lạc
hay tn thủ đều có nguồn gốc xã hội:
- Sự lệch lạc chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tiêu chuẩn văn hóa, khơng có
hành động lệch lạc nào mang tính vốn có hay nói đúng hơn một hành vi được coi là lệch


lạc trong mối quan hệ với những tiêu chuẩn văn hóa cụ thể. Những tiêu chuẩn văn hóa rất
khác nhau giữa các nền văn hóa, trong mỗi nền văn hóa cũng khác nhau ở các tiểu văn

hóa, hơn nữa tiêu chuẩn văn hóa cịn thay đổi theo thời gian nên quan niệm về sự lệch lạc
cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian. "Trong các cộng đồng truyền thống ở
đảo Sicilia chẳng hạn, tiêu chuẩn hỗ trợ sự sử dụng bạo lực để trả thù một sự sỉ nhục đối
với danh dự gia đình một người nào đó" trong khi những hành động như thế rất có thể bị
bắt giam và xử tù ở Roma. Những năm gần đây, ở Việt Nam, hút thuốc lá, đặc biệt là ở
nơi công cộng được coi là hành vi lệch lạc trong khi trước đó nó là việc khá bình thường.
- Sự lệch lạc là kết quả của việc người khác xác định theo cách đó: Một hành vi có
được coi là lệch lạc hay khơng tùy thuộc vào q trình khả biến của định nghĩa xã hội,
vào cách mà người khác nhận thức tình huống. Nhà thơ Phùng Qn có thể tặng sinh nhật
người yêu bằng cách đề thơ lên một quả bí xanh nhưng một người khác làm như thế sẽ có
thể bị coi là lệch lạc trầm trọng, nếu khơng muốn nói là đã bị tâm thần.
- Cả tiêu chuẩn cũng như cách thức để xác định sự lệch lạc đều liên quan đến các
mẫu quyền lực xã hội: theo mơ hình mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là tư tưởng của Karl
Marx, tiêu chuẩn văn hóa, nhất là luật pháp, rất có thể bảo vệ quyền lợi của những người
có thế lực. Chẳng hạn, đóng cửa một nhà máy khơng cịn sinh lợi nữa nằm trong quyền
hợp pháp của chủ sở hữu nhà máy, mặc dù làm như thế sẽ khiến hàng nghìn người thất
nghiệp[3]. Mặc dù đều có những hành vi giống nhau thì trong nhiều trường hợp, người
khơng có quyền lực bị xem là lệch lạc và có thể chịu hình phạt trong khi người có quyền
lực thì khơng. Tóm lại cả tiêu chuẩn văn hóa và cách thức áp dụng chúng đều liên quan
đến các mẩu bất công xã hội.
1.3. Một số đặc điểm cơ bản của lệch lạc xã hội
- Lệch lạc tồn tại trong cách phán xét của người khác. Một số quan điểm cho rằng
lệch lạc là do xã hội tạo ra chứ không phải do chủ nhân hành động tạo ra.
- Lệch lạc xã hội thay đổi theo thời gian và tùy thuộc vào quan niệm của các nhóm
xã hội. Lệch lạc xã hội mang tính chất tương đối: khơng có lệch lạc nào bị lên án ở mọi
nơi, mọi lúc, và lệch lạc đối với mọi người.


- Lệch lạc xã hội diễn ra ở phạm vi rất rộng, nó có ở mọi nơi trên thế giới, mọi
"ngóc ngách" của xã hội. Lệch lạc xã hội có thể ở trong nhóm nhỏ xã hội, một quốc gia,

một dân tộc. Lệch lạc xã hội diễn ra ở mọi góc độ, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, tinh vi, lệch lạc có thể dẫn tới phạm tội.
- Lệch lạc xã hội có thể mang tính rõ ràng, cụ thể. Cũng có thể mang tính mơ hồ.
Ví dụ: Trong trường hợp bị bắt nạt và đàn áp , con người chúng ta phải ép buộc
phịng vệ chính đáng, nhưng không may phải giết người dẫn đến phạm tội.
- Lệch lạc xã hội thay đổi theo thời gian, nó khơng phải là bất biến. Có những cái
trước đây là chuẩn mực, này thì khơng và ngược lại.
Ví dụ: Ngày xưa, gia đình ngoại em có phong tục trọng nam khinh nữ , nhưng
hiện nay điều đó khơng cịn tiếp diễn và hoàn toàn sai trái.
- Lệch lạc xã hội khơng chỉ thay đổi theo thời gian mà cịn thay đổi theo khơng
gian. Ở đây có thể là chuẩn mực nhưng ở nơi khác thì có thể coi là lệch lạc (có thể do văn
hố, cũng có thể do quyền lực).
Ví dụ: Vào dịp tết, ngày mừng thọ mà bạn mặc trang phục quần đùi áo lá là bạn
sẽ bị kì thị.
- Lệch lạc xã hội thay đổi và khác nhau theo những hồn cảnh khác nhau. Có
những hành vi ở hoàn cảnh này người ta xem là tội phạm nhưng ở hoàn cảnh khác người
ta lại coi là đúng, thậm chí cịn tun dương, khen thưởng.
Ví dụ: Em đã giúp đỡ cụ già hàng xóm cạnh nhà em bưng vác đồ nặng để di
chuyển chỗ khác.
1.4. Quan điểm của xã hội học về lệch lạc xã hội1
Theo quan niệm thường thì hành vi lệch lạc và xấu đáng phê phán. Nhưng trong
xã hội học quan niệm hành vi lệch lạc so với chuẩn, không phản ảnh tốt xấu.
1 LỆCH LẠC XÃ HỘI, (Chỉnh sửa lần cuối 1/5/2011, 15:02), />

Ví dụ: Em đã từng xăm trổ và nhuộm tóc một cách lòe loẹt.
Hành vi lệch lạc trong xã hội học là tốt khi hệ thống chuẩn mực không phù hợp do
đó buộc cá nhân phải thực hiện lệch so với chuẩn, hệ thống chuẩn mực không chỉ là pháp
luật mà cịn là phong tục tập qn. Do đó hành vi lệch lạc trong xã hội không hẳn là hành
vi phạm pháp.
Ví dụ: Thời đại hiện nay , người phụ nữ khơng chỉ qy quần bên bếp mà cịn

được đi học , bình đẳng giới tính và bình đẳng xã hội.
Trong xã hội hầu như như ko có tổ chức nào ép buộc các thành viên phải phục
tùng tuyệt đối mọi quy tắc và chuẩn mực của mình. Mức độ lươn nhẹ, dễ dãi đối với
chuẩn mực đến mức độ nào thì tùy theo từng nhóm xã hội hoặc tổ chức xã hội.
Ví dụ: Theo những quy định chung của trường về luật lệ thi là 7 giờ là bắt đầu thi,
thí sinh có thể đi sớm hơn ổn định chỗ ngồi và trật tự chuẩn bị cho phần thi của mình.
Trong thực tế bắc kì hệ thống xã hội hoặc tổ chức xã hội nào đó cũng đều có
những “ vùng tối” trong đó con người ta có thể tự cho phép mình quy phạm quy tắc mà
khơng sợ bị trừng phạt.
Ví dụ: Trong những trường hợp em đã từng được nghe kể , một người bị tai nạn
giao thông vào đêm khuya cần sự giúp đỡ của người qua đường, nhưng những người qua
đường họ đã làm ngơ và khơng vì chỉ sợ bị lun lụy.
Nhưng vùng tối cũng là điều kiện cần thiết để một nhóm hoặc một thiết chế vận
hành bình thường.
Theo Emile Drukheim: sự lệch hướng không nhất thiết là lối cư xử tiêu cực.
Như vậy lệch lạc xã hội là một khái niệm hành động xã hội khơng hẳn đi ra ngồi
nền văn hóa của xã hội ấy, bởi vì lệch lạc có thể tiêu cực đi đến tội ác, cũng có trong xã
hội ứng với nền văn hóa, tơn giáo này nhưng có thể lại là hành vi lệch lạc xã hội đối với
nền văn hóa, tơn giáo khác.


II. VAI TRÒ CỦA LỆCH LẠC XÃ HỘI2
Khi nhắc đến lệch lạc xã hội ta sẽ nghĩ đến ngay đến những hành vi tiêu cực, tội
phạm, đánh mất bản sắc dân tộc, vi phạm đến tiêu chuẩn đạo đức xã hội, gây tổn thương
đến người khác…Thế nhưng thật sự không hẳn là tiêu cực đến vậy, theo các nhà nghiên
cứu theo mơ hình cấu trúc chức năng đã lập luận rằng: sự lệch lạc góp phần quan trọng
cho hoạt động liên tục của xã hội. Người đầu tiên đi đầu trong lĩnh vực này là nhà xã hội
học nổi tiếng Emile Durkheim, ông là người đầu tiên nghiên cứu và lập luận ra những vai
trò của sự lệch lạc đối với xã hội. Ông đã chỉ ra và khẳng định sự lệch lạc khơng có gì bất
thường, nó là một bộ phận gắn liền với xã hội, có bốn vai trị chính. Dưới đây là bốn vai

trị của lệch lạc xã hội.
1. Sự lệch lạc khẳng định giá trị và tiêu chuẩn văn hóa
Nếu xã hội chỉ có những người tốt việc tốt thì hầu như tội phạm sẽ khơng tồn tại,
nhưng trong xã hội hồn hảo đó nếu một người phạm một lỗi nhỏ thì cũng được coi là tội
phạm nghiêm trọng trong xã hội hồn hảo đó. Như thế với sự phát triển của xã hội, tiêu
chuẩn và giá trị văn hóa thì sự lệch lạc quyết định đến những điều này. Khi đó những
người hồn hảo sẽ thẳng thắn đánh giá những thất bại nhỏ nhặt hoặc những hành vi phạm
lỗi nhỏ của người khác với sự nghiêm khắc mà chỉ dành cho những kẻ phạm tội.
Ví dụ: khi tham gia giao thông, người tham gia giao thơng khơng được phép vượt
đèn đỏ, vì đó là trái với bộ luật an tồn giao thơng do nhà nước ban hành. Từ đó hình
thành nên tiêu chuẩn an tồn khi tham gia giao thông, không vi phạm luật do nhà nước
ban hành.
2. Phản ứng với sự lệch lạc làm sáng tỏ ranh giới đạo đức
Tất cả các hành vi, sự việc nào diễn ra trong xã hội sẽ được con người so sánh và
đánh giá theo tiêu chuẩn đạo đức và theo Durkheim, những phản ứng, hành vi, việc làm
của người lệch lạc với những tiêu chuẩn trên sẽ làm rõ những ranh giới giữa những hành
vi có thể chấp nhận được và không chấp nhận được trong xã hội.
2 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>

Ví dụ: sẽ rất bình thường nếu một người hút thuốc ở những nơi có một mình,
nhưng nếu họ hút ở nơi cơng cộng, nơi có trẻ nhỏ và phụ nữ thì sẽ bị coi là vơ ý thức, bị
mọi người lên án. Từ đó thấy rõ việc hút thuốc nơi công cộng là ranh giới của sự lệch
lạc.
3. Phản ứng với sự lệch lạc thúc đẩy tính thống nhất của xã hội
Sự thống nhất của xã hội không phải đến từ vài cá nhân mà là cả một cộng đồng.
Nếu cả cộng đồng đều phản ứng lại rằng đó là một hành vi lệch thì từ đó ngầm hiểu rằng
các tiêu chuẩn văn hóa của bản thân mỗi người ngầm kết hợp với nhau. Nếu sự lệch lạc
đó khơng bị ai phản ứng lại thì nó dần dần trở thành một tiêu chuẩn mới trong xã hội.
Ví dụ: Trong lúc dịch bệnh covid 19 đang bùng phát như hiện nay, có một số

người vẫn bất chấp ra đường, hành vi đó được cho là sự lệch lạc, bị cộng đồng lên án và
nhắc nhở. Nếu khơng có sự nhắc nhở này thì dần dần dịch bệnh sẽ lây lan nhanh và
khơng thể kiểm sốt được.
4. Sự lệch lạc khuyến khích sự thay đổi xã hội
Ta cần hiểu là sự lệch lạc chỉ đúng với những quy chuẩn, thời điểm cụ thể, sự lệch
lạc ở thời điểm này nhưng không có nghĩa sẽ tồn tại trong thời điểm khác. Chính sự lệch
lạc đó sẽ đưa ra những biện pháp thay thế những tiêu chuẩn hiện tại. Các giá trị lệch lạc
ngày hôm nay, một số sẽ trở thành tiêu chuẩn của mai sau.
Ví dụ: Thời phong kiến thì phụ nữ khơng được phép tham gia vào chính quyền và
bộ máy nhà nước. Nhưng hiện nay thì nam nữ đều bình đẳng, phụ nữ được nâng cao giữ
nhiều vai trò trong xã hội.
5. Lý thuyết căng thẳng của Robert Merton3
Thông qua nghiên cứu về mục đích của văn hóa Mỹ là thành cơng tài chính và các
phương cách của nó, Robert Merton khẳng định rằng “hoạt động của xã hội thực sự
khuyến khích tội phạm và các loại lệch lạc khác” (Macionis Tr.259). Bảng dưới đây cho

3 Dựa trên nghiên cứu của Robert Merton trên Wikipedia, Lệch lạc xã hội, Lý thuyết Xã hội học, Mơ hình cấu trúc – chức năng,
(Chỉnh sửa lần cuối 17/4/2021, 01:26), xã hội học)


thấy các dạng phản ứng của cá nhân tùy thuộc vào thái độ của cá nhân đó đối với mục
tiêu và phương tiện văn hóa.
Phản ứng cá nhân đối với các mẫu văn hóa thống trị4
Loại phản ứng cá nhân

Mục tiêu văn hóa

Phương tiện văn hóa

Tính tn thủ


Chấp nhận

Chấp nhận

Sự đổi mới

Chấp nhận

Từ chối

Chủ nghĩa nghi thức

Từ chối

Chấp nhận

Chủ nghĩa rút lui

Từ cối

Từ chối

Từ chối mục tiêu cũ, quảng

Từ chối phương tiện cũ,

bá mục tiêu mới.

quảng bá phương tiện mới.


Sự nổi loạn

- Mục đích của văn hóa Mỹ là thành cơng tài chính và một số phương tiện để đạt được
mục đích đó được xã hội Mỹ định hình, ví dụ như làm việc chăm chỉ, đạt được sự giáo
dục tồn diện... Từ đó những cố gắng đạt được thành cơng tài chính bằng các phương
cách như ăn trộm, tham nhũng... là sự lệch lạc. Do đó con người đạt được thỏa mãn cá
nhân không chỉ từ sự thành công mà còn từ cách thức để đạt được sự thành cơng ấy. Việc
đạt được mục đích bằng các phương tiện tiêu chuẩn được Merton gọi là "tính tuân thủ".
- Văn hóa Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng của thành cơng tài chính đã làm cho ngay cả
những người tương đối thành cơng cũng tìm cách kiếm được nhiều của cải hơn bằng các
phương cách lệch lạc kể cả phạm pháp: Như gian lận đấu thầu, tham nhũng, trốn thuế,
biển thủ công quỹ…Merton gọi các hoạt động này là "sự đổi mới" - cố gắng đạt đến mục
tiêu văn hóa bằng các phương tiện không chuẩn mực. Nguyên nhân của việc này là "sự
căng thẳng" khi mục đích lấn át tiêu chuẩn phải đạt được mục đích như thế nào.

4 Wikipedia, Lệch lạc xã hội, Lý thuyết Xã hội học, Mô hình cấu trúc – chức năng, (Chỉnh sửa lần cuối 17/4/2021, 01:26),
xã hội học)


- Đứng trước "sự căng thẳng" đó đã nảy sinh ra một cách giải quyết khác là "chủ
nghĩa nghi thức" người theo chủ nghĩa này từ bỏ mục tiêu đồng thời tuân thủ chặt chẽ các
tiêu chuẩn văn hóa để đạt được sự tôn trọng. Merton đã minh họa bằng các cơng chức cấp
thấp của những tổ chức chính thức mà ông gọi là "những người theo chủ nghĩa nghi thức
quan liêu", họ đã lệch lạc đến mức từ bỏ mục tiêu nhưng người khác xem họ là những
công dân tốt bởi lẽ họ trung thành tuyệt đối với các tiêu chuẩn văn hóa.
- "chủ trương rút lui" là một sự phản ứng khác khi không đạt được mục tiêu đó sự từ
bỏ cả mục tiêu và phương tiện văn hóa. Những người "chủ trương rút lui" là những người
bỏ cuộc trong xã hội, có thể kể ra những người nghiện rượu, ma túy, những người sống
lang thang trên hè phố... Sự lệch lạc của họ thể hiện ở chỗ sống không theo các quy ước

và trên thực tế hầu như khơng nghĩ đến việc thay đổi tình hình.
- Phản ứng cuối cùng là "sự nổi loạn", hành vi của những người không chấp nhận cả
mục tiêu lẫn phương tiện văn hóa hiện hành đồng thời tìm kiếm những mục tiêu và
phương tiện khác bằng cách ủng hộ việc thay đổi trật tự xã hội. "Các thành viên của một
tổ chức cách mạng chính trị, chẳng hạn như Quân đội Cộng hịa Ireland (Irish Republican
Army) hay các nhóm qn phiệt cánh hữu, đều có thể xếp vào loại những người nổi loạn
theo mơ hình của Merton.
- Mặc dù "lý thuyết căng thẳng" của Merton khá thuyết phục trong việc phân tích mối
quan hệ giữa sự lệch lạc và hoạt động xã hội nhưng nó vẫn có những hạn chế:
- Có nhiều sự lựa chọn để chỉ đến các thành phần trong xã hội không lý giải được tại
sao họ lại chọn nó mà khơng phải cái khác.
- Cịn nhiều loại lệch lạc mà "Lý thuyết căng thẳng" không thể giải thích được như sự
đam mê, tình dục đồng giới...
- Khi đưa ra quan niệm về mục tiêu lý thuyết của Merton bao qt mọi cá nhân đều
tìm kiếm thành cơng tài chính theo nghĩa quy ước trong khi có rất nhiều quan niệm khác
nhau về mục tiêu. Chẳng hạn một số cơng chức theo chủ nghĩa nghi thức có thể khơng bị
bắt buộc phải từ bỏ mục tiêu giàu có mà đối với họ thành công cá nhân là trở thành một
cơng chức gương mẫu, liêm chính và được nể trọng.


III.NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HÀNH VI LỆCH LẠC
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất: Tính khơng đồng bộ, khơng nhất quán trong các hệ thống quy phạm
chuẩn mực dẫn đến sự dung túng trong hành vi cá nhân. Trong trường hợp này cá nhân
phải lựa chọn những chuẩn mực này là vi phạm những chuẩn mực khác. 5
Ví dụ: Dù nhà trường và bộ Giáo dục đã quy định về việc không dạy thêm đối với
học sinh tiểu học, song, mức phạt và răn đe chưa đủ mạnh nên một số giáo viên tiểu học
vẫn còn lén thực hiện việc dạy thêm.
- Thứ hai: Tính khơng hợp lý hay bảo thủ của hệ thống chuẩn mực đương thời tạo
ra sự phản ánh trong hành vi cá nhân.6

Ví dụ: Khi một người theo đạo Thiên chúa mà kết hôn với người ngoại đạo hoặc
người khơng theo tín ngưỡng tơn giáo thì người ngoại đạo hoặc người khơng theo tín
ngưỡng tơn giáo đó buộc phải theo đạo Thiên chúa, nếu khơng họ sẽ không công nhận
mối quan hệ hôn nhân giữa hai người này. Điều đó sẽ nảy sinh các vấn đề như: từ bỏ gia
đình, tơn giáo để chạy theo tình yêu, cảm thấy phẫn uất hay bất phục mà chỉ trích tơn
giáo của người mình u,...
- Thứ ba: Tình trạng coi thường hệ thống chuẩn mực, hoặc mức độ hiệu lực thấp
của hệ thống chuẩn mực cũng là nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch hành vi, thậm chí có
thể làm cho một hành vi trở nên phổ biến.7
Ví dụ: Trong thời Covid 19, nhiều người đã bán đi sự an tồn, tính mạng của
quốc gia, nhân dân để đưa những người từ vùng dịch vượt biên chỉ vì một chút tư lợi cho
bản thân.

5 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>
6 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>
7 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>

- Thứ tư: Do sự phản ứng của xã hội đối với hành vi cá nhân (Durkheim gọi là
cảm xúc tập thể) một hành động bị cả xã hội lên án khi đó là lệch chuẩn nhưng nếu một
hành vi lệch chuẩn khơng bị phê phán thì cái lệch chuẩn trở thành chuẩn và cái chuẩn trở
thành lệch chuẩn vào một giai đoạn nào đó.8
Ví dụ : So với phụ nữ thời phong kiến, người phụ nữ ngày nay đã có quyền tham gia,
quyết định các cơng việc từ việc nhà đến việc nước (trong bộ máy nhà nước, phụ nữ đã
nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng: (Nguyễn Thị Kim Ngân: Chủ tịch Quốc hội thứ 8),...)
=> Kết luận: Nhìn chung, nhiều mặt hạn chế trong các hệ thống chuẩn mực vẫn chưa
được cải thiện: tính khơng đồng bộ, nhất quán, mức độ hiệu lực, quản lý xã hội,... Đặc
biệt, trong thời kỳ 4.0 phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội dần trở thành một phần không thể

thiếu với con người, việc thiếu tổ chức, quản lý, nhất quán về các hệ thống chuẩn mực
nói chung, vấn đề an ninh mạng nói riêng sẽ dẫn đến nhiều biến số của hành vi lệch lạc
như: cơng kích cá nhân, bn thương trái phép, truyền bá thông tin, tư tưởng sai lệch,...
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất: do điều kiện hồn cảnh gia đình phản ánh trong q trình hình thành
và phát triển nhân cách của từng cá nhân, hành vi lệch lạc xảy ra từ mọi thành viên trong
gia đình.9
-Từ cha mẹ: do điều kiện kinh tế, một số người bn gian bán lận để duy trì kinh
tế gia đình; do sự thỏa mãn tinh thần, vật chất của bản thân; do áp lực cơng việc,...
Ví dụ: Dù đã cố gắng làm việc chăm chỉ, nhưng B vẫn không thể kiếm được số
tiền mình ao ước. Được người quen giới thiệu một “việc nhẹ lương cao”. Sau khi nhận
ra đó là bn ma túy, mặc cho biết là nghề phạm pháp, B vì quá ham tiền mà đã tự nhủ
“chỉ làm một lần là có thể đổi đời”. Vì suy nghĩ đó mà anh đã bước chân vào vịng lao
lý. Lịng tham con người làm gì có đáy...
8 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>
9 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>

Ví dụ: C sinh ra đã “ngậm thìa vàng”, được nng chiều mọi thứ, muốn gì có đó.
Vì đạt được mọi thứ q dễ dàng, tính tình C ngày càng gắt gỏng, khó chịu và tham lam,
muốn gì thì phải có được ngay tức khắc, dần dần C chỉ biết sống cho mình, chả quan tâm
và tơn trọng ai.
Ví dụ: do vợ của anh B bỏ nhà đi tìm một hạnh phúc khác, anh B vì quá đau buồn
và phẫn uất vì bị phản bội mà thường xuyên đánh đập đứa con có khn mặt giống
người vợ của mình.
-Từ con cái: do sự tác động nhận thức từ phía cha mẹ, qua lối sống và nề nếp giáo
dục của đình.
Ví dụ: Cha mẹ G là giáo sư nổi tiếng, họ muốn G phải ln giành được vị trí thứ
nhất ở trường. Dưới sự áp lực nặng nề, G thường xuyên gian lận trong thi cử nhằm đạt

điểm cao để không phụ sự kỳ vọng của cha mẹ. s
Ví dụ: T vừa bước lên thành phố để học đại học, còn nhiều bỡ ngỡ và xa lạ với
thành phố, do dễ tin người, T bị một đám bạn mới quen cho hút cần sa. Từ đó, T bỏ học
và bước vào con đường nghiện ngập.
-Từ sự ủng hộ, cổ vũ, khuyến khích các hành vi phạm tội, lệch chuẩn:
Ví dụ: Biết mặt hàng của ông B kê khai trái phép, song, vì B là bạn của mình, ơng
C khơng báo cho chính quyền mà cịn hỗ trợ ơng B che giấu giấy tờ bất hợp pháp.
Ví dụ: Bạn A thường xuyên nhờ H làm bài tập hộ, biết rằng việc làm đó sẽ khơng
tốt cho A nhưng H vẫn làm vì H có thể làm nhiều bài tập để học tốt hơn. Từ đó, bạn A
hay có thói quen dựa dẫm vào người khác, sợ hãi khi tự đứng ra giải quyết vấn đề.
-Sự tác động nhận thức từ phía bạn bè, xã hội,.. Đặc biệt, sự tác động ấy dần trở
nên mạnh mẽ hơn trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay:
Ví dụ: Nhìn thấy bạn bè xung quanh ai cũng đăng lên “Facebook” những tấm
hình cá nhân rất đẹp, vì biết mình khơng có một diện mạo xinh xắn, T đã sử dụng những
công nghệ chỉnh sửa ảnh để lý tưởng hóa sắc đẹp của bản thân. Nhận được vơ số lời
khen, T dần dần đắm chìm với “sắc đẹp khơng thực” của mình trong thế giới ảo mà quên
đi bản thân mình trong thực tại.


Ví dụ: Do chịu nhiều áp lực trong cuộc sống, F thường xun sử dụng mạng xã
hội để cơng kích, chê bai, phán xét những người khác như một cách để trút hết những
điều tiêu cực trong lòng.
- Thứ hai: do mâu thuẫn giữa các vai trò, trong đời sống xã hội mỗi cá nhân giữ
những vai trò khác nhau, khi cá nhân không thể đảm nhận tốt trách nhiệm đặt ra cho từng
vai trò sẽ dễ dẫn đến mâu thuẫn vai trị, từ đó có thể sinh ra hành vi lệch lạc. 10
Ví dụ: U là một thẩm phán, J là bạn của U bị kết tội hình sự vì giết người, chiếu
theo luật thì J sẽ bị phạt chung thân, nhưng vì từng có nợ ân tình với J, U đã âm thầm
tạo ra chứng cứ giả có lợi cho J để giảm nhẹ hình phạt.
- Thứ ba: Tự tách biệt mình khi sống trong một cộng đồng, bất nhập vào những
chuẩn mực xã hội mà mọi người đang thực hiện, gạt mình ra khỏi quy củ chấp hành. Đó

là hành vi lệch lạc so với cộng đồng.11
Ví dụ: Cảm thấy việc học hành ở trường không cho mình những bài học có giá
trị, “thực tế” như mình muốn, K đã bất chấp mọi lời khuyên can và xin nghỉ học, tự mình
đi khám phá, học hỏi về những điều mình cảm thấy đáng học hỏi, quan tâm ở xã hội bên
ngoài.
- Thứ tư: mâu thuẫn giữa giá trị và phương tiện mà các cá nhân có thể sử dụng để
đạt được mục đích, giá trị đó: giá trị là điều mà xã hội cho là đẹp, là tốt, mang lại lợi ích,
nhưng có những trường hợp có những giá trị mà khả năng của một số cá nhân chưa vươn
tới được, do đó bằng cách này hay cách khác, bất chấp phương tiện vật chất hay tinh thần
để đạt được điều mình muốn. Điều đó có thể dẫn đến hành vi sai lệch trong quá trình sử
dụng phương tiện để đạt được giá trị.12
10 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>
11 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>
12 Dựa theo tài liệu của phuoctk88 trên Blog Lê Phước, Tiểu luận: LỆCH LẠC XÃ HỘI (chỉnh sửa 1/5/2011, 15:02),
/>

Ví dụ : Trong một lần chơi vé xổ số, A và B đã mua hai tờ số khác nhau, sau khi
biết B đã trúng xổ số với giải đặc biệt, cảm thấy ghen tị với may mắn của B và đang thiếu
tiền, A đã lén đổi tờ vé của cả hai.
Ví dụ: T là một học sinh chăm chỉ, mặc dù được cô giáo bảo độ tuổi của T (mười
tuổi) là “tuổi ăn, tuổi học” và nhà nước ta cấm không cho trẻ em dưới mười lăm tuổi lao
động, làm việc. Song, vì nhà quá nghèo, để duy trì con đường học vấn thì T buộc phải tự
đi lao động kiếm tiền khi còn quá nhỏ.
=>Kết luận : Lệch lạc xã hội chỉ mang tính chất tương đối; lệch lạc xã hội thay đổi theo
thời gian và tùy thuộc vào quan niệm của các nhóm xã hội, khơng có lệch lạc nào bị lên
án ở mọi lúc, mọi nơi, và lệch lạc đối với mọi người; Song, lệch lạc có thể dẫn tới phạm
tội.
IV.BIỂU HIỆN CỦA HÀNH VI LỆCH LẠC XÃ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN

NAY
-Lệch lạc về ý thức trốn cách ly trong dịch bệnh13
H.T.AT, (SN 1990 ngụ tại phường Tân Phong), có kết quả xét nghiệm RT-PCR
dương tính với SARS-Co-V2 được đưa vào cách ly y tế tập trung tại Trường Cao đẳng
nghề số 8. Sau đó, bệnh nhân này được chuyển tới Bệnh viện Thống Nhất để điều trị vào
ngày 4/9, nhưng Thảo đã trốn khỏi khu cách ly y tế, điều trị tập trung.
Một trường hợp trốn khỏi khu cách ly được đưa trở lại tập trung.
Trường hợp tiếp theo là N.T.N, ngụ tại phường An Hịa có kết quả xét nghiệm nhanh
kháng ngun dương tính với SARS-Co-V2 được đưa vào cách ly tập trung tại Trường
Tiểu học Tân Tiến, đã bỏ trốn khỏi khu cách ly vào ngày 2/9.
Cùng ngày 2/9 trường hợp dương tính với SARS-Co-V2 khác là Đ.T.T (SN 1982
ngụ tại phường Trung Dũng) cũng đã trốn khỏi khu cách ly y tế tập trung tại trường Tiểu
học Tân Tiến.
13 />

Trên đây là 3 trong số rất nhiều hành vi trốn cách li diễn ra trong lúc dịch bệnh
phức tạp
Nhận xét
Tình hình Covid ở Việt Nam hiện nay vơ cùng phức tạp. Nhà nước và toàn thể
nhân dân đang đấu tranh cố gắng để chống dịch.Nhưng vẫn có vài thành phần người dân
ý thức tự giác chống dịch còn kém làm ảnh hưởng lây lan dịch bệnh . Nhà nước cần có
chế tài nghiêm hơn để xử lý những trường hợp như nêu trên

-Thực trạng giới trẻ lệch lạc trong cách chọn thần tượng
Hiện nay có một bộ phận giới trẻ xem những “ giang hồ mạng” là những thần
tượng .Họ những “ giang hồ mạng” là những người Mượn danh “chính nghĩa” để đánh
người rồi xin lỗi, rao giảng đạo lý, khoe tiền, phá của... rồi quay clip lại đăng lên các
trang mạng xã hội
14


Khá “Bảnh” (tức Ngô Bá Khá, sinh năm 1993, trú tại Từ Sơn, Bắc Ninh) là nhân

vật được mạng xã hội nhắc đến nhiều trong thời gian qua. Nhân vật này từng “làm mưa
làm gió” trên mạng xã hội Facebook, Youtube khi thản nhiên thực hiện những hành vi
ngang ngược, thể hiện sự coi thường pháp luật, nói năng tục tĩu, bậy bạ...Nghịch lý là một
nhân vật có tiền án, tiền sự, từng vào tù ra tội với các tội danh đánh bạc, sử dụng ma túy
như Khá “Bảnh” khi khoe những “chiến tích” bất hảo trên mạng xã hội không những
không bị tẩy chay, lên án, mà lại tạo được sức hút rất lớn của cộng đồng mạng, sự hùa
theo của đám đông thanh niên, học sinh.
Rất nhiều hành động quái dị, thậm chí coi thường pháp luật của Khá “Bảnh” trên
mạng xã hội Facebook và Youtube, như nói năng tục tĩu, chửi bậy, đỗ xe trên đường cao
tốc, đốt xe… được cộng đồng mạng phấn khích, tán dương, “like” với số lượng lớn. Ngay
cả kiểu tóc “bờm ngựa” hay điệu “múa quạt” khơng giống ai cũng “xâm nhập” vào thế
giới học đường, được rất nhiều học sinh bắt chước. Đỉnh điểm của sự “thần tượng” lệch
14 />

lạc này là khi Khá “Bảnh” xuất hiện ở TP Yên Bái, rất đông học sinh, trẻ em ra đường
chụp ảnh, xin chữ ký. Đây là một trong những rất nhiều “giang hồ “ trên không giang
mạng đã được xử lý
Nhận xét :Thần tượng các người nổi tiếng là điều quyền lợi của tất cả mọi
người .Nhưng chỉ nên thần tượng theo sự định hướng của người lớn . Sự thần tượng này
chỉ tốt khi thần tượng đúng người đúng phẩm chất . Và sự thần tượng ấy sẽ xấu nếu thần
tượng sai người. Phải có sự định hướng kịp thời của lớp người lớn với những thiếu niên
đang lớn vì lớp người này rất dễ vốn có tâm lý thể hiện ,ương bướng dễ bị “Lệch chuẩn”.
-Thực trạng ”sống thử” ở giới trẻ
Trong những năm gần đây, ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, đã xuất

15

hiện một lối sống mới của giới trẻ: Những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng khơng

có đăng ký kết hơn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hơn nhân chính
thức, sẽ đăng ký kết hơn theo pháp luật. Cịn nếu thấy khơng phù hợp, họ sẽ chia tay
nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Hiện tượng “sống thử” hay
cịn gọi là “góp gạo thổi cơm chung” đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối sống
của giới trẻ hiện nay, không chỉ trong giới công nhân sống xa nhà mà còn cả ở những
sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở
TPHCM, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân: Lan, sinh viên
năm thứ 2 trường Đại học Nông Lâm TPHCM, cho biết: “Ở xóm trọ của em, gần một nửa
các bạn sống thử trước hôn nhân”. Tôi được một bạn công nhân chia sẻ, dãy phịng trọ
của em có 10 phịng thì có đến sáu phịng “góp gạo thổi cơm chung”.
Nhận xét “Sống thử” là nếp sống phương Tây đã được du nhập vào Việt Nam vào
những năm gần đây. Giới trẻ ở Việt Nam đã tiếp nhận nếp sống này khá nhiều . Nhưng đa
phần “ Sống thử” là học đòi chưa có ý định , định hướng cụ thể cho tương lai. Xét trên
khía cạnh truyền thống lâu đời của Việt Nam đây là điều không phù hợp.”Sống thử “ Khó
được xã hội tiếp nhận vì nó biểu hiện cho sự bng thả ,phóng túng trái với thuần phong
mỹ tục của Việt Nam
15 />

- Thực trạng các tệ nạn xã hội 16
Cờ bạc :có lẽ là đề tài tệ nạn xã hội phổ biến nhất hiện nay. Tệ nạn cờ bạc không
phân biệt tuổi tác, giới tính. Những người cha người chú tầm 50 tuổi, 60 tuổi vẫn rất ham
mê cờ bạc. Họ có thể chơi thâu đêm suốt sáng, quên ăn, quên ngủ, quên gia đình, quên
thế giới thực, đời sống thực của chính họ. Cờ bạc cịn là sự mê muội của những người
phụ nữ trong gia đình. ở thời điểm quây quần bên gia đình, con cháu thì họ lại sum họp
nơi góc vắng vẻ với những trận bài bạc ăn tiền.
Ma túy :Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y Dược Sài Gòn cho biết thực trạng của
các học sinh sinh viên hiện nay nói riêng và giới trẻ nói chung hiện nay không thể không
nhắc tới ma túy. Ma túy là chất gây nghiện có sức ảnh hưởng ghê gớm. Nó khơng chỉ làm
suy giảm sức khỏe, hao hụt tiền bạc, nó cịn làm tan nát gia đình ma túy là tệ nạn cần
được giải quyết triệt để bởi hậu quả ghê gớm. Khi mắc phải ma túy, người bệnh rơi vào

trạng thái ảo, luôn sống trong một thế giới khơng có thực. Lâu dần, họ bị suy giảm miễn
dịch trở nên gầy gò ốm yếu. Khi cơn nghiện ma túy khơng được đáp ứng, cơ thể cảm thấy
khó chịu, bức xúc. Lúc này họ muốn đập phá mọi thức, đập phá tất cả những gì xung
quanh. Ma túy cịn làm hao hụt tài sản nghiêm trọng. khi khơng có tiền để tiêm hút chích
ma túy thì sẽ gây nên cướp giật, móc túi, có thể giết người cướp của chỉ để có tiền để
thỏa mãn cơn nghiện của mình.
Mại dâm:Một trong số những tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay là mại dâm. Có
từ lâu đời, nhưng tệ nạn này không thể xử lý triệt để được. Có cầu ắt có cung. Những cơ
gái làm nghề gái mại dâm thường có nhan sắc sa vào những trung tâm môi giới mại dâm.
Việc mắc tệ nạn mại dâm gây nguy hiểm rất lớn đến việc suy giảm giống nòi.
Nhận xét
Tệ nạn xã hội là một trong những lệch lạc xã hội phổ biến nhất ở Việt Nam. Nó
ln là một vấn đề nhức nhối trong xã hội hiện đại. Nó gây rất nhiều hệ quả xấu đối với
cá nhân, gia đình và xã hội. Cần có những biện pháp như giáo dục kịp thời các thanh
thiếu niên trong độ tuổi mới lớn. Đưa ra những hình mức xử phạt cụ thể của từng hành vi.
16 />

V. GIẢI PHÁP
5.1. Kiểm soát xã hội
– Là cơ chế tự điều chỉnh trong các hệ thống xã hội (tập đồn, nhóm, tập thể, tổ
chức) và trong tồn xã hội nói chung. Là việc tiến hành sự điều chỉnh hành vi con người
thông qua chuẩn mực, đạo đức, pháp luật, hành chính.17
– Chức năng của kiểm sốt xã hội là tạo điều kiện cho sự vững chắc của hệ thống
xã hội để duy trì ổn định xã hội và đồng thời để có những thay đổi tích cực trong hệ
thống. Điều này địi hỏi kiểm sốt xã hội phải rất linh hoạt, mềm dẻo, phải có khả năng
nhận biết được những sai lệch khác nhau có ý nghĩa đối với các quy tắc xã hội. Những sai
lệch cần thiết cho sự phát triển xã hội thì cần được tạo điều kiện và khuyến khích.
– Kiểm sốt xã hội tác động theo nguyên tắc phản hồi.
– Kiểm soát xã hội được thực hiện trong q trình xã hội hố: Khi cá nhân nắm
vững các chuẩn mực, giá trị xã hội, hình thành sự tự kiểm tra khi chấp nhận các vai trị

khác nhau. Nó tác động thường xun đến các cá nhân thông qua những phản ứng đối với
các ứng xử của cá nhân, qua cơ chế quyền lực, qua các mối quan hệ qua lại trong khi vận
dụng đúng hướng hoặc tự phát các chuẩn mực xã hội.
– Là sự tái sản xuất các quy tắc, chuẩn mực ứng xử tạo điều kiện duy trì sự ổn
định xã hội.
Để khuyến khích việc tuân thủ các tiêu chuẩn, quy phạm văn hóa cũng như điều
tiết sự lệch lạc, xã hội dùng các thưởng, phạt chính thức và khơng chính thức.
+ Kiểm sốt xã hội khơng chính thức là hình thức kiểm sốt thơng qua các phong
tục, tập qn, truyền thống, tiêu chuẩn, giá trị xã hội mà không được ban bố một cách rõ
ràng. Những hình thức của nó có thể là sự phê phán, châm chọc, giễu cợt hoặc nặng nề
hơn là phân biệt đối xử hay xa lánh mà xã hội thực hiện đối với người có hành vi lệch lạc.

17 Trật tự xã hội, lệch lạc xã hội và kiểm soát xã hội (11/05/2018, 14:34) />

+ Kiểm sốt xã hội chính thức là hình thức kiểm sốt xã hội do những người có
thẩm quyền thực hiện như cảnh sát, công an, sĩ quan quân đội, người quản lý các tổ chức,
công ty,... và sử dụng những biện pháp có tính chất cưỡng chế được ban bố một cách rõ
ràng như luật pháp, nội quy, quy chế.
5.2. Biện pháp tiếp cận thông tin
Hoạt động trao đổi, tiếp cận và xử lý thông tin trong cuộc sống hằng ngày có tác
dụng rất lớn trong việc nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết của con người, trong chừng
mực nhất định họ biết được những việc nên làm, điều nên tránh trong hành vi của mình.
Biện pháp tiếp cận thông tin hướng tới việc cung cấp, trang bị, hướng dẫn, giải đáp các
thông tin về chuẩn mực xã hội nói chung và pháp luật nói riêng.
Trong trường hợp vi phạm do không biết và không hiểu các nguyên tắc, các quy
định của chuẩn mực xã hội và của pháp luật thì các cơ quan tư pháp phải phối hợp với
các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình…tiền hành các
hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích về nội dung và tính chất của các chuẩn
mực đó hoặc các văn bản pháp luật có liên quan. Đặc biệt cần chú trọng công tác phổ
biến, giáo dục luật hình sự, luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan đến

hiện tượng tội phạm.
Nếu ý thức, thái độ của những cá nhân và các nhóm xã hội nào đó đối với pháp
luật, đối với các giải trí, các chuẩn mực xã hội cịn mang tính chất lệch lạc, chưa đúng
mực, tỏ ra xem nhẹ, coi thường thì cần phải giáo dục, định hướng cho họ theo cái đúng
và để họ hiểu và tuân thủ các chuẩn mực xã hội.
Cần cung cấp thơng tin đầy đủ, chính xác vách ra tính ổn định và tính ngun tắc
khơng thể khơng tn thủ trong việc áp dụng các chuẩn mực nhằm ngăn chặn các hành vi
sai lệch.
Cần phải nâng cao uy tín của hệ thống pháp luật đang tham gia điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong xã hội. Pháp luật phải công bằng và nghiêm minh để mọi tầng lớp
nhân dân tin tưởng thực hiện.


Cảnh giác và tích cực đấu tranh với những thơng tin sai trái, những luận điệu
tuyên truyền xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về các giá trị, chuẩn mực xã
hội, về hệ thống pháp luật, làm lệch lạc nội dung và vi phạm áp dụng của chúng.
5.3. Biện pháp phòng ngừa xã hội
Phòng ngừa xã hội ln là biện pháp đấu tranh phịng chống sai lệch và tội phạm
mang lại hiệu quả cao, nó thường được đặt lên vị trí hàng đầu trong số các biện pháp
được áp dụng. Đây là biện pháp tiếp cận nhằm tìm hiểu, làm sáng tỏ các nguyên nhân,
điều kiện dẫn tới sai lệch và tội phạm, từ đó mà đề xuất các phương pháp phòng ngừa cụ
thể.
Phòng ngừa xã hội là theo đuổi mục đích phát hiện, xóa bỏ, vơ hiệu hóa các
ngun nhân, điều kiện làm phát sinh hiện tượng sai lệch và tội phạm. Nó là một tổng thể
(hệ thống) các biện pháp xã hội như tác động về kinh tế, chính trị, tư tưởng tâm lý, giáo
dục, văn hóa, pháp luật… mà nhà nước và xã hội áp dụng nhằm loại trừ các nguyên nhân,
điều kiện của sai lệch và tội phạm; góp phần định hướng và hình hành những hành vi cư
xử hợp pháp, hợp đạo đức của công nhân.
Cơ sở khoa học của biện pháp phòng ngừa xã hội là sự nhận thức hành vi, hoạt
động của con người vốn mang bản chất tuân theo quy luật hướng thiện; mọi người đều có

khả năng trở thành những cơng dân tốt, có ích cho xã hội.Hành vi sai lệch, phạm tội của
họ bên cạnh động cơ ý chí cá nhân cịn xuất pháp từ những nguyên nhân điều khiển xã
hội nhất định. Nếu vô hiệu hóa được những ngun nhân, điều kiện đó thì con người sẽ
không bị sa ngã vào môi trường tội ác. Bên cạnh đó, xây dựng một mơi trường xã hộipháp lý lành mạnh, trong đó mọi cơng dân ý thức được điều hay lẽ phải, mong đợi điều
tốt lành, tránh xa điều tội lỗi mới là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất. Biện pháp
phòng ngừa xã hội thường thể hiện ở 2 cấp độ:
Phòng ngừa chung được thực hiện trên cơ sở tạo ra những tiền đề tích cực, những
điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa, pháp luật cơ bản nhằm loại trừ các hiện tượng tội
phạm; chẳng hạn, hình thành ý thức pháp luật tích cực cho cơng dân, nâng cao trình độ
học vấn, đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.


Phịng ngừa chun ngành hình sự là biện pháp quan trọng nhất ngăn chặn hiện
tượng tội phạm.
5.4. Biện pháp áp dụng hình phạt
Áp dụng hình phát là phương thức pháp lý hình sự trong đấu tranh phịng chống
hiện tượng tội phạm và các hành vi phạm tội cụ thể. Nó được áp dụng đối với những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái với pháp luật hình sự, do đó bị đe dọa pháp chịu một
hình pháp với tư cách là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính mạnh mẽ và nghiêm khắc
nhằm trừng trị kẻ phạm tội.
Việc truy tố, xét xử và buộc tội kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt có tác dụng
rất quan trọng trong đấu tranh phịng chống hiện tượng tội phạm. Ngồi việc trực tiếp
trừng trị kẻ phạm tội, cải tạo, cảm hóa họ trở lại con đường hướng thiện, trở thành công
dân có ích, hình phạt cịn có ý nghĩa giáo dục, răn đe tác động tới những người khác làm
cho họ từ bỏ những ý định phạm tội, thậm chí sự chuẩn bị hay âm mưu tiến hành một tội
phạm nào đó.
Trong hệ thống pháp luật, chỉ có bộ luật hình sự quy định về tội phạm và hình
phạt. Bộ luật hình sự nước ta góp phần nào vào đấu tranh, ngăn chặn tội phạm, quy định
hai loại hình phạt: hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục

xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
Các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản,
phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính, trục xuất khi khơng áp dụng là hình phạt
chính.
5.5. Biện pháp tiếp cận y – sinh học
Trong hoạt động phòng chống các hành vi sai lệch và tội phạm, biện pháp tiếp cận
y-sinh học thường do nhân viên cơ quan nghiệp vụ như y tế, điều tra, giám định, chuyên
gia tâm thần học thực hiện đối với những người có hành vi sai lệch và phạm tội nhằm tìm


hiểu, pháp hiện những khuyết tật về thể chất (mù, câm, điếc…) hoặc những khuyết tật về
trí lực (mắc các bệnh hoang tưởng, tâm thần hoặc phạm tội trong trạng thái say rượu,
nghiện ma túy…). Những khuyết tật đó làm cho người vi phạm khơng có, mất đi một
phần hoặc tồn bộ khả năng tự kiềm chế, kiểm sốt hành vi của cá nhân, và do đó mất đi
năng lực tự chịu trắc nghiệm trước hành vi vi phạm của mình. Cịn từ chỗ mất năng lực
trách nhiệm hành vi mà có bị truy cứu trách nhiệm hình sư hay khơng cịn tùy thuộc vào
quy định của pháp luật hình sự.
Biện pháp tiếp cận y-sinh học có ý nghĩa rất quan trọng, nó góp phần làm sáng tỏ
nguyên nhân, điều kiện của hành vi sai lệch và phạm pháp, giải thích cơ chế tâm lý- xã
hội của những hành vi đó. Nó cũng góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả của hoạt động
xét xử tội phạm trên nguyên tắc không xử oan người vô tội, người được miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự, đồng thời cũng khơng để lọt lưới kẻ phạm tội, đảm bảo tính cơng
bằng và nghiêm minh của pháp luật.
5.6. Biện pháp tiếp cận tổng hợp
Công tác đấu tranh phòng chống các hiện tượng sai lệch và tội phạm không chỉ là
trách nhiệm của riêng cá nhân hay cơ quan hữu trách nào, mà còn là trách nhiệm chung
của tồn xã hội. Nó địi hỏi phải huy động sự phấn đấu, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, nghĩa là Đảng và Nhà nước cần có hệ thống đường lối, chính sách kinh tế - xã
hội đúng đắn, hiệu quả và ban hành pháp luật đồng bộ, kịp thời. Nó cũng địi hỏi sự thu

hút tham gia rộng rãi của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, của các tổ
chức, đoàn thể xã hội, của các nhà chính trị - xã hội sự đông đảo của các tầng lớp nhân
dân trong xã hội.
Củng cố các nguyên tắc đạo đức gắn liền với sự tôn trọng của mọi công dân và của
những người có chức quyền với nhân cách, thái độ trân trọng đúng mức đối với các nhu
cầu và địi hỏi chính đáng của mọi người.
Giáo dục các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, lối sống lành mạnh, tiến bộ
cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội.


Đề cao nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cơ sở sự công bằng dân chủ,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Mở rộng các loại hình hoạt động, vui chơi giải trí lạnh mạnh, tiến bộ cho các tầng
lớp nhân dân nói chung và tầng lớp thanh niên nói riêng. Bên cạnh đó, phải nâng cao chất
lượng các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, nhằm rèn luyện thể chất, bồi
dưỡng nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, tạo ra
mọi trường xã hội – pháp lý lành mạnh trong đó mọi người dân đều có ý thức tôn trọng
pháp luật.
Cải tiến công tác giáo dục pháp luật trong hệ thống nhà trường phổ thông, trung
học và ở bậc đại học. Mở rộng hoạt động phổ biến, giải thích pháp luật trong nhân dân,
giúp họ có những hiểu biết nhất định về pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
Các cơ quan cơng an, tịa án, viện kiểm sát và các cơ quan tự pháp khác phải
nghiêm chỉnh thực hiện các quy luật pháp luật, giữ đúng vị trí, vai trị chức năng và
nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm. Chú trọng nâng cao
trình độ hiểu biết về văn hóa, trình độ học vấn, năng lực chun mơn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ làm công tác pháp luật.
Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng các biện pháp và
kết quả đấu tranh với các vụ việc phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa đẻ nhân dân được biết
và thêm tin tưởng và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Đồng thời, thường xuyên tổ chức
thăm dò dư luận xã hội đối với những vấn đề cụ thể của cuộc sống để có biện pháp giải

quyết và điều chỉnh kịp thời.
Dựa trên cơ sở các dự báo về diễn biến của tình hình tội phạm để xây dựng các kế
hoạch đấu tranh cho hiệu quả với từng loại tội phạm ở các khu vực và trong những
khoảng thời gian nhất định.
Trong điều kiện ngày nay, cơng tác đấu tranh phịng chống hiện tượng tội phạm
cần được mở rộng hơn nữa để hợp tác trên phạm vi quốc tế.


×