Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Huy động vốn cho phát triển các doanh nghiệp ngành điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.71 KB, 100 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Đề tài:
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN
CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
NGÀNH ĐIỆN
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
Hà Nội, 04/2012
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chúng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong công trình nghiên cứu là trung thực xuất
phát từ thực tế nghiên cứu.
Tác giả công trình nghiên cứu
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Trang phụ bìa 3
PHẦN MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG I: HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC
DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN THỜI GIAN QUA 39
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO PHÁT TRIỂN TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN 64
Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận I 70
Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận II 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC I 87
PHỤ LỤC II 94



GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
PHẦN MỞ ĐẦU
I- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Với tất cả các nền kinh tế trên thế giới, năng lượng luôn được coi là
nguồn “lương thực – thực phẩm sống còn”. Với vai trò như vậy, trong năm
qua, ngành năng lượng Việt Nam đã có những nỗ lực mạnh mẽ nhằm góp
phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Ngành điện là một ngành đặc biệt trong cơ sở hạ tầng ngoài tính chất
là ngành liên quan đến an toàn, an ninh năng lượng quốc gia và đến chính
sách xã hội của Nhà nước, còn là ngành cung cấp yếu tố đầu vào không
thể thiếu cho sản xuất công nghiệp và mọi hoạt động khác của xã hội. Để
đáp ứng tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhu cầu về điện là rất lớn, ngành điện
phải đi trước một bước trong việc cung cấp điện, vì vậy vốn đầu tư cho
ngành điện là rất lớn,
Ngành điện cũng vậy, nó đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong nền
kinh tế quốc dân, tham gia phục vụ cho hầu hết các lĩnh vực từ sản xuất công
nghiệp đến mọi hoạt động khác của xã hội. Điện ra đời đã tạo động lực thúc
đẩy cho mọi ngành kinh tế phát triển. Do đó nếu thiếu điện sẽ gây ra sự đình
trệ trong các hoạt động của nền kinh tế.Nhận thức được vai trò to lớn đó của
ngành Điện nên ngay từ khi ra đời ngành Điện đã được chú trọng đầu tư phát
triển.
Tuy nhiên thực tế cho thấy ngành Điện hiện nay chưa cung cấp đủ điện
phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Ai cũng có thể nhận ra đó là do tốc độ
phát triển của ngành điện hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
điện ngày càng tăng của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Nhưng nguyên
nhân của thực tế đó là gì? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế đó, trong
đó phải kể đến nguyên nhân là ngành Điện chưa được đầu tư thoả đáng.
Trần Thu Nga – CQ4

Page 5
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
Công tác huy động vốn còn chậm chạp và vấn đề sử dụng vốn còn nhiều bất
cập.
Nhận thức được thực tế này và mong muốn trong thời gian tới ngành
Điện Việt Nam sẽ khắc phục được khó khăn và đáp ứng được nhu cầu điện
ngày càng cao của nền kinh tế, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “GIẢI
PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN”
II- Mục đích nghiên cứu:
Về lý luận:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư phát triển của các
doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp trong ngành điện
Nhận diện những thành tựu và hạn chế trong những hoạt động huy động
vốn trước kia trong doanh nghiệp trong ngành điện.
Về thực tiễn:
Đánh giá thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp trong ngành
điện thời gian vừa qua, và kế hoạch phát triển của ngành, từ đó làm cơ sở
nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn của doanh nghiệp.
III- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu khả năng huy động vốn của các doanh
nghiệp trong ngành điện không nghiên cứu khả năng này trong các doanh
nghiệp nói chung.
IV- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, nghiên cứu các vấn đề đặt trong mối quan hệ mật thiết với nhau
đồng thời phối kết hợp với các phương pháp kỹ thuật như thống kê, đánh giá,
kiểm chứng, kinh tế tổng hợp…
V- Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Trần Thu Nga – CQ4
Page 6
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
Chương I: Doanh nghiệp và huy động vốn cho đầu tư của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển cho các doanh
nghiệp ngành điện thời gian qua
Chương III: Giải pháp huy động vốn cho phát triển trong các doanh
nghiệp ngành điện
Trần Thu Nga – CQ4
Page 7
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
CHƯƠNG I: HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài
trợ của doanh nghiệp
1.1.1. Doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất,
cung ứng hàng hóa cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh
lời.
Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học. Doanh
nghiệp như một cái áo khoác (phương tiện) để thực hiện ý tưởng kinh doanh.
Muốn kinh doanh, thương nhân phải chọn lấy cho mình một trong số những
loại hình mà pháp luật quy định.
Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như
sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao

dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh. "
Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa
hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng,
Các loại hình doanh nghiệp:
∗Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Trần Thu Nga – CQ4
Page 8
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động. Điều đó cũng có nghĩa là về
mặt tài chính, chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
khoản nợ của doanh nghiệp.
 Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành
viên hợp danh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn
và uy tín nghề nghiệp và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành
viên góp vốn. Các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của Công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào Công ty.
Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với khoản nợ
của công ty còn các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của
công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn

hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên)
− Công ty trách nhiệm có 2 thành viên trở lên: là doanh nghiệp
trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp.
− Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: là doanh nghiệp do
1 tổ chức hoặc 1 cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu Công ty); chủ sở hữu
Trần Thu Nga – CQ4
Page 9
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của Công ty.
Với cả hai hình thức doanh nghiệp này, chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ
phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ chính của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi số tài
sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ
phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
 Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào Công ty. Cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cho người khác,
trừ trường hợp có quy định của pháp luật. Giống như Công ty trách nhiệm
hữu hạn, thành viên của Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm (hữu hạn) đối
với các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn đã góp.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài trợ của doanh
nghiệp
Mỗi doanh nghiệp tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định về tổ
chức doanh nghiệp. Chính những hình thức này cũng ảnh hưởng đến chính

sách tài trợ của từng doanh nghiệp với từng loại hình cụ thể.
- Công ty tư nhân
Tài sản của Công ty chủ yếu được đầu tư bằng vốn của Chủ doanh
nghiệp. Cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài thông qua hình thức đi
vay, tuy nhiên việc huy động vốn từ bên ngoài là rất hạn hẹp và doanh nghiệp
không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trên thị
trường. Qua đó, cho thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp,
Trần Thu Nga – CQ4
Page 10
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với việc kinh doanh quy mô
nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là người có toàn quyền quyết định đối với tất
cả hoạt động kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp, có quyền cho thuê
doanh nghiệp của mình, có quyền bán lại doanh nghiệp hay tạm ngừng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng phải tuân theo quy định của pháp
luật. Lợi nhuận sau thuế là tài sản hoàn toàn thuộc quyền sở hữu và sử dụng
của chủ doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh
Nguồn vốn điều lệ của Công ty không phải chỉ do một cá nhân góp vốn
mà có tổng hợp nguồn vốn từ các thành viên hợp danh.
Ngoài vốn điều lệ, Công ty hợp danh có quyền lựa chọn hình thức huy
động vốn theo quy định của pháp luật, nhưng không được phát hành bất kỳ
loại chứng khoán nào để huy động vốn.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
Trong công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên: Phần vốn
góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân nhưng số lượng thành viên không quá
năm mươi. Quyền biểu quyết của các thành viên tương ứng với phần vốn góp.

Lợi nhuận sau thuế thuộc về các thành viên của công ty, và việc phân phối do
các thành viên quyết định, tương ứng với phần vốn góp Công ty. Ngoài phần
vốn góp của thành viên, Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức
huy động vốn theo quy định của pháp luật, nhưng Công ty không được quyền
phát hành cổ phiếu.
Đối với Công ty TNHH một thành viên phải xác định và cách biệt tài sản
của chủ sở hữu và tài sản của Công ty: Chủ sở hữu Công ty phải tách biệt chi
Trần Thu Nga – CQ4
Page 11
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
tiêu của cá nhân và gia đình mình với chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch Công
ty và Giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được
quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty cổ phần
Trong công ty cổ phần, việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền
quyết định của Đại hội đồng cổ đông Công ty. Ngoài các hình thức huy động
vốn thông thường, công ty cổ phần có thể phát hành các loại chứng khoán(cổ
phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động vốn nếu đủ tiêu chuẩn theo luật
định.
Công ty cổ phần có nguồn tài trợ đa dạng nhất. Ngoài những nguồn tài
trợ giống như các loại hình Doanh nghiệp khác: Nguồn vốn trong (lợi nhuận
để lại, quỹ khấu hao tài sản cố định), Nguồn vốn ngoài (vay, góp vốn, thuê tài
chính), Công ty cổ phần còn có thể huy động vốn trên thị trường tài chính
thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Đây là
phương thức huy động vốn nhanh chóng, hiệu quả và linh động nhất, quy mô
nguồn vốn không bị hạn chế như đi vay hay vốn góp.
Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến Chính sách này, như Đặc
điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh và Môi trường kinh doanh.
Thứ nhất, về đặc điểm ngành kinh doanh. Một doanh nghiệp thường hoạt

động trong một hoặc một số ngành kinh doanh nhất định. Mỗi ngành kinh
doanh có những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng có ảnh hưởng không nhỏ tới
chính sách tài trợ của một doanh nghiệp.
- Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ thì
vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
cũng nhanh hơn so với các doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp và công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Ở các ngành này, vốn cố định thường
chiếm tỷ trọng cao hơn vốn lưu động, thời gian thu hồi vốn cũng chậm hơn.
- Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản
xuất ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không
Trần Thu Nga – CQ4
Page 12
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng,
đảm bảo cân đối giữa thu và chi, đồng thời đảm bảo vốn cho nhu cầu kinh
doanh. Ngược lại những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành sản xuất
có tính thời vụ thì nhu cầu về vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm chênh
lệch nhau rất lớn, giữa thu và chi bằng tiền thường không có sự ăn khớp về
thời gian. Đó là điều phải tính đến trong việc đề ra các chính sách tài trợ,
nhằm đảm bảo vốn kịp thời, đầy đủ cho hoạt động của doanh nghiệp cũng
như đảm bảo cho sự phát triển vững bền của doanh nghiệp.
Thứ hai, là Môi trường kinh doanh. Doanh nghiệp tồn tại và phát triển
trong môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất
cả những điều kiện bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của
doanh nghiệp: Môi trường kinh tế - tài chính, môi trường chính trị, môi
trường luật pháp, môi trường công nghệ,… ta có thể tìm hiểu về một số tác
động của môi trường tới chính sách tài trợ của doanh nghiệp như:
- Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: cơ sở hạ tầng kinh tế (hệ thống giao
thông, thông tin liên lạc, điện, nước, ) phát triển sẽ giảm bớt được nhu cầu

vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Tình trạng của nền kinh tế: nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng sẽ kích
thích doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội đầu tư và khi đó nhu cầu vốn sẽ tăng
theo, các biện pháp huy động vốn được triển khai, vận dụng. Ngược lại, nền
kinh tế đang trong tình trạng suy thoái thì doanh nghiệp khó có thể tìm được
cơ hội tốt để đầu tư.
- Lãi suất thị trường: đây là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, chi
phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, lãi suất
còn ảnh hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp. Lãi suất thị
trường tăng cao khiến người ta có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn tiêu dùng nên
ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Trần Thu Nga – CQ4
Page 13
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
- Lạm phát: nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao sẽ dẫn đến khó khăn trong
quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nếu không áp dụng những biện
pháp kịp thời hiệu quả, doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ bị thất thoát vốn.
- Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước đối với doanh nghiệp: các
chính sách như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế,… ảnh
hưởng trực tiếp tới quá trình huy động vốn của doanh nghiệp.
- Mức độ cạnh tranh: nếu doanh nghiệp hoạt động trong những môi
trường có mức độ cạnh tranh cao nhu cầu về vốn sẽ lớn hơn vì phải liên tục
đầu tư thay đổi trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm,…
- Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: hoạt động của
các doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có
thể huy động gia tăng vốn, đồng thời có thể đầu tư các khoản tài chính tạm
thời nhàn rỗi để tăng thêm mức sinh lời của vốn hoặc có thể dễ dàng hơn thực
hiện đầu tư dài hạn gián tiếp. Sự phát triển của thị trường làm đa dạng hóa các

công cụ và các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, như các hình thức
cho thuê tài chính, và sự hình thành, phát triển thị trường chứng khoán…
1.2. Đầu tư phát triển và nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
1.2.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo cách hiểu tổng quát nhất là quá trình bỏ vốn, nhằm mục đích
thu được hiệu quả trong tương lai. Cho đến nay có nhiều cách hiểu và định
nghĩa về đầu tư:
- Theo Samuelson , đầu tư được hiểu như sau:
- Đầu tư bao giờ cũng có nghĩa là tạo ra vốn tư bản thực sự - tăng thêm
hàng hóa đưa vào tồn kho, hay xây dựng nhà máy, nhà cửa, công cụ mới,…
Nếu đầu tư dưới hình thức mua cổ phiếu của một doanh nghiệp nào đó, mở
một tài khoản tiết kiệm, gửi tiền ngân hàng thì nhà kinh tế học cho rằng, hành
động đó không tạo ra vốn tư bản thực sự, chỉ làm thay đổi về thành phần tài
Trần Thu Nga – CQ4
Page 14
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
sản của những người đã tiến hành những công việc nói trên. Chỉ khi nào có
tình hình tạo vốn tư bản bằng vật chất thì lúc đó mới có đầu tư.
- Trên góc độ làm tăng thu nhập trong tương lai, đầu tư được hiểu là: sự
hy sinh tiêu dùng trong hiện tại để tăng thêm tiêu dùng trong tương lai vì thu
nhập sẽ được tăng thêm.
- Trên góc độ rủi ro của đầu tư, đầu tư được hiểu là: sự đánh bạc về
tương lai, với hi vọng rằng thu nhập hiện tại và tương lai sẽ lớn hơn chi phí
hiện nay và mai sau.
- Theo từ điển kinh tế học của hai tác giả người Anh là Chritopher Pass
và Bryon Lawes
Đầu tư là chi phí vốn cho việc mua sắm các tài sản cố định là những máy
móc, thiết bị, nhà xưởng và đầu tư dự trữ hàng tồn kho. Đó là hình thức đầu
tư vật chất, làm gia tăng tài sản mới, do đó có tác dụng làm tăng thêm năng

lực sản xuất của một quốc gia, trong khi đầu tư tài chính (Chi phí cho việc
mua các chứng khoán tài chính như Trái phiếu, hay Cổ phiếu) chỉ có tác dụng
chuyển quyền sở hữu(hoặc quyền sử dụng) của một tài sản tài chính, từ một
người hay một tổ chức sang một chủ thể khác.
- Theo từ điển quản lý tài chính Ngân hàng của một nhóm tác giả người
Pháp do Pierrce Conso đại diện: thì đầu tư gồm ba khái niệm tùy thuộc từng
quan điểm.
- Theo quan điểm kinh tế, đầu tư là làm tăng vốn cố định, tham gia vào
hoạt động của các doanh nghiệp trong nhiều chu kỳ kinh doanh nối tiếp. Đó là
quá trình làm tăng tài sản cố định về sản xuất và kinh doanh.
- Theo quan điểm kế toán, khái niệm đầu tư gắn liền với việc phân bổ
các khoản vốn đã bỏ ra vào trong các mục cố định, trong một thời gian nhất
định, phục vụ cho công tác quản lý về kết quả đầu tư.
- Theo quan điểm tài chính đầu tư là làm bất động hóa một số vốn, nhằm
thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Khái niệm này cho biết,
ngoài việc tạo các tài sản vật chất tham gia trực tiếp vào hoạt động của doanh
Trần Thu Nga – CQ4
Page 15
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
nghiệp, còn bao gồm các khoản chi tiêu không tham gia ngay một cách trực
tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp như các chi phí nghiên cứu đào tạo
nhân viên…
Các ý kiến trên về khái niệm đầu tư ,tuy có những khía cạnh khác nhau,
nhưng đều tập trung vào khía cạnh đầu tư là tạo vốn tư bản thực sự, nhấn
mạnh đến hình thái vật chất của đầu tư, trong đó chủ yếu là những tài sản cố
định và có những khoản đầu tư vô hình không gắn với hình thái vật chất cụ
thể (bằng sáng chế, phát minh, chi tiêu nghiên cứu đào tạo,…)
Từ các khái niệm nêu trên, ta ta có thể khái quát lại một số đặc trưng của
đầu tư sau đây:

Đầu tư đòi hỏi nhu cầu về vốn lớn. Sản phẩm của đầu tư có qui mô lớn,
phải bỏ vốn trong thời gian dài hơn so với sản phẩm thông thường và cần một
khối lượng vốn đầu tư lớn, trong khi lợi nhuận thu về phải chờ đợi sau một
thời gian nhất định. Do vậy, các nhà đầu tư thường phải tiến hành vay vốn, vì
vốn đầu tư có không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Khi tiến hành vay vốn,
ngoài việc phải trả giá vốn (lãi suất tiền vay), còn phải tìm được người cho
vay vốn. Như vậy từ đặc trưng này của đầu tư cho ta biết: cần phải tiến hành
huy động vốn theo hình thức và phương pháp phù hợp, nếu không ta sẽ làm
kìm hãm đầu tư.
Tóm lại, đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại để tiến hành các
hoạt động nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để thu được các kết quả đó.Các nguồn lực đó có thể là tài
chính, tài nguyên thiên nhiên,sức lao động và trí tuệ.Các nguồn lực này được
sử dụng một cách hợp lý để tạo ra các kết quả tốt với một chi phí thấp
nhất.Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm của các tài sản tài chính,tài
Trần Thu Nga – CQ4
Page 16
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
sản vật chất ,tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cao hơn có đủ điều kiện làm
việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong đầu tư có ba loại đầu tư chính .
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi sất định trước hoặc lãi suất tùy
thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài
chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính
của tổ chức, cá nhân đầu tư.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hóa và sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho

nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua
đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán và người đầu
tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Không chính xác
Đầu tư phát triển trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt
động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực cho nền sản
xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội .Nói một cách cụ
thể hơn đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng,sửa chữa nhà cửa và
các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền
với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và đào tạo tiềm lực mới cho nền
kinh tế xã hội .
Do phạm vi nghiên cứu liên quan nên ở đây chỉ quan tâm đến loại đầu tư
phát triển. PHẢI đưa ra khái niệm theo quan niệm của người viết. Em có thể
đưa vào quan điểm trong cuốn luận văn cô cho mượn.
Trần Thu Nga – CQ4
Page 17
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
Đầu tư phát triển rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt động đầu
tư phát triển hoạt động sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng_kỹ thuật, đầu
tư phát triển văn hóa …xuất phát từ đặc trưng kỹ thuật của các hoạt động
trong mỗi công cuộc đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động chuẩn bị
đầu tư, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư, thi công xây lắp
công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây lắp cơ bản khác có
liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư phát triển.
Đối với nền kinh tế, đầu tư phát triển là việc đầu tư mà kết quả đầu tư sẽ
dẫn đến sự gia tăng sản lượng hàng hóa, dịch vụ và làm thay đổi cơ cấu kinh
tế xã hội của một quốc gia trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
xã hội.

Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh thì đầu tư phát triển là hoạt động bỏ
vốn đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất nhằm duy trì tiềm lực sẵn có
và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh, nhằm đa dạng hóa ngành
hàng kinh doanh, đầu tư vào các lĩnh vực mới, vùng kinh tế khác nhau, từ đó
làm thay đổi cơ bản cơ cấu kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Phân loại đầu tư
Để huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư, cần phải tiến hành phân
loại đầu tư. Có một số cách phân loại thường gặp sau:
Một là, phân loại theo cơ cấu vốn đầu tư: Căn cứ vào cơ cấu vốn đầu tư
của doanh nghiệp có thể chia đầu tư của doanh nghiệp thành các loại:
- Đầu tư vào tài sản có hình thái vật chất cụ thể (máy móc, thiết bị, nhà
xưởng )
Trần Thu Nga – CQ4
Page 18
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
Đây là khoản đầu tư nhằm tạo ra TSCĐ của doanh nghiệp và thông
thường doanh nghiệp phải sử dụng một khoản vốn lớn để thực hiện đầu tư về
TSCĐ thông qua việc xây dựng và mua sắm.
- Đầu tư về vốn lưu động thường xuyên cần thiết:
Đây là khoản đầu tư để hình thành nên tài sản lưu động tối thiểu thường
xuyên cần thiết (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu) đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành hoạt động bình thường. Tùy
thuộc vào mô hình tổ chức nguồn vốn mà có thể đầu tư một phần hoặc toàn
bộ tài sản lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với một quy mô kinh
doanh nhất định.
- Đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn và đầu tư vào tài sản tài chính:
Đây là các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có nhiều hình thức liên doanh liên kết.
Trong đó có hình thức liên doanh dài hạn, các doanh nghiệp tham gia góp vốn

sản xuất kinh doanh trong thời gian tương đối dài, chịu trách nhiệm chung và
phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp. Liên doanh này
có thể thực hiện trong khuôn khổ một doanh nghiệp đã có sẵn, các tổ chức,
doanh nghiệp khác góp vốn vào liên doanh với các doanh nghiệp đó hoặc
cũng có thể thực hiện liên doanh bằng cách cùng góp vốn để lập nên một đơn
vị kinh tế mới. Ngoài việc tham gia liên doanh trong điều kiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác
có thể tham gia đầu tư vốn dài hạn vào các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
khác dưới hình thức mua cổ phần, mua trái phiếu dài hạn của các doanh
nghiệp khác phát hành… Doanh nghiệp sẽ nhận được khoản thu nhập từ các
cổ phiếu, trái phiếu đã mua.
Hai là, phân loại theo mục tiêu bao gồm:
- Đầu tư hình thành doanh nghiệp: bao gồm các khoản đầu tư ban đầu để
thành lập doanh nghiệp.
Trần Thu Nga – CQ4
Page 19
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
- Đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh: là toàn bộ các khoản đầu tư nhằm
mở rộng thêm các phân xưởng mới hay các đơn vị trực thuộc.
- Đầu tư chế tạo sản phẩm mới: là khoản đầu tư cho nghiên cứu và phát
triển sản phẩm, tạo điều kiện phát triển lâu dài cho doanh nghiệp.
- Đầu tư thay thế, hiện đại hóa máy móc: là khoản đầu tư thay thế hoặc
đổi mới các trang thiết bị cho phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhằm
duy trì hoặc tăng khả năng sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
- Đầu tư ra bên ngoài: là sự đầu tư góp vốn thực hiện liên doanh dài hạn
với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, đầu tư về tài sản tài chính khác…
Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm soát được tình
hình thực hiện đầu tư theo những mục tiêu nhất định mà doanh nghiệp đặt ra
trong một thời kỳ và có thể tập trung vốn và biện pháp thích ứng để đạt được

mục tiêu đầu tư đã đề ra.
Ba là, phân loại theo phạm vi hoạt động đầu tư, bao gồm:
- Đầu tư trong nội bộ doanh nghiệp: là việc sử dụng vốn để đầu tư nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư hiện đại hóa công nghệ kỹ thuật hiện có
nhưng chủ thể quản lý là doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư này hiện nay diễn ra chủ yếu trong các doanh nghiệp
Việt Nam nhằm hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật để tăng năng suất lao
động, giảm giá thành.
- Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp : đây là hoạt động đầu tư mà DN sử dụng
vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp khác nhằm mở rộng quy mô hoạt động
hoặc đầu tư các tài chính nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hiện nay các
doanh nghiệp Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện mạnh hoạt động đầu
tư này.
- Đầu tư ra nước ngoài: đây là hoạt động đầu tư mà các doanh nghiệp sử
dụng vốn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm thành lập các Công ty tại
nước ngoài. Hoạt động đầu tư này sẽ thừa hưởng khoa học công nghệ cao và
Trần Thu Nga – CQ4
Page 20
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
tiếp cận được kỹ năng quản lý của các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay
hoạt động này chưa được phát triển do năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam kém, vốn hạn chế.
Bốn là, phân loại theo cách thức đầu tư, bao gồm:
- Đầu tư trực tiếp: là phương thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia quản trị kinh doanh. Có hai hình thức đầu tư trực tiếp, đó là:
+ Đầu tư dịch chuyển là hình thức đầu tư trong đó bỏ vốn mua lại
một số cổ phần đủ lớn để được quyền chi phối doanh nghiệp khác. Trong hình
thức đầu tư này chỉ có sự thay đổi về quyền sở hữu. Tài sản được dịch chuyển
từ tay doanh nghiệp này sang tay doanh nghiệp khác, không có sự gia tăng tài

sản của doanh nghiệp.
+ Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư của doanh nghiệp mà kết
quả tạo dựng lên những năng lực mới (về lượng hay về chất) cho các hoạt
động sản xuất, dịch vụ để làm phương tiện sinh lợi.
- Đầu tư gián tiếp: là hoạt động đầu tư bằng cách mua các chứng chỉ có
giá như: Cổ phiếu – Trái phiếu … để hưởng lợi tức (giá trị đầu tư ở mức thấp
không đủ điều kiện tham gia quản trị công tác kinh doanh của DN khác).
Như vậy, đầu tư là một quá trình bỏ vốn, mang lại kết quả to lớn đối với
sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế của cả quốc gia nói chung. Tuy nhiên phải lựa chọn sao cho đúng đắn nhất
đối tượng và phương thức đầu tư vẫn luôn là bài toán nan giản của các nhà
quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó là những khó khăn về huy động được
nguồn vốn cho công tác đầu tư.
1.2.3. Ý nghĩa của quyết định đầu tư dài hạn
Trần Thu Nga – CQ4
Page 21
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
Đầu tư dài hạn là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự
phát triển của một doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế quốc dân. Bởi lẽ:
- Quyết định đầu tư dài hạn là quyết định chủ yếu tạo ra giá trị mới cho
doanh nghiệp, là cơ sở gia tăng giá trị của doanh nghiệp.
Đầu tư là yếu tố chủ yếu quyết định sự tăng trưởng của doanh nghiệp,là
cơ sở cho sự gia tăng giá trị của doanh nghiệp.Nếu mức rủi ro không thay đổi
thì việc thực hiện những dự án có tỷ suất sinh lợi cao hơn chi phí sử dụng vốn
sẽ làm gia tăng giá trị doanh nghiệp và ngược lại.
- Mỗi quyết định đầu tư đều ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp trong một thời gian dài, phần lớn các quyết định đầu tư chi phối đến
quy mô kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp,
từ đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm trong tương lai của một doanh nghiệp.
- Quyết định đầu tư tác động đến tỷ suất sinh lời và rủi ro của doanh
nghiệp trong tương lai: Quyết định này ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và từ đó
ảnh hưởng tới cơ cấu chi phí và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
chấp nhận một dự án lớn mang tính chiến lược sẽ làm thay đổi đáng kể mức
lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp và sự rủi ro gắn liền với việc tạo ra lợi
nhuận đó.
- Về mặt tài chính, quyết định đầu tư dài hạn là quyết định tài chính dài
hạn. Thông thường, để thực hiện các quyết định đầu tư đòi hỏi phải sử dụng
một lượng vốn lớn. Vì thế hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong tương lai
của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào quyết định đầu tư ngày hôm nay. Nếu
quyết định đầu tư đúng sẽ góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh, mở rộng
thị trường tiêu thụ. Tăng doanh thu và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp trong
tương lai. Ngược lại, quyết định đầu tư sai sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
Nếu đầu tư quá nhiều, không đúng hướng, hoặc đầu tư không đồng bộ sẽ dẫn
đến tình trạng lãng phí vốn rất lớn, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh
Trần Thu Nga – CQ4
Page 22
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
nghiệp. Nếu không nắm sát nhu cầu thị trường, đầu tư vốn quá ít sẽ làm cho
doanh nghiệp không đủ khả năng sản xuất đáp ứng kịp thời các đơn đặt hàng,
từ đó có thể bị mất thị trường do không đủ sản phẩm để bán.
- Sai lầm trong quyết định đầu tư dài hạn là sai lầm khó hoặc không sửa
chữa được và thường gây ra sự tổn thất có thể đe dọa sự tồn tại của doanh
nghiệp.
Quyết định đầu tư dài hạn là quyết định mang tính chiến lược của một
doanh nghiệp. Nó quyết định đến tương lai của một doanh nghiệp. Bởi lẽ, mỗi
quyết định đầu tư đều ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp trong
một thời gian dài, nó chi phối quy mô kinh doanh, trình độ trang bị kĩ thuật,

công nghệ của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến sản phẩm sản xuất, tiêu thụ
trong tương lai của một doanh nghiệp.
1.2.4. Nhu cầu vốn cho đầu tư
Vốn đầu tư là đầu vào vô cùng quan trọng của bất kỳ quá trình sản xuất
nào,là “chìa khoá” của sự phát triển, ở cả phạm vi Doanh nghiệp và phạm vi
nền KTQD. Các chủ thể công nghiệp cần vốn để đầu tư thành lập mới,mở
rộng quy mô, đổi mới công nghệ của các Doanh nghiệp hiện có và để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn
không chỉ là điều kiện đầu tiên đối với sự ra đời của doanh nghiệp mà nó còn
có vai trò quyết định đối với sự phát triển của doanh nghiệp đó. Để biến
những ý tưởng và kế hoạch kinh doanh thành hiện thực, đòi hỏi phải có một
lượng vốn nhằm hình thành nên những tài sản cần thiết cho hoạt động của
doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra.
Do vậy, doanh nghiệp phải tổ chức tốt nguồn vốn và một vấn đề hết sức
quan trọng đặt ra là xác định nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và
cân đối vốn. Vì vậy khi quyết định đầu tư, cần phải cân đối nhu cầu vốn cho
Trần Thu Nga – CQ4
Page 23
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
dự án đầu tư đó. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải ước tính chi
tiết về các dòng tiền dự kiến đạt được từ các dự án đầu tư của mình.
Nhu cầu vốn ban đầu cho hoạt động đầu tư (đầu tư thuần) có thể bao
gồm: Giá trị tài sản sau khi lắp đặt; Các nhu cầu vốn luân chuyển; Giá trị
chứng khoán sẽ mua được. Các chi phí khác phát sinh đến hoạt động đầu tư;
Giá trị các khoản chi vì mục đích phát triển (quảng cáo, đào tạo…)
Việc xác định chính xác giá trị thuần đầu tư của dự án đầu tư phát triển
là một chi tiêu quan trọng xác định nhu cầu vốn cho đầu tư. Việc xác định nhu
cầu vốn cho đầu tư phát triển có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Bởi

lẽ:
+ Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là cơ sở để
hoạch định chiến lược đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn và cũng là tiền
đề để thực hiện cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở vật chất hiện có, áp dụng
khoa học kỹ thuật hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa.
+ Xác định nhu cầu vốn đầu tư là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn kênh
huy động vốn cho hoạt động đầu tư.
+ Là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng tái sản xuất mở rộng
của doanh nghiệp, đánh giá quy mô của doanh nghiệp làm tiền đề thu hút vốn
đầu tư của các đối tượng khác như: các ngân hàng, tổ chức tài chính – tín
dụng…
1.2.5. Đặc điểm của nguồn vốn đầu tư phát triển
- Thứ nhất, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quy mô
lớn thu hồi trong thời gian dài
Thông thường quyết định đầu tư phát triển là những quyết định đầu tư có
tính chất chiến lược, không chỉ nhằm cải tiến đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật
– công nghệ mà còn nhằm phục vụ mục đích thay đổi cải thiện toàn bộ điều
Trần Thu Nga – CQ4
Page 24
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH ĐIỆN
kiện về sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô phát triển của doanh nghiệp.
Để thực hiện mục tiêu đó, doanh nghiệp phải ứng ra ngay một lượng vốn lớn
ở ngày hôm nay. Do đó, cần thiết phải có một số lượng vốn lớn và dài hạn.
Việc thu hồi vốn thường chỉ được thu hồi dần trong một thời gian dài ở
tương lai. Xem xét đầu tư phát triển trên giác độ khác nhau có thể thấy rằng:
+ Đầu tư phát triển xét trên giác độ tài sản là nhằm đổi mới hiện
đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp
và luôn luôn gắn với những tài sản hữu hình và vô hình giá trị lớn và thu hồi

vốn dần qua các năm.
+ Đầu tư phát triển xét trên giác độ phát triển doanh nghiệp là việc
góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới, cũng phải sử dụng vốn đó để mua
sắm trang thiết bị… và phần này chỉ được thu hồi từ lợi nhuận mang lại,
những khoản đầu tư này có thể là đầu tư dài hạn: 10, 20, 30, 50 năm hoặc lâu
hơn nữa…
+ Đầu tư phát triển xét trên giác độ hẹp và đơn giản thì cũng có thể
thu hồi vốn trong một thời gian ngắn như: Đầu tư nâng cao trình độ và kỹ
năng quản lý của cán bộ công nhân viên thì nó được thu hồi ngay trong năm
hoặc trong một vài năm.
Tuy nhiên về tổng quan, vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu được thu hồi
trong thời gian dài, giá trị của tài sản được hình thành từ vốn đầu tư dịch
chuyển dần vào giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ sản xuất ra.
- Thứ hai, Vốn đầu tư phát triển là vốn đầu tư dài hạn
Trần Thu Nga – CQ4
Page 25

×