Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bán phá giá hđ về chống bán phá giá của WTO – tình hình bán phá giá ở việt nam và các biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.27 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM 1 – LỚP LQT44B
Đề tài nghiên cứu: Bán phá giá - HĐ về chống bán phá giá của WTO –
Tình hình bán phá giá ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục.
I. Khái quát chung về bán phá giá.
1. Khái niệm: Dumping is a term used in the context of international trade. It's when a
country or company exports a product at a price that is lower in the foreign importing
market than the price in the exporter's domestic market. Because dumping
typically involves substantial export volumes of a product, it often endangers the
financial viability of the product's manufacturers or producers in the importing nation.
Bán phá giá là thuật ngữ sử dụng trong thương mại quốc tế. Bán phá giá là khi một
quốc gia hoặc công ty xuất khẩu một sản phẩm với mức giá thấp hơn mức giá của thị
trường xuất khẩu nội địa ở thị trường nhập khẩu nước ngồi. Bởi vì bán phá giá liên quan
trực tiếp đến lượng hàng hóa xuất khẩu , nó đe dọa đến khả năng tài chính của các nhà
máy sản xuất hàng hóa hoặc các cơng ty nhập khẩu quốc gia.

(Nói chung, Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra
khi một loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp
hơn giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Cụ thể, nếu một sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại
được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Ytừ nước A sang nước B.
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà
sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các
“vụ kiện chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của
các vụ kiện) là một hình thức để hạn chế hành vi này.)

2. Quy trình điều tra về bán phá giá.
- Quy trình điều tra về bán phá giá bài bản nhất thường có 10 bước;




Bước 1: Bắt đầu vụ kiện
Bước 2: Điều tra sơ bộ
Bước 3: Kết luận vụ kiện
Bước 4: Áp dụng biện pháp tạm thời
Bước 5: Cam kết về giá
Bước 6: Tiếp tục điều tra
Bước 7: Kết luận cuối cùng
Bước 8: Áp dụng biện pháp chống phá giá cuối cùng
Bước 9: Rà sốt hàng năm
Bước 10: Rà sốt hồng hơn.

3: Phân loại bán phá giá.
Có 3 loại:
- Bán phá giá bền vững
- Bán phá giá chớp nhống
- Bán phá giá khơng thường xuyên.

4: Nguyên nhân dẫn đến bán phá giá.
Do có các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan cơng cộng nước ngồi. Các
hình thức tài trợ chủ yếu là: trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham gia của
Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như các hỗ trợ xuất khẩu.
Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có thể áp
dụng biện pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
Do trong một nước có quá nhiều hàng tồn kho, khơng thể giải quyết theo cơ chế giá
bình thường.
Sử dụng lao động là trẻ con , tù nhân với mức th nhân cơng rẻ mạt người ta có thể
hạ giá thành sản phẩm đi đáng kể



Đối với mặt hàng ngoại nhập khẩu, do thu được lợi nhuận siêu ngạch có được từ
trốn thuế nhập khẩu, hàng ngoại sẽ điều tiết và chiếm lĩnh được thị trường với giá cạnh
tranh so với hàng hoá sản xuất trong nước.
(Vd : Hàng vải trên thị trường Việt Nam, thực tế hàng vải nội chỉ giữ 20% thị phần còn
80 % thị phần là hàng vải ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung Quốc chiếm 60% thị phần,
phần lớn số vải từ Trung Quốc là do nhập lậu, trốn thuế nên được bán với giá dù chỉ bằng
1/3- 1/2 hàng sản xuất trong nước.)

5: Mục tiêu bán phá giá:
a. Mục tiêu chính trị:
- Bán phá giá là một trong những biểu hiện trực tiếp nhất của sự can thiệp của Nhà nước

trong lĩnh vực ngoại thương. Một số nước thực hiện bán phá gía để thao túng thị trường.
Ví dụ: Mỹ đã sẵn sàng bỏ Ngân sách để mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi
bán phá giá, điều này làm cho nhiều nước phải lao đao và phải chịu nhiều vòng phong
toả của Mỹ. Chẳng hạn giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/tấn, thậm chí
800USD/tấn, họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới với giá chỉ bằng 60%-70%,
thậm chí 40% mức giá mua. Mức này thấp hơn nhiều so với gía thành của nơng dân Mỹ
sản xuất ra, do đó Mỹ phải trợ giá từ 700- 800 tr USD/năm để trợ giá xuất khẩu gạo,
nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Tuy bị thâm hụt Ngân sách nhưng Mỹ đã thực hiện
được mục tiêu chính trị của mình là thao túng giá gạo trên thế giới, để từ đó buộc các
nước phải ràng buộc với mình trong những điều kiện nhất định.
b. Mục tiêu lợi nhuận:
Từ những năm 1960, các công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là HITACHI,
SANYO, SHARP và TOSHIBA đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964,
họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả
của việc thoả thuận nâng giá này là người Nhật phải trả giá 700USD cho 1 chiếc tivi màu
trong khi ở Mỹ giá là 400USD/chiếc tivi cùng loại. Các công ty của Mỹ đã không chịu
nổi sự cạnh tranh và đến năm 1989, sáu hãng lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản,

công nghiệp sản xuất bị suy yếu, ngược lại các hãng điện tử của Nhật đã thu được lợi
nhuận lớn qua việc bán phá giá này.

(nguồn đại học kinh tế quốc dân)

6. Thiệt hại của việc bán phá giá.


Gây thiệt hại về lợi ích kinh tế cho các nhà sản xuất nội địa của nước xuất khẩu (thiệt
hại thực tế hiện tại/thiệt hại tương lai/rủi ro tiềm ẩn)
-

Ngăn cản sự hình thành một ngành sản xuất nội địa của nước xuất khẩu.

- Tác động làm giảm giá sản phẩm tương tự hay kìm hãm giá sản phẩm tương tự của
thị trường nội địa của nước xuất khẩu.

7: Ảnh hưởng của việc bán phá giá.
a. Nước xuất khẩu
- Tích cực:


Bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, tăng thu được ngoại tệ, giúp tiêu thụ được lượng hàng tồn kho.

Ví dụ: Ở Pháp, ngay từ khi mới vào mùa đã có lượng hàng tồn đọng như: thực phẩm sắp
hết thời hạn sử dụng, quần áo, giầy dép hết mốt...lên tới 50% số dự trữ bán ra. Hàng tồn
kho này được mang bán với mức giá thấp hơn 30% giá thị trường. Đến cuối mùa, hàng
tồn đọng chỉ còn vài phần trăm lại đựơc bán lại cho những người chuyên nghiệp với giá
bằng 1/10 giá cũ, họ sẽ đẩy số hàng hố này ra nước ngồi bán phá giá.



Bán phá giá cịn là cơng cụ quan trọng trong chính sách Ngoại thương của đất nước
nhằm giúp cho việc thực hiện những mục tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của nước đó.

- Tiêu cực:


Người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt do phải chịu giá cao hơn so với trước đây
do có sự thoả thuận về giá giữa các doanh nghiệp.
• Người lao động bị bóc lột nặng nề để giảm chi phí sản xuất, đặc biệt là trẻ em và tù
nhân

b. Nước nhập khẩu :
- Tích cực:

Người tiêu dùng có cơ hội để lựa chọn tiêu dùng những mặt hàng mới, giá cả dễ chấp
nhận. (Đối mặt với những mặt hàng từ nước ngoài đưa vào với giá rẻ, buộc các dịch vụ
trong nước phải tìm cách cải tiến mẫu mã hàng hóa, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tích cực áp dụng cơng nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn nhân lực để
hạ chi phí sản xuất nhằm giữ vững vị trí trên thị trường và thu được lợi nhuận tối ưu).
- Tiêu cực:


Người tiêu dùng của nước nhập khẩu họ phải sử dụng những mặt hàng kém chất
lượng, hàng giả, đôi khi cả hàng quá thời hạn sử dụng, không đảm bảo về an toàn về an
toàn thực phẩm, vệ sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của người dân.

Nhiều xí nghiệp trong nước bị đình trệ sản xuất, bị phá sản hồn tồn gây ra hiện

tượng trì trệ, hạn chế tốc độ phát triển nền kinh tế của nước nhập khẩu.

*Phân biệt bán phá giá và trợ cấp.

Định nghĩa

Biểu hiện

Kết luận

Bán phá giá
Hiện tượng xảy ra khi một
loại hàng hoá được xuất
khẩu từ nước này sang
nước khác với mức giá
thấp hơn giá bán của hàng
hố đó tại thị trường nội
địa nước xuất khẩu.

Trợ cấp
Bất kỳ hỗ trợ tài chính nào
của Nhà nước hoặc một tổ
chức công (trung ương hoặc
địa phương) dưới một
trong các hình thức sau
mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp ngành sản xuất

Nếu một sản phẩm của •
Hỗ trợ trực tiếp bằng

nước A bán tại thị trường
tiền chuyển ngay hoặc hứa
nước A với giá X nhưng lại
chuyển
được xuất khẩu sang nước •
Miễn hoặc cho qua
B với giá Y (Ynhững khoản thu đáng lẽ
phẩm đó được xem là bán
phải đóng
phá giá từ nước A sang • Mua hàng, cung cấp các
nước B.
dịch vụ hoặc hàng hóa
• Thanh tốn tiền cho một
nhà tài trợ hoặc giao cho
một đơn vị tư nhân tiến
hành các hoạt động nêu
trên
Đây là hành vi cạnh tranh
Mang lại lợi ích cho đối
khơng lành mạnh
tượng được hưởng hỗ trợ.
Các “vụ kiện chống bán
phá giá” và tiếp đó là các
biện pháp chống bán phá
giá để hạn chế


* Sự khác nhau giữa biện pháp chống bán phá giá và biện pháp thuế đối
kháng theo quy định của WTO.


1.Khái niệm

2. Điều kiện áp dụng

Biện pháp chống bán
phá giá
Là khoản thuế bổ sung
bên cạnh thuế nhập khẩu
thông thường, do cơ quan
có thẩm quyền của nước
nhập khẩu ban hành, đánh
vào sản phẩm nhập khẩu
bán phá giá trên thị trường
của mình.

Biện pháp thuế đối
kháng
Là biện pháp thuế quan
đặc biệt của một quốc gia
được áp dụng để bù đắp
nhũng thiệt hại do những
biện pháp trợ cấp của
Chính phủ một quốc gia
khác đối với hoạt động sản
xuất, xuất khẩu trong
thương mại.

Chỉ được áp dụng đối
(Điều II.1-SCM)Theo

với hàng hóa nhập khẩu quy định của WTO thì việc
khi:
áp dụng các biện pháp đối
- Hàng hóa đó được đưa
vào kinh doanh trên thị kháng (mà chủ yếu là thuế
trường quốc gia nhập khẩu đối kháng) chỉ có thể thực
với giá trị thấp hơn giá trị hiện nếu cơ quan có thẩm
thơng thường của nó.
quyền của nước nhập khẩu,
- Nghành sản xuất nội địa sau khi đã tiến hành điều
của nước nhập khẩu bị tra chống trợ cấp, ra kết
thiệt hại về mặt vật chất.
luận khẳng định sự tồn tại
- Có mối liên hệ nhân quả
giữa hành vi bán phá giá đồng thời của cả 03 điều
với những thiệt hại vật chất kiện sau:
đó.
- Hàng hố nhập khẩu được
trợ cấp
- Ngành sản xuất sản phẩm
tương tự của nước nhập
khẩu bị thiệt hại đáng kể
hoặc bị đe doạ thiệt hại
đáng kể hoặc ngăn cản
đáng kể sự hình thành của
ngành sản xuất trong nước
(gọi chung là yếu tố “thiệt
hại”);



- Có mối quan hệ nhân quả
giữa việc hàng nhập khẩu
được trợ cấp và thiệt hại
nói trên.
3.Mục đích áp dụng

4.Đối tượng áp dụng

5.Thời hạn áp dụng

Nhằm chống lại việc bán
Nhằm chống lại hành vi
phá giá và loại bỏ những thương mại không lành
thiệt hại do việc hàng nhập mạnh của một hoặc một số
khẩu bán phá giá gây ra.
quốc gia cụ thể (nguyên tắc
Tối huệ quốc không áp
dụng trong trường hợp
này).
Đánh vào các nhà sản
Nhằm vào các nhà sản
xuất riêng lẻ chứ khơng xuất xuất khẩu nước ngồi
phải là thuế áp đặt chung được trợ cấp, chỉ được áp
cho hàng hoá của một quốc dụng đối với trường hợp
gia
thương mại có trợ cấp
Chính phủ
<= 5 năm kể từ ngày có
Phải chấm dứt sau 5 năm
Quyết định áp thuế

được áp dụng
Có thể được kéo dài hơn
trong trường hợp nước
nhập khẩu có lý do để tin
rằng việc chấm dứt áp dụng
thuế đối kháng có khả năng
làm cho trợ cấp và thiệt hại
tiếp diễn hoặc tái diễn

II. Hiệp định chống bán phá giá của WTO – Điều VI GATT (1994)
1. Chống bán phá giá

Khái niệm:
Chống bán phá giá là khi nước nhập khẩu vơ hiệu hóa hiện tượng bán phá giá hàng
nhập khẩu trên thị trường của mình.

Một số biện pháp chống bán phá giá:
- Áp dụng thuế chống bán phá giá: đây là biện pháp phổ biến nhất. Theo PL VN thuế
chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa
bán phá giá nhập khẩu vào trong nước gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước


- Cam kết về các biện pháp loại trừ chống bán phá giá: đây là biện pháp thường áp
dụng khi gia nhập các tổ chức đa phương thương mại, các chủ thể chủ yếu là cá nhân, tổ
chức hay chính phủ của một nước (việc áp dụng chưa thực sự được thực hiện ở VN vì
chúng ta chưa đủ điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu đó, việc thực hiện mang tính tự
nguyện nhưng cũng áp dụng các chế tài khi vi phạm, cam kết khi các nước cùng nằm
trong một tổ chức thương mại, cam kết có hiệu lực với các nước đã cam kết và không có
hiệu lực với các nước khơng tham gia). Biện pháp loại trừ chống bán phá giá sẽ được áp
dụng trước nếu nước đó đã cam kết thay vì thuế chống bán phá giá.

- Thực hiện biện pháp kiện khi có hành vi bán phá giá.

Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá
-Thuế chống bán phá giá theo quy định của khoản 5 Điều 4, Luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu 2016. Theo quy định của hiệp định chống bán phá giá ( ADA) chi
tiết hóa điều VI GATT điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá( có thể là thuế
chống bán phá giá) bao gồm ba điều kiện:
Thứ nhất, phải có hành vi bán phá giá và biên độ bán phá giá phải lớn hơn hoặc bằng
2%. Biên độ bán phá giá sẽ được tính bằng giá thông thường( giá bán của sản phẩm tại
thị trường nước xuất khẩu hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ thị trường nước xuất
khẩu sang thị trường của nước thứ ba hoặc giá được tính trên tổng chi phí sản xuất) trừ
đi giá xuất khẩu( giá trên hợp đồng hoặc giá cho người mua độc lập đầu tiên) sau đó chia
cho giá xuất khẩu .
Thứ hai ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể. Yếu tố thiệt hại thì đại diện
các nhà sản xuất trong nước phải chứng minh.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và thiệt hại đối với ngành
sản xuất trong nước.

2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO – Điều VI GATT (1994).

a, Khái quát chung.
-

Hiệp định về chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices - ADA) chi
tiết hoá Điều VI GATT 1994 về các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện - điều tra và
áp dụng biện pháp chống bán phá giá cụ thể.

-

Hiệp định có 18 điều, được chia làm 3 phần, phần I gồm có 15 điều (từ điều 1 đến

điều 15), phần II gồm có 2 điều (điều 16 và điều 17), và phần III gồm điều 18.


-

Hiệp định thực thi Điều VI của GATT năm 1994 – Hiệp định làm cơ sở cho luật chống
bán phá giá của các quốc gia.

b, Nguyên tắc
Nguyên tắc được nêu trong Phần I điều 1 của Hiệp định: “Một biện pháp chống phá giá
chỉ được áp dụng trong trường hợp được qui định tại Điều VI của GATT 1994 và phải tuân
theo các thủ tục điều tra được bắt đầu và tiến hành theo đúng các qui định của Hiệp định này.
Các qui định sau đây điều tiết việc áp dụng Điều VI của GATT 1994 khi có một hành động
được thực thi theo luật hoặc các qui định về chống bán phá giá”.
Hiệp định này rà soát cung cấp các qui tắc chi tiết hơn và rõ ràng hơn, làm rõ vai trò của
cơ quan giải quyết tranh chấp trong các vụ kiện liên quan đến hoạt động chống bán phá giá tiến
hành bởi chính quyền nội địa.
Hiệp định u cầu phải có thơng báo chi tiết và kịp thời tất cả các quyết định chống bán
phá giá tạm thời hay chính thức tới Ủy ban Thực thi Chống bán phá giá. Hiệp định sẽ tạo cơ hội
cho các bên tham vấn về bất cứ vấn đề nào liên quan đến việc thực thi hiệp định hay bổ sung
mục tiêu cho hiệp định, và yêu cầu thành lập Ban hội thẩm xem xét tranh chấp.

c, Sự ra đời.
Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada (1904) và ngày càng phổ
biến rộng rãi (Mỹ, EU, Australia, Bzazil, Ấn Độ,…).
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT-1947) tiền thân của Tổ chức
thương mại thế giới WTO mới có quy định về điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong
điều VI. Năm 1967, các Bên ký kết của GATT đã thỏa thuận “Hiệp định về thực hiện điều VI
của GATT”, thường được gọi là Bộ luật chống bán phá giá. Sau đó, vấn đề này lại được đưa ra
thảo luật tại Vòng đàm phán Tokyo và Hiệp định này được sửa đổi, bổ sung vào năm 1979.

Cuối cùng, với kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, vấn đề bán phá giá và biện pháp
chống bán phá giá được điều chỉnh bởi “Hiệp định về thực hiện điều VI của Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại năm 1994” (sau đây gọi tắt là Hiệp định ADP). Là một trong những
hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định này được xếp trong Phụ lục I A của Hiệp
định Marrakech thành lập Tổ chức Thương mại thế giới, có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các
nước thành viên của WTO.

d, Ủy ban chống phá giá của WTO (Điều 16)
Ủy ban chống bán phá giá bao gồm đại diện các thành viên WTO được thành lập nhằm
thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao
đổi với nhau về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định chống bán phá giá. Ủy ban
này họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban thư kí WTO sẽ thực hiện chức năng thư kí cho Ủy ban này.
Các thành viên WTO phải thông báo cho Ủy ban chống bán phá giá:


-

-

Ngay lập tức khi họ áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài;
Nửa năm một lần (theo mẫu quy định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp
dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thơng báo này tại
Ban thư kí WTO;
Cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật quy định thủ tục điều
tra phá giá của nước mình.

e, Tiêu chí, áp dụng thuế, thực tiễn
Tiêu chí (Khoản 3 Điều 9)
Theo Hiệp định chống bán phá giá thì một nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá khi:

-

-

-

Thứ nhất, sản phẩm của nước xuất khẩu đang được bán ở thị trường của nước nhập
khẩu với mức giá thấp hơn giá bán thông thường của sản phẩm đó ở thị trường xuất
khẩu.
Thứ hai, có sự tổn thương vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe dọa gây
ra đối với công nghiệp nội địa sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm bán phá
giá; hoặc gây ra sự trì hỗn về mặt vật chất đối với sự thành lập của một nghành cơng
nghiệp trong nước.
Thứ ba, phải có “mối quan hệ nhân quả” giữa bán phá giá và tổn thương vật chất
(hoặc đe dọa gây tổn thương) do hành động bán phá giá gây ra.

Áp dụng thuế (Khoản 4 Điều 9)
Các mức thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu của các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất không
thuộc diện điều tra không được vượt quá các mức sau:
(i) Số bình quân gia quyền của biên độ phá giá của các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất được
lựa chọn điều tra; hoặc
(ii) Trong trường hợp nghĩa vụ nộp thuế chống bán phá giá được tính tốn trên cơ sở trị giá
thơng thường trong tương lai thì khơng được vượt mức chênh lệch giữa số bình quân gia quyền
của biên độ phá giá của các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất với giá xuất khẩu của các nhà xuất
khẩu và nhà sản xuất không thuộc diện điều tra, với điều kiện là các cơ quan có thẩm quyền
trong quá trình thực thi qui định tại khoản này sẽ khơng xét tới các trường hợp biên độ bán
phá giá bằng không hoặc ở mức không đáng kể hoặc mức biên độ được xác định theo như
khoản 8 Điều 6. Các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng mức thuế riêng cho mỗi trường hợp
hoặc áp dụng trị giá thông thường đối với các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất không thuộc diện
điều tra nhưng đã cung cấp các thơng tin cần thiết trong q trình điều tra như đã qui định tại

đoạn 10.2 Điều 6.

Thực tiễn (Khoản 5 Điều 9)


‘‘Nếu một sản phẩm phải chịu thuế chống bán phá giá tại Thành viên nhập khẩu, các cơ quan
có thẩm quyền phải nhanh chóng xem xét lại để có thể quyết định biên độ phá giá cho từng
trường hợp đối với những nhà xuất khẩu và nhà sản xuất không tiến hành xuất khẩu hàng hóa
đó sang Thành viên nhập khẩu vào thời gian tiến hành điều tra với điều kiện là các nhà xuất
khẩu và nhà sản xuất này phải chứng minh được rằng mình khơng có liên hệ gì với các nhà sản
xuất và nhà xuất khẩu của nước xuất khẩu đang phải chịu thuế chống bán phá giá này. Việc
xem xét lại nói trên phải được tiến hành trên cơ sở khẩn trương hơn so với việc định thuế thơng
thường và các thủ tục rà sốt tại Thành viên nhập khẩu. Không được phép đánh thuế chống
bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất đang thuộc diện xem xét lại. Tuy nhiên
các cơ quan có thẩm quyền có quyền giữ mức định thuế và/hoặc yêu cầu bảo lãnh để có thể
đảm bảo được rằng nếu như việc xem xét lại đưa đến kết quả là phải đánh thuế đối với các nhà
xuất khẩu và nhà sản xuất này thì thuế chống bán phá giá đó có thể được thu trên cơ sở hồi tố
tính từ ngày bắt đầu việc xem xét lại.’’
Ví dụ: Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ
- Các cuộc điều tra phá giá hàng năm của Hoa kì ngày càng giảm từ khi Hiệp định chống bán
phá giá của WTO có hiều lực vào năm 1995. Việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
của Hoa Kỳ thường tập trung vào mặt hàng chính là thép.
- Tổng kết trong giai đoạn từ 1995 đến cuối 2002, Hoa Kỳ đã tiến hành 292 cuộc điều tra chống
bán phá giá và 192 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, đối tượng chịu 67 lần bị áp dụng thuế
chống bán phá giá. Như vậy việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đã tăng lên khá
nhanh.
f, Biện pháp, trình tự thủ tục
Biện pháp
* Biện pháp tạm thời (Điều 7)
Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức: thuế, hoặc đặt cọc khoản tiền

tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc cho thông quan nhưng bảo lưu
quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá
dự kiến áp dụng. Thực tế, biện pháp tạm thời hay sử dụng là đặt cọc.
Các biện pháp tạm thời chỉ được phép áp dụng nếu:
(i)
Việc điều tra đã được bắt đầu theo đúng qui định tại Điều 5, việc này đã được thông
báo cho công chúng và các bên hữu quan đã được tạo đầy đủ cơ hội để đệ trình thơng tin và
đưa ra nhận xét;
(ii)
Kết luận sơ bộ đã xác nhận rằng có việc bán phá giá và có dẫn đến gây tổn hại cho
ngành sản xuất trong nước; và
(iii)
Các cơ quan có thẩm quyền hữu quan kết luận rằng cần áp dụng các biện pháp này để
ngăn chặn tổn hại đang xảy ra trong quá trình điều tra.


Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất 60 ngày sau khi bắt đầu điều tra và sẽ được
duy trì càng ngắn càng tốt, khơng được q 4 tháng (trường hợp cần thiết không quá 6 tháng).
Trong trường hợp cơ quan điều tra xác định được rằng khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã
đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 hoặc 9 tháng.
* Cam kết giá: Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam
kết tăng giá lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang được điều tra, và
được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước.
* Thuế chống bán phá giá chính thức (khơng được vượt q biên độ phá giá).
* Thuế đối kháng: hành động đối kháng có thể được tiến hành chống lại hành nhập khẩu có
liên quan, dưới dạng áp đặt một loại thuế đặc biệt, gọi là “thuế đối kháng”.

Thủ tục, trình tự “vụ kiện chống bán phá giá”
* Ai là người có quyền khởi kiện?

Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các chủ thể
có quyền khởi kiện là:


Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại diện của ngành);
hoặc



Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ;

Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ đơn kiện của ngành
sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
* Cơ quan nào có thẩm quyền điều tra?
Khi xảy ra “vụ kiện chống bán phá giá” các cơ quan có thẩm quyền của các nước ra quyết định
khởi xướng điều tra. Thực tế, việc phân công các cơ quan chuyên trách Nhà nước phụ trách
công tác chống bán phá giá ở các nước cũng rất khác nhau. Cơ quan này là các bộ phận độc lập
như Ủy ban chống bán phá giá của Indonesia, Cơ quan chống bán phá giá của Australia. Hoặc
là một bộ phận chức năng nằm trong các bộ như Bộ Thương mại Thái Lan, hay là phối hợp của
nhiều Bộ như Trung Quốc (Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại với Ủy ban kinh tế mậu dịch
đối ngoại).
* Các bước của “vụ kiện chống bán phá giá”
Một vụ kiện chống bán phá giá thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu cầu
trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với
hàng hố bị kiện hay khơng.


Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống bán phá giá” như sau:



Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng cứ ban
đầu);



Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối đơn
kiện, khơng điều tra);



Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi cho
các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp);



Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện pháp tạm thời như
buộc đặt cọc, ký quỹ...);



Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm điều tra
thực địa tại nước xuất khẩu);



Bước 6 : Kết luận cuối cùng;



Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết luận cuối cùng

khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;



Bước 8 : Rà sốt lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan điều tra có thể sẽ
điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế)



Bước 9 : Rà sốt hồng hơn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán phá giá
hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp
thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).

Từ bước 1 đến bước 7 của một vụ điều tra chống bán phá giá thường kéo dài khoảng 18 tháng
đến 2 năm. Tuy nhiên, bước 8 và 9 có thể kéo rất dài sau đó. Ví dụ, trong vụ kiện cá tra, cá basa
ở Hoa Kỳ chẳng hạn, đơn kiện nộp ngày 28/6/2002, quyết định áp thuế ban hành ngày
7/8/2003. Sau đó 2005 và 2006 đều đã có rà sốt lần 1, 2 đối với một số cơng ty xuất khẩu của
Việt Nam.
g, Xác định bán phá giá? Điều tra


Xác định bán phá giá (Điều 2)

Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO thì một sản phẩm bị coi là bán phá giá khi giá
xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn:
- Giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường (giá trị thông thường).
- Giá của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu.
Điều kiện thương mại thông thường: tuy khơng có định nghĩa cụ thể, nhưng có một số trường
hợp khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi
như là khơng nằm trong điều kiện thương mại thông thường.



Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có đặc tính gần giống với sản phẩm là
đối tượng điều tra.


Điều tra (Điều 5)

Một cuộc điều tra để quyết định xem thực sự có tồn tại việc bán phá giá không cũng như
quyết định mức độ và ảnh hưởng của trường hợp đang bị nghi ngờ là bán phá giá sẽ được bắt
đầu khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh
cho ngành sản xuất trong nước.
Các cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra mức độ xác thực và đầy đủ của các bằng chứng
được đưa ra tại đơn yêu cầu để quyết định xem liệu đã có được các bằng chứng đầy đủ để bắt
đầu quá trình điều tra hay khơng.
Bằng chứng của việc phá giá và tổn hại sẽ được xem xét đồng thời (a) để đưa ra quyết
định có bắt đầu điều tra hay khơng và (b) trong q trình điều tra sau đó bắt đầu tính từ ngày
khơng muộn hơn ngày đầu tiên áp dụng các biện pháp tạm thời theo các qui định của Hiệp định
này.
Qui trình điều tra chống bán phá giá không được phép làm cản trở thủ tục thông quan.
Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, quá trình điều tra phải được kết thúc trong vòng 1
năm và trong mọi trường hợp không được vượt quá 18 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra.
CASE EU – GIÀY TRUNG QUỐC
-

Nguyên đơn: Trung Quốc
Bị đơn:
EU
Các Các bên thứ ba: Australia, Braxin, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Việt Nam,
Colombia

Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn) :

Hiệp định Thành lập WTO: Điều XVI:4
Hiệp định ADA (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, 3.1, 3.2, 3.3, 3.4, 3.5, 5.3, 6.1.1, 6.1.2,6.2,
6.4, 6.5, 6.5.1, 6.5.2, 6.8, 6.9, 6.10,6.10.2, 9.1, 9.2, 9.3, 9.4, 11.3, 12.2.2, 2.1,17.6, 18.1, 18.4,
2.2.2, 2.4, 2.6
GATT 1994: Điều XVI:4, X:3(a), I, VI:1
-

Ngày nhận được yêu cầu tham vấn

04/02/2010

Tham vấn
Ngày 04/02/2010, Trung Quốc yêu cầu tham vấn với EU liên quan đến các biện pháp chống
bán phá giá mà EU áp dụng đối với giày da (leather footwear) nhập khẩu từ Trung Quốc.


Theo Trung Quốc, Quy định Cơ bản về Chống bán phá giá của EC quy định trong trường hợp
hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường thì thuế chống bán phá giá sẽ được
xác định chung cho nước đó chứ khơng tính riêng cho từng nhà nhập khẩu. Trong khi đó, theo
quy định của WTO thì biên độ phá giá và thuế chống bán phá giá phải được tính riêng cho từng
nhà sản xuất, xuất khẩu được biết đến chứ không phải chung cho cả nước xuất khẩu bị điều tra.
Cũng theo Quy định Cơ bản của EC, các nhà xuất khẩu muốn được hưởng mức thuế suất riêng
phải đáp ứng đầy đủ các Tiêu chuẩn về Nền kinh tế thị trường và các Tiêu chuẩn để được đối
xử riêng mà theo Trung Quốc thì các tiêu chuẩn này là không hợp lý, thiếu khách quan và vi
phạm Nguyên tắc Tối Huệ Quốc.
Do đó, Trung Quốc cáo buộc EU vi phạm các nghĩa vụ của EU này theo Điều XVI:4 của Hiệp
định WTO, Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, các Điều I:1, VI:1 và X:3(a) của
GATT 1994 và rất nhiều điều khoản khác của Hiệp định ADA.

Giai đoạn Hội thẩm
Tham vấn không thành công, ngày 08/04/2010, Trung Quốc yêu cầu WTO thành lập Ban Hội
thẩm giải quyết tranh chấp vụ việc này. Tại cuộc họp ngày 20/04/2010, DSB đã trì hỗn việc
thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 18/05/2010, Ban Hội thẩm đã được
thành
lập.
Australia, Braxin, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Việt Nam và sau đó là Colombia đã yêu
cầu được tham gia vào vụ kiện với tư cách các bên thứ ba.

III. Tình hình bán phá giá ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục.
1. Cơ sở pháp lí
Trong suốt q trình phát triển kinh tế, Việt Nam đã ký kết rất nhiều Hiệp định Thương
mại. FTA sớm nhất của Việt Nam chính là AFTA vào năm 1996, một năm sau khi gia nhập
ASEAN – nay đã được thay thế bằng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Tiếp đến, năm 2007,
Việt Nam gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và chính
thức bắt tay vào cơng cuộc tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2015 - một năm đầy bước ngoặt khi Việt Nam liên tiếp ký kết bốn FTA với EU, Hàn
Quốc, Liên minh kinh tế Á – Âu (EEC) và TPP. Tính đến cuối năm 2016, các hiệp định thương
mại Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng 16 FTA; bao gồm 10 FTA đã
được thực thi (6 trong 10 FTA này được thực thi với tư cách là thành viên ASEAN, 4 FTA còn
lại là với Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc và EEC) ; 2 FTA đã kết thúc đàm phán là TPP và Hiệp
định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) ; 4 FTA đang đàm phán là Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN – Hồng Kông, FTA với Isarel và với
Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA).
Theo đó, Việt Nam thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan với nhiều định mức khác nhau,
thấp nhất là 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài
hịa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.


Để tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các

doanh nghiệp trong nước, bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc về chống bán phá giá của
WTO được quy định tại:

Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT) (bao gồm các nguyên
tắc chung về vấn đề này);

Hiệp định về chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices - ADA) chi tiết
hoá Điều VI GATT (các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện - điều tra và áp dụng biện pháp
chống bán phá giá cụ thể)
Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định pháp luật về các biện pháp chống bán phá giá, bao
gồm:






Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/ 06/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng
hóa nước ngồi vào Việt Nam
Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự vệ
trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam
Pháp lệnh 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004 về việc chống bán phá giá đối với
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11/07/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hố nhập khẩu vào Việt Nam
Thơng tư số 38/2015/TT-BCT ngày 25/03/2015 quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra,
giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu

2. Facts: các vụ kiện

● Dưới đây là bảng thống kê các vụ điều tra tự vệ do Việt Nam tiến hành với hàng hóa
nước ngồi nhập khẩu.
Facts 1 thời gian cập nhật : 15/03/2018
Nguồn : Hội đồng tư vấn về Phòng vệ thương mại – Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI
Nhìn chung, về phía Việt Nam, các biện pháp phòng vệ vẫn còn mỏng.
Chúng ta mới chỉ thực hiện điều tra chống bán giá 3 vụ, tất cả liên quan đến sản phẩm thép
Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam thực hiện 6 vụ kiện tự vệ, trong đó 2 vụ liên quan đến thép
cịn lại là các sản phẩm khác như phân bón, bột ngọt, dầu thực vật, kính nổi.
● Bên cạnh đó, thống kê các vụ điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa Việt Nam tại
thị trường nước ngồi lại có sự “vượt trội lên” về số lượng qua từng năm.
Tại hội thảo “Xu hướng mới trong pháp luật và thực tiễn phịng vệ thương mại ở Mỹ” có dẫn
Việt Nam trở thành mục tiêu của 107 vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp giá trên
thế giới giai đoạn từ năm 1994 đến nay. Trong đó, số lượng vụ kiện chống bán phá giá là 78
vụ.


Facts 2 thời gian cập nhật : 31/03/2018
Nguồn : Hội đồng tư vấn về Phòng vệ thương mại – Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI
Mỹ là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam nhưng cũng chính là nước khởi kiện
hàng hóa nước ta nhiều nhất (14 vụ), đứng thứ hai là Ấn Độ (11 vụ), thứ ba là Thổ Nhĩ Kỳ (7
vụ). Đồng thời, Mỹ cũng là quốc gia khởi kiện chống trợ cấp đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt
Nam nhiều nhất, chiếm tới một nửa tương đương 6 vụ. Canada đứng thứ 2 với 3 vụ.
Trong số 78 vụ điều tra chống bán phá giá có 37 vụ kiện liên quan đến mặt hàng sắt thép, đứng
thứ hai là mặt hàng sợi dệt. Mặc dù sợi, dệt không phải là lợi thế của Việt Nam nhưng lại bị
điều tra chống bán phá nhiều. Nguyên nhân là do đây là những sản phẩm sợi, dệt không sử
dụng được cho hàng may xuất khẩu. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng sơ sợi này sang
Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ. Đây là hai thị trường sử dụng nhiều biện pháp phòng vệ thương mại.
Mặc dù số vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến nông thủy sản chỉ chiếm 4 vụ nhưng đây
lại là sản phẩm được coi là một trong những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn.
Tương tự với điều tra chống trợ cấp, gần 3/4 vụ kiện liên quan đến mặt hàng sắt thép. Sợi, dệt

chiếm 2 vụ và các sản phẩm công nghiệp khác chiếm 1 vụ.
Số lượng chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá Việt Nam phải chịu là 17 vụ trong đó 16 vụ
liên quan đến Trung Quốc. Tức là hàng hóa Trung Quốc bị áp thuế chống bán phá giá sau đó
nước này xuất khẩu sang Việt Nam và "gia công qua loa" sau đó xuất khẩu sang nước nước
khác.

3. Biện pháp
Để thực thi một cách hiệu quả những chính sách, quy định đã được ban hành, Chính phủ đã
thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Cơng Thương có chức năng giúp Bộ Trưởng
Bộ Công Thương quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Cơ cấu,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Quản lý cạnh tranh được quy định tại Nghị định
số 95/2012/NĐ-CP ngày 12/11/2012 của Chính phủ và Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày
05/02/2013 của Bộ công Thương.
● Biện pháp áp dụng Thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là
bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất của Việt Nam.
● Biện pháp phòng chống các vụ kiện chống bán phá giá của nước ngồi.
● Đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của nước ngoài.
- Áp dụng Thuế chống bán phá : Đây được coi là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng
phổ biến nhất trong thời điển hiện tại.
- Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài




Chính phủ tích cực triển khai đàm phán song phương,đa phương để tranh thủ nhiều
nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, do đó khơng áp dụng biện
pháp chống bán phá giá đối với Việt Nam.




Dự báo danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện phá
giá trên cơ sở rà sốt theo tình hình sản xuất,xuất khẩu từng ngành hàng của Việt Nam
và cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia để từ đó có sự phịng tránh cần thiết.



Xây dựng chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường xuất khẩu của
các doanh nghiệp để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với khối lượng lớn vào
một nước vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Theo
hướng đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến các thị trường lớn (Trung Quốc, Nhật
Bản..) các thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Úc..) các thị trường mới (SNG, Trung Đông,
Nam Phi…). Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa – một thị trường
có tiềm năng phát triển. Đây là những kinh nghiệm ta đã rút ra được từ các vụ kiện bán
phá giá cá tra, cá basa của Mỹ trước đây.



Tăng cường áp dụng các biện pháp cạnh tranh phi giá để nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng xuất khẩu thay cho cạnh tranh bằng giá thấp. Đó là phải đầu tư nâng cao chất
lượng sản phẩm, đẩy mạnh các dịch vụ hậu mãi, tiếp thị quảng cáo, áp dụng các điều
kiện mua bán có lợi cho khách hàng…



Xây dựng cơ sở dữ liệu thơng tin về thị trường xuất khẩu,về luật thương mại quốc
tế,luật chống bán phá giá của các nước… và phổ biến, hướng dẫn cho các doanh nghiệp
các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện.

-


Các giải pháp đối phó với vụ kiện chống bán phá giá đã xảy ra

* Về phía chính phủ: cần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp trong kháng kiện


Thành lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp
kháng kiện.



Cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết về các thủ tục kháng kiện, giới
thiệu các luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện…

* Về phía các hiệp hội ngành hàng: cần phát huy vai trò là tổ chức tập hợp và tăng cường sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm nâng cao năng lực kháng kiện của các doanh
nghiệp.




Thông qua hiệp hội quy định hành vi bảo vệ lẫn nhau, phối hợp giá cả trên thị trường,
tránh tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh có thể tạo ra cớ gây ra các vụ kiện của
nước ngồi.



Thiết lập cơ chế phối hợp trong tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện thành
cơng để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện.




Tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu thông tin về giá cả,định hướng phát triển thị
trường, những quy định pháp lý của nước sở tại về chống bán phá giá… để các doanh
nghiệp kháng kiện có hiệu quả giảm bớt tổn thất do thiếu thơng tin.

* Về phía các doanh nghiệp: cần chủ động theo đuổi các vụ kiện khi bị nước ngoài kiện bán
phá giá.


Hồn thiện hệ thống sổ sách chứng từ kế tốn phù hợp với các quy định của luật pháp
và chuẩn mực quốc tế, lưu trữ đầy đủ hồ sơ về tình hình kinh doanh nhằm chuẩn bị sẵn
sàng các chứng cứ, các lập luận chứng minh không bán phá giá của doanh nghiệp, tổ
chức nhân sự, dự trù kinh phí, xây dựng các phương án bảo vệ lợi ích của doanh
nghiệp…



Tạo ra những mối liên kết với các tổ chức lobby để vận động hành lang nhằm lôi kéo
những đối tượng có cùng quyền lợi ở nước khởi kiện ủng hộ mình.



Chủ động thương lượng với chính phủ của nước khởi kiện thực hiện cam kết giá nếu
doanh nghiệp thực sự có hành vi phá giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cùng
ngành hàng của nước nhập khẩu. Cam kết giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết
sửa đổi mức giá bán (tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu với giá bị coi là bán
phá giá hàng hoá.

CASE CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm 1996. Với giá thành

rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây
ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra
của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống
còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của
Việt Nam, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) đã phải hành động nhằm đánh bật con cá
của Việt Nam ra khỏi thị trường Mỹ. Họ nói rằng cá Việt Nam được nuôi trong môi trường ô
nhiễm, không đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.


Phía CFA yêu cầu, sản phẩm cá da trơn của Việt Nam không được gọi là catfish.
Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thơng qua lệnh
cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới được gọi là
catfish, còn cá của Việt Nam phải được gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật được thơng
qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ khơng chỉ của dư luận Mỹ mà cịn chịu sự phản đối
của dư luận thế giới.
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, CFA tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi
kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa.
Bên nguyên đơn
-Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Hoa Kỳ (CFA)
-Tám nhà sản xuất catfish, bốn công ty chế biến catfish
Bên bị đơn
-Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy hải sản Việt Nam (VASEP)
Cuối năm 2000 CFA tung lên báo chí Hoa Kỳ những thơng tin thất thiết bơi xấu hình ảnh cá
tra, cá basa Việt Nam.
Ngày 29/6 VASEP tuyên bố kiên quyết bác bỏ cáo buộc của CFA về việc các doanh nghiệp
thành viên của VASEP bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Hoa Kỳ.
Phiên điều trần thứ nhất của vụ kiện diễn ra tại Wasington DC vào ngày 19/7 năm 2002
và kết thúc vào 20/7 năm 2002.
Đến ngày 8/8 năm 2002 IPC bỏ phiếu và thống nhất kết luận ngành ni cá da trơn của
Hoa Kỳ có nguy cơ bị đe dọa bởi cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.

Đây là kết quả bất lợi, đẩy vụ kiện sang giai đoạn 2 của quá trình tranh tụng – giai đoạn
căng thẳng nhất của vụ kiện
Ngày 12/8 năm 2002 đoàn chuyên gia của vụ thương mại Hoa Kỳ (DOC) tiếp nhận vụ
kiện, tiến hành các bước điều tra tiếp theo.
Ngày 21/7 năm 2003 DOC ra phán quyết các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng sang
Hoa Kỳ bán phá giá đề nghị mức thuế đối với cá basa Việt Nam là 37,94%- 63,88%.
Ngày 14/6 năm 2003 VASEP sang Wasington dự phiên điều trần cuối cùng trước ủy ban
thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC).
Ngày18/7 năm 2003 ITC đưa ra phán quyết cuối cùng khẳng định doanh nghiệp Việt Nam
bán phá giá gây tổn hại cho ngành sản xuất Hoa Kỳ và ấn định mức thuế từ 36,84%-63,88%.
Cả 4 thành viên ITC dự họp đều bỏ phiếu thuận theo đề nghị của DOC và khẳng định các bằng
chứng về việc cá đông lạnh của VN được bán phá giá là hợp lý, bất chấp sự phản đối gay gắt từ
các doanh nghiệp thủy sản VN, của nhiều thượng nghị sỹ và báo giới hoa kỳ.


Nguồn:
/> /> /> /> />UrlListProcess=/qt/cacchuyenmuc/pldn/Lists/PhoBienPLDN&ListId=43a02566-3516-43a28c1a-4d5fabffc3e5&SiteId=a135f37d-0c83-4107-b0eb4876865a9f69&ItemID=24&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3
/>UrlListProcess=/qt/cacchuyenmuc/pldn/Lists/PhoBienPLDN&ListId=43a02566-3516-43a28c1a-4d5fabffc3e5&SiteId=a135f37d-0c83-4107-b0eb4876865a9f69&ItemID=141&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3
/> /> /> /> /> /> /> />Nguồn : bài giảng đại học kinh tế quốc dân và trang : chongbanphagia.vn, hiệp định chống bán
phá giá điều VI của GATT
/> /> /> />NHÓM 1:


Vũ Thị Phương Thảo
Nguyễn Thị Thu Hiền
Bùi Trương Phương
Quách Thị Huyền
Phan Hà Trang
Ngô Thục Mây
Trần Vân Anh




×