Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH VÀ LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.15 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - KHOA HỌC
TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ TƠN GIÁO TRONG THỜI KÌ Q ĐỘ LÊN CNXH VÀ LIÊN HỆ Q TRÌNH GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ TƠN GIÁO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD : TS. Nguyễn Thị Hằng
SVTH :
1. Võ Hồng Khang 20110281
2. Nguyễn Hữu Trọng 20110754
3. Diều Quốc Khánh 20145285
4. Đặng Hoàng Duy 19144239
5. Bùi Thị Ngân 19109148
Mã lớp học: LLCT120405_21_1_4
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Mục tiêu nguyên cứu.....................................................................................1
3. Phương pháp nguyên cứu............................................................................. 2
4. Kết cấu của tiểu luận..................................................................................... 2

CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI.
1.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo...............................................................3
1.1.1 Bản chất của tơn giáo............................................................................. 3
1.1.2 Nguồn gốc của tơn giáo..........................................................................4


1.1.3 Tính chất của tôn giáo……………………………………………….. 5
1.2 Nguyên tắc giải quyết vấn đề trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã

hội………...................................................................................................6
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ Q TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TƠN GIÁO CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY.
2.1 Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam..................................................................... 7
2.2 Chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng,

tơn
giáo............................................................................................................... 11

2.3 Liên hệ q trình giải quyết vấn đề tôn giáo Việt Nam hiện nay................ 16

PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 17


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống tinh thần của con người tơn giáo ln đóng một vai trị nhất
định. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử lồi người, tơn giáo ra đời và trở thành
một hiện tượng xã hội. Có nhiều tơn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung
mọi tơn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp.
Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hịa tơn giáo
trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển. Ở nước ta cũng vậy, tôn giáo đóng vai
trị nhất định trong đời sống tinh thần. Nhìn chung mọi giáo lý của các tơn giáo đều
chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những triết lý ấy giúp cho con người sống với nhau
gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển chung của
tồn xã hội. Tơn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi cơng dân.

Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và
nhà nước ta ln coi trọng vai trị của các tôn giáo. Mặt khác ở Việt Nam trong lịch sử,
tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị, và ngày nay vẫn cịn tồn tại
những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta. Chính vì
thế mà mỗi người dân cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi đơi với chấp
hành pháp luật của Đảng và nhà nước.
Đó cũng là lý do chúng em quyết định chọn đề tài “Vấn đề tôn giáo trong thời kì
quá độ lên xã hội chủ nghĩa và liên hệ q trình giải quyết vấn đề tơn giáo của việt nam
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên trong nhóm sẽ có những
hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời xác định rõ cách nhìn nhận,
lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu
1


Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của hồn
cảnh lịch sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta cịn biết một cách khái qt rằng, tơn giáo
cịn tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy trong q trình xây dựng đó,
tơn giáo cịn tồn tại là do những nguyên nhân cụ thể gì?
Mặt khác, ở nước ta hiện nay tơn giáo đang có xu hướng phát triển, trước tình
hình đó, để góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, cần phải thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề tơn giáo như thế nào? Trên đây chính
là những mục đích mà nhóm chúng em muốn hướng tới khi nghiên cứu đề tài: Vấn đề
tơn giáo trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa và liên hệ q trình giải quyết vấn đề
tơn giáo của việt nam hiện nay”.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những
nhận xét, đánh giá. Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và
mô tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.
4. Kết cấu của tiểu luận

Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 2 chương chính:
Chương 1: Vấn đề tơn giáo trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Liên hệ quá trình giải quyết vấn đề tơn giáo của Việt Nam hiện nay

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo.
1.1.1 Bản chất của tôn giáo
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện
thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và
xã hội đều trở thành thần bí. Tơn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều
kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã
hội.
Về mặt hình thức biểu hiện, mỗi tơn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín
ngưỡng (giáo lý), các quy định về kiêng cữ, cấm kỵ (giáo luật), các hình thức về thờ
cúng, lễ bái (giáo lễ) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo (giáo
đường - cơ sở thờ tự).
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội- văn hóa do con người tạo ra. Con người sáng tạo ra tơn giáo vì mục
đích riêng của họ, phản ánh suy nghĩ, ước mơ của họ. Nhưng, con người lại bị lệ thuộc
vào tôn giáo, phục tùng và tuyệt đối hóa tơn giáo vơ điều kiện. Chủ nghĩa Mác-Lênin
cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết
định sự phát triển và tồn tại của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tơn giáo. Do
đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức đều được sinh ra từ những hoạt động sản
xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi
của của cơ sở kinh tế.

Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối
lập với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên
3


kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh,
hạnh phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
1.1.2 Nguồn gốc của tơn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội:
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém,
con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ
đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức
mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước
sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát
hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa
giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con
người thường hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tơn
giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về
kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn
gốc sâu xa của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức:
Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức của
tơn giáo. Cịn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại quan tâm trước hết đến
nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ
nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà cịn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa
học nguồn gốc đó. Thực chất, nguồn gốc nhận thức của tơn giáo chính là sự tuyệt đối

hóa, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức, biên nội dung khách quan thành cái
siêu nhiên, thần thánh.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng bước khám phá những
4


điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết ln ln tồn tại; điều gì mà
khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tơn giáo thay thế. Sự xuất hiện và tồn
tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người. Con người ngày
càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các
khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hố, trừu tượng hố đến mức hư
ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực
và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu hoá của
chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào
ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
Nguồn gốc tâm lý:
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I.
Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản..., sự phá
sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết
đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại.
Ngồi sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo làm
nảy sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u trong quan hệ giữa
con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín
ngưỡng, tơn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm
hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc
hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tơn giáo là trái tim
của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội
khơng có tinh thần.

1.1.3 Tính chất của tơn giáo
Tính lịch sử của tơn giáo:
Tơn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa là nó có sự hình
thành,tồn tại và phát triển. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tơn giáo có sự biến đổi cho
5


phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tơn giáo cũng
có sự thay đổi, điều chỉnh theo.Trong q trình vận động khi các điều kiện kinh tế - xã
hội, lịch sử thay đổi, tơn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong q trình vận động của
các tơn giáo, chính các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo
bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa
số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội
thì tơn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức,
niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tơn giáo:
Tính chất quần chúng của tơn giáo thể hiện ở tín đồ các tơn giáo thuộc tất cả
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới. Nếu chỉ tính
các tơn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến một nửa dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tơn
giáo. Tính chất quần chúng của tôn giáo xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt,
cho đến nay sự phát triển của khoa học, sản xuất và xã hội chưa loại bỏ được những
nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu
tinh thần của quần chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã
hội tự do, bình đẳng...
Tính chính trị của tơn giáo:
Trong xã hội khơng có giai cấp, tơn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về
lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những

cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời
trung cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakistan, ấn Độ,
Angiêri, Bắc Ailen, Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những
thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của
mình. Trong nội bộ các tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dịng, hệ, phái... nhiều khi
6


cũng mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tơn giáo thường là
một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
1.2 Nguyên tắc giải quyết vấn về tơn giáo trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Thứ nhất : giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác –
Lênin và hệ tư tưởng tơn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con
đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Thứ hai : tôn trọng tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân
Khi tín ngưỡng tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng của mọi cơng dân. Cơng dân có tơn giáo hay khơng có tơn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau.
Bất kỳ ai cũng có quyền theo một tơn giáo mình thích hoặc khơng theo tơn giáo nào;
bỏ đạo, theo đạo, chuyển đạo trong khuôn khổ pháp luật là quyền của mọi người Cần
phát huy những giá trị tích cực của tơn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền
tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của cơng dân.
- Thứ ba : thực hiện đồn kết những người có tơn giáo với những người khơng
có tơn giáo, đồn kết các tơn giáo, đồn kết những người theo tôn giáo với những
người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tơn giáo.
- Thứ tư : phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giao. Mặt

tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo. Trong q trình xây dựng chủ nghĩa,
khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dụng tơn
giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp
chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là
nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và phải
có sách lược với thực tế.
7


- Năm là : phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo
Phải nhìn nhận vai trị tác động của tơn giáo tới đời sống xã hội trong thời kì lịch sử
khác nhau là có thể rất khác. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về
các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Bởi vậy mối quan hệ với tôn giáo
cũng cần phải rất linh hoạt và mềm dẻo, có những thời điểm phải biết sử dụng tơn
giáo như một thứ vũ khí lợi hại để chống lại kẻ thù chung của cả dân tộc.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TƠN GIÁO CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY.
2.1 Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Dân ta có truyền
thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của
mình. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đơng Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất
thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi dễ dàng cho việc
thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Với sự đa dạng các loại hình
tín ngưỡng, tơn giáo, người ta ví Việt Nam như bảo tàng tơn giáo của thế giới. Về khía
cạnh văn hố, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tơn giáo đã góp phần làm cho nền
văn hố Việt Nam phong phú và đặc sắc.

Phật Giáo Hòa Hảo


Thiên Chúa Giáo

Đạo Cao Đài

Đạo Tin Lành

Đạo Phật

Đạo Hồi
8


Các tín ngưỡng, tơn giáo dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm hành đạo
khơng giống nhau nhưng khơng vì thế mà có sự xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát
triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, họ ln có sự gắn kết, giao lưu và tìm hiểu
về nhau để cùng truyền đạt những tinh hoa của từng tín ngưỡng, tơn giáo.
-

Dưới đây là 5 đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam:
+ Thứ nhất : các tín ngưỡng, tơn giáo có sự dung hợp, đan xen và hịa đồng,

khơng kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống
tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam.
Với bản tính hiếu hoà, đồng thời do phải đoàn kết chống giặc ngoại xâm và chống chọi
với thiên nhiên, người Việt rất dễ tiếp nhận các loại văn hóa tín ngưỡng tơn giáo miễn
sao là nó khơng đi ngược lại lợi ích dân tộc, đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc.
Đồng thời, nó cũng phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán tuỳ ý của người
Việt, mà trước hết phải được sự khảo nghiệm của lịch sử dựng nước và giữ nước, sau
nữa, phải tôn trọng tôn giáo truyền thống và hịa đồng với tín ngưỡng bản địa. Khổng
giáo và Đạo giáo từ Trung Hoa lan xuống, Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang nước ta từ

rất sớm nhưng vẫn tồn tại song song cùng nhau một cách hịa bình cùng với tín
ngưỡng bản địa mà khơng xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo nào. Kể cả về sau
một số tôn giáo phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, tuy có xa lạ với truyền thống
văn hóa dân tộc, nhưng vẫn được chấp nhận. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen
kẽ giữa người có tơn giáo và người khơng có tơn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một
làng, xã, có nhóm tín đồ của tơn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo
khác hoặc với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền
tảng làng, xóm, dịng họ.
+ Thứ hai : các tơn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là
người nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam cho thấy,
tư tưởng tơn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc
và con Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,
9


Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các
tôn giáo có trước.
+ Thứ ba : tơn giáo ở Việt Nam được điều hành theo ý thức tiểu nông: Do xuất
phát từ nền nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn trong số tín đồ tơn
giáo nên những tín đồ tơn giáo Việt Nam ít có thời gian cũng như khả năng nghiên cứu,
học tập giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Tuy am hiểu giáo lý khơng sâu sắc, nhưng tín
đồ người Việt lại rất chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng
tín ngưỡng một cách nhiệt tâm. Có bộ phận tín đồ sùng tín và đơi khi ngộ nhận cả tin
khi có lực lượng lợi dụng tơn giáo. Từ đặc điểm ấy, chính quyền cần chú ý đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng của họ ở những nơi thờ tự. Cán bộ làm công tác tôn giáo cần
kiên trì thuyết phục, tránh mặc cảm thơ bạo và hết lòng chăm lo đến đời sống vật chất
lẫn tinh thần của họ.
+ Thứ tư : mỗi tín ngưỡng, tơn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần
tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.

Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín ngưỡng
này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát triển,
văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của văn
hóa Việt Nam (dù khơng thuần nhất).
+ Thứ năm : một số tôn giáo bị các thế lực phản động trong và ngồi nước lợi
dụng vì mục đích chính trị. Trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân,
đế quốc, phản động ln tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo và các vấn đề liên
quan đến tín ngưỡng, tơn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an
ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. Hiện nay,
các thế lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo như một thứ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với chiêu bài "tự do tơn giáo", "nhân quyền", chúng
xun tạc, bóp méo đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng và Nhà
10


nước ta, âm mưu tạo ra lực lượng và xây dựng ngọn cờ trong tơn giáo hịng lật đổ Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ví dụ cụ thể là tôn giáo đang bị các thế lực phản
động lợi dụng để thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại cơng cuộc
đổi mới của nhân dân ta. Các "điểm nóng" về tơn giáo trong thời gian gần đây như các
hoạt động trái phép nhằm lập ra tổ chức đạo "Tin lành Đề Ga" ở Tây Nguyên... đã phản
ánh điều đó. Hiệu ứng tiêu cực của các hoạt động đó là sự mất ổn định trong đời sống
dân cư, gây chia rẽ từ trong nội bộ gia đình, làng xóm, thơn bản, chia rẽ dân tộc này
với dân tộc khác, làm phương hại đến tình hình kinh tế, an ninh, trật tự xã hội ; làm sứt
mẻ khối đồn kết tồn dân.
Mặt khác, hoạt động tơn giáo trong những năm gần đây biểu hiện mang tính
chất thị trường. Tình trạng xây mới, sửa chữa cơ sở thờ tự diễn ra nhiều đến mức khó
kiểm sốt, hiện tượng bn thần bán thánh có dấu hiệu bùng phát, là tiêu tốn tiền bạc,
thời gian sức khỏe của nhân dân. Bên cạnh đó hiện nay xuất hiện một chức sắc tín đồ
các tơn giáo có biểu hiện suy thối đạo đức, lợi dụng tơn giáo để tun truyền mê tín
dị đoan kiếm tiền bất chính. Đã xuất hiện 60 tơn giáo mới, tà giáo, dị giáo; trong đó có

nhiều tơn giáo mang tính phản động, phi khoa học.
2.2 Chính sách của Đảng Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng tôn giáo

Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng, trong hệ thống các nhiệm vụ trung tâm và giải pháp chủ
yếu thứ năm, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt
các chính sách dân tộc, tơn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho
11


đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tơn giáo, đại đồn kết tồn dân tộc.
Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
cản trở sự phát triển của đất nước”. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta nêu rõ:
“Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác
định: “Thực hiện tốt mục tiêu đồn kết tơn giáo, đại đồn kết tồn dân tộc. Bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền
thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ
nạn xã hội”.
Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 2025, Đảng ta đã đánh giá những thành tựu và hạn chế liên quan đến tơn giáo. Về
thành tựu: “Tình hình tơn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo
yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân
tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm
nhân quyền, tự do tơn giáo”. Về hạn chế: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật,
tơn giáo, tín ngưỡng có mặt cịn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi”. Về dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực, Đảng

ta chỉ rõ: “Chủ nghĩa dân tộc, cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những
thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia”. Về nhiệm
vụ, giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tơn
giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại

12


khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về công tác tôn giáo”.
Đảng, Nhà nước ta trân trọng ghi nhận, biểu dương những kết quả, đóng góp
của đồng bào có đạo trong sự nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đổi mới nói riêng,
đó là: ln n tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; phát huy lòng yêu
nước, truyền thống tốt đẹp của con người, văn hóa Việt Nam và những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đã luôn kề vai sát cánh, đồng hành cùng dân tộc, có
những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, thông
qua các hoạt động (cả trong nước và quốc tế), các tôn giáo, tổ chức tôn giáo ở Việt
Nam đã góp phần quan trọng trong quảng bá hình ảnh một Việt Nam văn hiến, thân
thiện, hịa bình, nhân ái, làm cho bạn bè quốc tế có cái nhìn thiện cảm, chính xác về
Việt Nam, về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên
tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tơn giáo.
Trong dự báo tình hình quốc tế và khu vực thời gian tới, Đảng ta xác định, vấn
đề xung đột tôn giáo là một trong những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát
triển ở một số khu vực, quốc gia. Đảng ta tiếp tục khẳng định và bổ sung một số nội
dung về tơn giáo và cơng tác tơn giáo trong tình hình mới. Trong văn kiện Đại hội XIII,
Đảng ta có nhiều nội dung bổ sung, cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp
quý báu của các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ,
chức sắc của các tơn giáo, cụ thể như sau:

Thứ nhất : quan điểm tiếp tục phát huy vai trị, tác động tích cực của tơn giáo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh yếu tố văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát
triển đất nước”. Ở Việt Nam, các thuật ngữ: “nguồn lực tôn giáo”, “nguồn lực các tôn
giáo”, “các nguồn lực của các tôn giáo”… mới được đề cập mấy năm trở lại đây. Tuy
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách cơng phu, toàn diện cả về nội hàm và
13


ngoại diên các thuật ngữ trên, song ít nhiều các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản
lý, quản trị hay chính các chức sắc tơn giáo cũng có quan niệm nhất định về nguồn lực
tôn giáo theo các cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào ưu thế, sự đóng góp của các
tơn giáo nói chung, từng tơn giáo nói riêng trong từng giai đoạn, hồn cảnh cụ thể khác
nhau.
Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở những điểm
sau: khẳng định vai trị của tơn giáo, coi những tác động tích cực của các tôn giáo là
một trong những nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đều thừa nhận các nguồn lực của các tôn giáo ở hai phương diện: nguồn lực tinh thần
và nguồn lực vật chất, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn ở nguồn lực tinh thần - đó là các
giá trị về văn hóa, đạo đức tơn giáo; các nguồn lực của các tơn giáo đã tham gia vào tất
cả các q trình, lĩnh vực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó ưu thế, đóng góp
tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.
Thuật ngữ “nguồn lực” khi nhận định về những đóng góp của các tơn giáo trong
Chỉ thị số 18-CT/TW (2018) của Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục được khẳng định và bổ
sung thành “các nguồn lực của các tôn giáo”. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Hiện
nay, Nhà nước đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ
chức, thuộc 16 tơn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước,
trên 55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự. 16 tôn giáo gồm:
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hịa Hảo, Hồi giáo, Tơn giáo Baha’I,

Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo,
Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn,
Bửu Sơn Kỳ Hương. Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định
là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu
trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tơn giáo;
nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng

14


vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy
trong phát triển đất nước.
Tại Đại hội lần này, Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Chúng ta cần phát huy những “nhân tố tích
cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng”, “giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
tơn giáo” vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn
hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, phê phán và ngăn chặn
các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
Thứ hai : thực hiện đồn kết tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây
là mục tiêu trong thực hiện cơng tác tơn giáo. Đồn kết là truyền thống cực kỳ quý báu
của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh thần đồn kết để dựng nước và giữ nước,
người có đạo khác nhau, giữa người có đạo và khơng có đạo ở Việt Nam ln có sự tơn
trọng, chung sống hịa hợp. Thế nên, Đảng ta đặt mục tiêu của cơng tác tơn giáo là
đồn kết tơn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa,
phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của
người Việt Nam hiện nay, trong đó có đồng bào có đạo.
Thứ ba : bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo cho mọi người. Đây là sự
khái quát đầy đủ chủ trương nhất quán của Đảng ta đối với vấn đề tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tơn giáo. Bảo đảm ở đây bao hàm cả sự tôn trọng, quan

tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
của mọi người. Đối tượng bảo đảm ở đây được mở rộng là “con người”, không những
là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người
nước ngồi có tơn giáo khi họ sinh sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người
Việt ở nước ngoài khi về quê hương.
Thứ tư : sự chủ động trong tiến hành công tác tôn giáo. Chủ động lắng nghe,
giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân là quan điểm, thực tiễn sinh
động khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo đất nước
15


không thể thay thế được của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơng tác tơn giáo cũng vậy, cần
có sự chủ động để kịp thời phát huy những tác động tích cực, hạn chế, phê phán, đấu
tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực liên quan đến tôn giáo.
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sự chủ động nhằm giải quyết
đồng thời hai nhiệm vụ: Đầu tiên là giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo,
tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng. Cuối cùng là phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Hai nhiệm vụ này cần được tiến hành song song, đề cao tính chủ động
của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng là hết sức cần thiết.
Thứ năm : vai trị của quản lý nhà nước về cơng tác tơn giáo. Đảng ta đánh giá
tầm quan trọng, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở nước ta: “Nâng
cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Quan điểm
trên nhấn mạnh đến yếu tố quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tơn
giáo, trong đó quản lý nhà nước về công tác tôn giáo phải là trung tâm, các cơ quan
chức năng phải có đủ năng lực, hệ thống luật pháp, cơ chế bảo đảm phù hợp và đảm
bảo nâng cao chất lượng hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo.
Như vậy, những nội dung liên quan đến tôn giáo, công tác tôn giáo được đề
cập trong văn kiện Đại hội XIII thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu những
đóng góp quý báu từ các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước, nhất là nguyện vọng

của đồng bào có đạo, phù hợp với thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tơn
giáo ở nước ta. Đây là cơ sở định hướng trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả
công tác tôn giáo, tiếp tục phát huy “các nguồn lực của các tôn giáo” cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để chống phá cách mạng nước ta. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn
giáo, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các phương thức tác động phù hợp, nhìn nhận
khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội, cả tác động tích cực, tiêu cực,
16


không đề cao quá mức cũng không phủ nhận sự đóng góp của các tơn giáo; có cơ chế,
chính sách đúng đắn, kịp thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tơn giáo sử dụng các
nguồn lực của mình tham gia vào các hoạt động phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
2.3 Liên hệ quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo của Việt Nam hiện nay.
Đến năm 2018, Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ
chức, thuộc 16 tôn giáo với trên 26 triệu tín đồ, 55.870 chức sắc, 145.561 chức việc,
29.396 cơ sở thờ tự. Các tổ chức tôn giáo và đại bộ phận chức sắc, chức việc, nhà tu
hành hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Ðể giải quyết các vấn đề tôn giáo, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc thể chế
hóa trong cơng tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, phù hợp với các Công ước và luật
pháp quốc tế, phù hợp với thực tiễn của tôn giáo ở Việt Nam, cũng như tôn trọng
quan hệ của các tổ chức tôn giáo trong nước với các tổ chức tôn giáo thế giới. Quan
hệ đang tiến triển tốt đẹp giữa Nhà nước Việt Nam với Vatican trong những năm gần
đây có thể minh chứng cho điều này. Từ năm 1989, Việt Nam và Vatican đã có nhiều
lần trao đổi đoàn làm việc.
Năm 2013, Việt Nam và Vatican đã hồn thành cuộc họp vịng Bốn Nhóm cơng

tác hỗn hợp về thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Hai bên ghi nhận Giáo huấn của Giáo
hội về việc "sống phúc âm giữa lòng dân tộc" và "giáo dân tốt cũng là công dân tốt".
Vatican đã cử Ðại diện không thường trú tại Việt Nam từ năm 2011 và đến nay đặc
phái viên không thường trú của Vatican đã thực hiện 20 chuyến thăm tới 60/63 tỉnh
và thành phố ở Việt Nam. Có thể thấy một điều hiển nhiên là: Chính sách nhất quán
của Nhà nước Việt Nam - từ chính thể dân chủ cộng hịa đến chính thể cộng hịa xã
hội chủ nghĩa, ln ln tơn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực
hiện quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng; coi trọng chính sách đồn kết, hịa hợp giữa
các tơn giáo, đảm bảo bình đẳng, khơng phân biệt đối xử vì lý do tơn giáo, tín ngưỡng,
17


bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật - đó là sự thật khơng ai có
thể xuyên tạc và phủ nhận.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, cả nước bước
vào thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, trong các văn bản có tính pháp lý cao nhất,
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo đều được khẳng định trang trọng. Ðiều 70 Hiến pháp
năm 1992 đã ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ. Khơng ai được xâm phạm tự do
tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước". Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đang được tồn dân đóng
góp ý kiến, còn bổ sung và nhấn mạnh thêm: "Nhà nước tơn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tơn giáo". Cùng với đó là việc Quốc hội khóa XIII đã quyết định đưa
nội dung sửa đổi Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo vào chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội.
PHẦN KẾT LUẬN
Nắm bắt được bản chất, nguồn gốc và tính chất của tơn giáo cũng như ngun tắc
giải quyết vấn đề tơn giáo trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội.
Qua việc phân tích trên kết hợp với những chính sách của Đảng, Nhà nước Việt

Nam đối với tín ngưỡng, tơn giáo đã giải quyết được vấn đề tôn giáo của Việt Nam hiện
nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Link::8181/dspace/bitstream/TVDHQB_1234567
89/1225/1/nhung_van_de_ton_giao_7226.pdf
2. link: />18


Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ giáo dục và đào tạo, xuất bản năm
2019
/>5. />6. />7. />
19



×