Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Luật Hôn nhân và gia đình BTN 9 điểm : Xác định cha, mẹ, con tại tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.37 KB, 13 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Luật Hôn nhân và gia đình
Bộ luật Tố tụng dân sự
Tịa án nhân dân

LHN&GĐ
BLTTDS
TAND

0


MỞ BÀI
Trong xã hội ngày nay, bên cạnh những nét đẹp của gia đình truyền thống đã xuất
hiện nhiều mặt trái tiêu cực, như nhiều người cha, mẹ nhẫn tâm vứt bỏ hoặc không thừa
nhận đứa con ruột thịt của mình,... Trước nguy cơ những vấn nạn này ngày một tăng, để
bảo vệ quyền lợi của trẻ em đối với gia đình, Luật Hơn nhân gia đình năm 2014 đã có
những quy định cụ thể về vấn đề xác định cha, mẹ, con tại Tồ án nhân dân. Chính vì ý
nghĩa và tầm quan trọng đó, nhóm chúng em xin phép được chọn đề tài số 02: “Xác định
cha, mẹ, con tại tòa án nhân dân – thực trạng pháp luật và giải pháp hoàn thiện” làm
đề tài nghiên cứu.

NỘI DUNG
1. Quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân
1.1. Khái niệm xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân
Quan hệ cha, mẹ, con luôn gắn liền với những sự kiện pháp lý nhất định. Về mặt
pháp lý, mối quan hệ này chưa phát sinh khi chưa có sự chứng nhận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Pháp luật khơng đưa ra khái niệm xác định cha, mẹ, con tại Tòa án
nhân dân là như thế nào, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu: “Xác định cha, mẹ, con tại Tịa
án nhân dân là q trình tìm kiếm nhận diện tư cách cha, mẹ, con do cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện trong trường hợp các đương sự không có sự tự nguyện, có tranh chấp


hoặc thỏa thuận thay đổi tư cách cha, mẹ con”.1
1.2. Các trường hợp xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân
Khoản 2 Điều 101 LHN&GĐ năm 2014 đã quy định Tòa án có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong các trường hợp sau đây:
- Thứ nhất, tòa án giải quyết trong trường hợp xác định cha, mẹ, con có tranh
chấp
+ Người được khai là cha, mẹ cho rằng mình khơng phải là cha, mẹ của đứa con.
+ Người khơng được khai là cha, mẹ cho rằng mình là cha, mẹ của đứa trẻ trong khi
đứa trẻ đã được khai sinh và đã có người khác được khai là cha mẹ.
+ Người không được khai là cha, mẹ cho rằng mình là cha, mẹ của đứa trẻ nhưng
người đã được khai là cha hoặc mẹ của đứa trẻ không đồng ý.
+ Người cha không tự nguyện nhận con (con không trong thời kỳ hôn nhân) và người
mẹ hoặc người pháp luật quy định có quyền yêu cầu yêu cầu xác định cha con.
1 Lại Ngọc Lan, Xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội, 2019, tr. 9.

1


+ Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo.
- Thứ hai, tòa án giải quyết trong trường hợp khi người được yêu cầu xác định
cha, mẹ, con đã chết2;
- Thứ ba, tòa án giải quyết trong trường hợp người có yêu cầu xác định cha, mẹ,
con chết.3
Đồng thời, ở điều 28, điều 29 BLTTDS năm 2015 còn ghi nhận trong trường hợp
“Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ 4”; “yêu cầu
xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình5” cũng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
1.3. Căn cứ xác định quan hệ cha, mẹ, con

Căn cứ xác định cha, mẹ, con được xác định dựa vào thời điểm sinh của con với quan
hệ hôn nhân của vợ chồng. Điều 88, điều 89 LHN&GĐ năm 2014 quy định về các căn cứ
để xác định cha mẹ con, cụ thể bao gồm các căn cứ sau đây:
- Thứ nhất, bao gồm các quy định về căn cứ xác định cha, mẹ
+ Con sinh ra trong thời kỳ hơn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn
nhân là con chung của vợ chồng 6.
Con do người vợ sinh ra trong thời kì hơn nhân hoặc có thai trong thời kì hơn nhân
tức là con được người vợ sinh ra ở bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian từ khi kết
hôn đến khi hơn nhân chấm dứt, đều mặc nhiên được suy đốn là con chung của vợ
chồng. Và người chồng hợp pháp của người vợ sẽ là cha của đứa trẻ theo ngun tắc suy
đốn pháp lý. Bên cạnh đó trong trường hợp người chồng không thừa nhận con do người
vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hơn nhân là con ruột của mình thì người chồng có
quyền u cầu xác định đứa trẻ không phải là con trên cơ sở pháp lý. Người chồng có
nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mình khơng thể là cha của đứa trẻ do người vợ
sinh ra, như: người chồng bị vô sinh, kết quả giám định gen… Thẩm quyền xác định lại
vấn đề này thuộc về Tòa án.
+ Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân
được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân7.
2 Khoản 2 Điều 101 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014;
3 Điều 92 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014;
4 Khoản 4 Điều 28 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015;
5 Khoản 10 Điều 29 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015;
6 Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
7 Khoản 1 Điều 88 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014;

2


Thời điểm chấm dứt hôn nhân khi vợ, chồng chết được xác định theo ngày thực tế vợ
hoặc chồng chết ghi trong giấy chứng tử. Trường hợp chấm dứt hôn nhân do ly hơn thì

ngày chấm dứt là ngày bản án hoặc quyết định của tịa án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy
khi giữa nam nữ từng có mối quan hệ hơn nhân thì con sinh ra kể từ ngày chấm dứt hôn
nhân cho đến 300 ngày sau ngày Bản án, Quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn của Tịa
án có hiệu lực pháp luật thì được xác định trên cơ sở nguyên tắc suy đoán pháp lý là con
chung của vợ chồng.
- Thứ hai, bao gồm các quy định về căn cứ xác định con
Theo Điều 88, 89 LHN&GĐ năm 2014: Cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có
chứng cứ và phải được Tồ án xác định; Người không được nhận là cha, mẹ của một
người có thể u cầu Tịa án xác định người đó là con mình; Người được nhận là cha, mẹ
của một người có thể u cầu Tịa án xác định người đó khơng phải là con mình. Các quy
định này nhằm đảm bảo quyền của người cha, người mẹ trong việc xác lập quan hệ chacon, mẹ-con. Thẩm quyền giải quyết đối với các trường hợp nêu trên vẫn thuộc về Tòa án
nhân dân.
- Thứ ba, căn cứ xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản
Pháp luật Việt Nam cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản trong hai trường hợp: Đối với cặp vợ chồng vô sinh (khoản 2 Điều 2 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP) và đối với người phụ nữ độc thân (khoản 6 Điều 2 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP).
+ Xác định cha mẹ đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 LHN&GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người
vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo
quy định tại Điều 88 của Luật này”. Đối chiếu với quy định tại Điều 88 LHN&GĐ năm
2014, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ
chồng. Để bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, cặp vợ chồng vô sinh được xác là cha mẹ đứa
trẻ trong mọi trường hợp.
+ Xác định cha mẹ đối với phụ nữ độc thân
Trường hợp này áp dụng đối với những người phụ nữ không xác lập quan hệ hơn
nhân nhưng mong muốn có con. Theo đó, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này
được Luật quy định cụ thể, đó là người phụ nữ độc thân này đương nhiên sẽ là mẹ của
đứa trẻ được sinh ra theo khoản 2 Điều 93 LHN&GĐ năm 2014. Giữa hai bên có đầy đủ

quyền và nghĩa vụ của mẹ- con theo quy định của pháp luật.
3


Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và
con giữa người cho tinh trùng, cho nỗn, hoặc cho phơi với đứa con được sinh ra.
- Thứ tư, căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng được các quy định tại khoản
22 Điều 3 LHN&GĐ năm 2014 về tính tự nguyện, về chủ thể (cả người mang thai hộ và
người nhờ mang thai hộ), các biện pháp kỹ thuật y học.
Việc xác định cha mẹ đối với trường hợp này được ghi nhận tại Điều 94 LHN&GĐ
năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con
chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con sinh ra”. Về nguyên tắc, các
nhà làm luật vẫn áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lí quy định tại điều 88 LHN&GĐ.
Giữa vợ, chồng người nhờ mang thai hộ với đứa trẻ sinh ra có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của cha, mẹ và con. Ngoài ra việc xác định quan hệ cha, mẹ, con trên cơ sở huyết thống
giữa đứa trẻ được sinh ra với người mang thai hộ sẽ là cơ sở để xác định mối quan hệ họ
hàng, huyết thống với các thành viên hai bên nội - ngoại. Việc mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo khơng làm phát sinh quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang
thai hộ với đứa trẻ được sinh ra.
1.4. Quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại Tòa án
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 102 LHN&GĐ năm 2014, thì những người
có quyền u cầu xác định cha, mẹ, con tại Tịa án gồm có:
- Đối với trường hợp cha, mẹ hoặc con đã thành niên và khơng mất năng lực hành
vi dân sự thì bản thân họ có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con cho mình
- Đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, cha,
mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì người có quyền u cầu xác
định cha, mẹ, con tại Tịa án gồm có: Cha, mẹ, con, người giám hộ của người đó, cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội liên hiệp phụ

nữ.
Ngoài ra, điều 92 LHN&GĐ năm 2014 quy định“Trong trường hợp có yêu cầu về
việc xác định cha mẹ con mà người u cầu chết thì người thân thích của người này có
quyền u cầu Tịa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết”.
1.5. Thủ tục xác định cha, mẹ, con tại Toà án nhân dân
Việc xác nhận quan hệ cha, mẹ, con sẽ căn cứ theo quy định của BLTTDS năm
2015 và được giải quyết theo trình tự thủ tục của vụ án dân sự. Theo đó, khi người có yêu

4


cầu xác định cha, mẹ, con buộc phải làm hồ sơ khởi kiện yêu cầu tòa án xác nhận cha,
mẹ, con tới Tịa án có thẩm quyền. Hồ sơ bao gồm:
- Đơn khởi kiện yêu cầu xác định cha, mẹ con;
- Căn cước công dân, sổ hộ khẩu của các bên;
- Giấy tờ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con giữa người yêu cầu và người bị yêu cầu.
Sau khi nhận được đơn khởi kiện do đương sự nộp, Tòa án phải nhận đơn khởi
kiện xem xét và đưa ra quyết định. Nếu Tòa án quyết định thụ lý vụ án thì sẽ giải quyết
theo trình tự quy định trong BLTTDS năm 2015 hòa giải, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ
thẩm…. Thời gian để Toà án giải quyết vụ án xác định quan hệ cha, mẹ, con có thể kéo
dài từ 01 tháng đến 06 tháng tuỳ vào tính chất của từng vụ việc.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng
ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác
định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự
2.
Đánh giá thực trạng pháp luật về xác định cha, mẹ, con tại TAND
Quy định của LHN&GĐ năm 2014 về xác định cha, mẹ, con đã bảo đảm tính nhân
văn hơn, kịp thời có cơ chế pháp lý khả thi, hiệu quả hơn để tạo điều kiện cho công dân
thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của mình. Đồng thời, quy định cũng hạn chế được

những rủi ro pháp lý, xung đột pháp lý có liên quan về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn cịn
một số khó khăn khi áp dụng pháp luật về xác định cha, mẹ, con tại TAND.
- Thứ nhất, về thẩm quyền xác định cha mẹ con tại TAND
LHN&GĐ năm 2014 quy định các trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án khi có tranh chấp và khi có yêu cầu trong trường hợp người có yêu cầu hoặc người
được yêu cầu chết tại Điều 101; đồng thời BLTTDS năm 2015 cũng đã đưa ra các quy
định liên quan đến thẩm quyền giải quyết của Toà án đối với việc xác định cha, mẹ, con
cụ thể tại điều 28, điều 29. So với BLTTDS cũ năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), có
thể nói rằng đây được xem là một bước tiến mới của các nhà lập pháp trong việc luật hóa
các quan hệ xã hội mà chưa được pháp luật ghi nhận. Mở rộng thẩm quyền của Tòa án
trong việc xem xét xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp và khơng có
tranh chấp. Tuy nhiên, các nhà làm luật không đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc xác định
trường hợp có tranh chấp và khơng có tranh chấp là như thế nào? Dẫn đến nhiều trường
hợp nhiều cha, mẹ nộp đơn yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ con nhưng bị Toà án từ chối
thụ lý và trả lại đơn u cầu vì khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà. Đây cũng là
bất cập phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Thứ hai, về căn cứ xác định cha, mẹ, con tại toà án nhân dân.
5


+ Xác định cha, mẹ, con khi có hơn nhân hợp pháp
Đối với căn cứ xác định cha, mẹ quy định tại Khoản 1 Điều 88 LHN&GĐ năm 2014.
Trong thực tế khi áp dụng để giải quyết một vụ việc tranh chấp xác định cha cho con đã
bộc lộ hạn chế :
Ví dụ: Ngày 15/5/2015, Chị B và anh A được Tồ án cơng nhận thuận tình ly hơn và
chính thức chấm dứt hôn nhân. Sau khi ly hôn được ba tháng, ngày 15-8-2015, chị B
đăng ký kết hôn với anh C. Đến ngày 15-1-2016, chị B hạ sinh được một bé trai (cháu
H). Khi nghe tin chị B sinh con, anh A nhẩm tính ngày tháng và rất vui mừng vì cho rằng
đó là con của mình. Do vậy, anh A đã đến nhà gặp anh C và chị B yêu cầu được công
nhận là cha của đứa bé và được thực hiện trách nhiệm làm cha. Trước yêu cầu này, anh C

và chị B không đồng ý và cho rằng, đứa bé sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên nó là con
chung của B và C. Để làm rõ vụ việc anh A đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà xác định
bé H là con của mình.8
Đối với trường hợp nêu trên, khi áp dụng khoản 1 Điều 88 LHN&GĐ năm 2014 có
thể xác định được 2 trường hợp sau: Thứ nhất, bé H là con của anh C bởi được sinh ra
trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của cha mẹ khi áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý
dựa trên căn cứ là thời kỳ hôn nhân. Thứ hai, cháu H là con của anh A bởi cháu được sinh
ra trong thời gian không quá 300 ngày kể từ ngày anh A và chị B chấm dứt hôn nhân.
Chúng tôi cho rằng khi cùng áp dụng khoản 1 Điều 88 về nguyên tắc suy đoán pháp
lý để xác định cha cho bé H, lại có thể đưa ra hai kết luận trái ngược nhau. Nếu cả hai
người đàn ơng cùng cho rằng mình là cha ruột của đứa trẻ, thì sau khi khởi kiện lên tồ
án, kết quả giám định ADN mới chính là chìa khố duy nhất để giải vấn đề. Điều này cho
thấy phương pháp suy đoán pháp lý dựa trên thời kỳ hơn nhân phần nào khơng cịn tính
ứng dụng với những trường hợp như trên ví dụ . Sự phát triển của kỹ thuật công nghệ
hiện nay chứng minh các căn cứ tại điều luật này đã khơng cịn theo kịp thời đại sau 7
năm áp dụng và cần các nhà lập pháp bổ sung hoặc có thay đổi hướng dẫn cụ thể,…
Mặc dù quy định tại khoản 1 Điều 88 LHN&GĐ năm 2014 vệ xác định cha, mẹ so
với luật hơn nhân trước đó, đã có thay đổi mới. Xuất phát từ việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể, gián tiếp bảo vệ sự phát triển bình thường của đứa trẻ trong tương
lai. Đây cũng là sự cụ thế hóa nguyên tắc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, đồng thời việc xác định
quan hệ cha con trong trường hợp này còn đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên
quan trong các quan hệ thừa kế, cấp dưỡng... Tuy nhiên pháp luật cần phân định rõ các
8 “Đáp án kỳ 15: Luật chung chung, trẻ có đến hai cha”, Báo điện tử pháp luật TP.Hồ Chí Minh

6


yếu tố về thời kỳ hôn nhân để nâng cao tính ứng dụng trong phương pháp suy đốn pháp
lí. Từ đó tránh sự sai sót trong q trình áp dụng pháp luật.
Các căn cứ xác định con tại Điều 89 là cần thiết bởi chỉ khi mối quan hệ cha mẹ con

được xác định trên cơ sở hợp pháp mới phát sinh các quyền, nghĩa vụ liên quan về cha
mẹ con. Thẩm quyền của việc xác định là cha, mẹ của con hoặc xác định không phải con
của cha, mẹ như trên khi có u cầu sẽ thuộc về tịa án. Điều này là hợp lý và phù hợp
với khoản 10 Điều 29 BLTTDS năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết của Toà án
về yêu cầu cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ. So với luật cũ, các nhà lập pháp đã mở
rộng thẩm quyền của tịa án trong các vụ việc liên quan đến hơn nhân gia đình, khơng cịn
chỉ giới hạn ở các vụ tranh chấp mà bao quát hơn ở các vụ việc khơng có tranh chấp mà
cá nhân có u cầu Tồ án xác định cha, mẹ, con.
+ Xác định cha, mẹ con khi cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp
LHN&GĐ năm 2014 khơng có quy định cụ thể về căn cứ xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp gây khó khăn cho Tòa án khi phải giải
quyết những tranh chấp về xác định cha, mẹ, con. Thơng thường khi có u cầu về xác
định con của cha hoặc mẹ khi cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp, Tịa án sẽ căn cứ vào
sự kiện thực tế xảy ra là thời gian chung sống với nhau của cha, mẹ đứa trẻ hoặc dựa trên
kết luận xét nghiệm ADN. Tuy nhiên có nhiều vụ án về xác định cha cho con theo yêu
cầu của nguyên đơn, khi Toà án ra quyết định trưng cầu giám định ADN nhưng bị đơn
không hợp tác nên không thể lấy mẫu giám định dẫn đến việc là khơng có cơ sở để giải
quyết u cầu của ngun đơn, đây là một điều bất cập trong luật. Khi khơng ban hành
các chế tài xử lý kèm theo.
Ví dụ: TAND Q4 đã từng thực hiện một vụ án mà bị đơn không hợp tác cung cấp
mẫu để giám định ADN. Nguyên đơn là ông P.V khởi kiện ông Đ.V.L ra tịa. Lý do: giữa
ơng V và vợ ơng L đã lén lút có mối quan hệ tình cảm. Khi sức khỏe yếu vì bị ung thư,
vợ ơng L đã gọi ông P.V đến bảo ông hãy nhận cháu Q (con gái của bà) về ni vì đó là
con của ông. Ngay sau đó, ông P.V đã khởi kiện yêu cầu tịa xác định cháu Q (con của vợ
chồng ơng L) là con ruột của ơng. Ơng L được tịa án xác định là bị đơn vì lúc này vợ
ơng đã qua đời. Q trình giải quyết vụ án, tịa yêu cầu cả nguyên đơn và bị đơn cung cấp
chứng cứ, trong đó có các mẫu vật giám định ADN để xác định quan hệ huyết thống giữa
ông P.V và cháu Q. Nhưng phía ơng L khơng cung cấp kể cả khi tòa đã ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc ông L phải cung cấp mẫu vật của cháu Q để giám
định AND nên tòa phải gửi quyết định9.

9 Bài viết “Kiện đòi cha cho con, bế tắc vì cha khơng cho... xét nghiệm ADN”, báo Tuổi trẻ

7


+ Xác định cha mẹ con khi cha, mẹ sử dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản hoặc
nhờ người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Các căn cứ được quy định tại Điều 93, Điều 94, Điều 99 LHN&GĐ và Nghị định số
10/2015/NĐ. Mặc dù, quy định về mang thai hộ hướng tới đảm bảo quyền, lợi ích của
đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. Nhưng khi áp dụng vào thực tế, vẫn còn nhiều
trường hợp luật chưa được quy định gây khó khăn trong quá trình giải quyết.
Ví dụ: Người nhờ mang thai hộ khởi kiện yêu cầu xác định lại quan hệ cha mẹ con
khi người nhờ mang thai hộ nghi ngờ đứa trẻ khơng phải là con của mình. Giả xử như kết
quả xét nghiệm đưa ra rằng đứa trẻ đó thực sự khơng có huyết thống với cặp vợ chồng
nhờ mang thai hộ, thì tịa án phải ra phán quyết rằng giữa cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
và đứa trẻ không có quan hệ giữa cha mẹ và con. Khi đó, đứa trẻ được xác định là con ai
? Đây là vấn đề mà luật thực định chưa dự liệu…
- Thứ ba, về quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại toà án nhân dân
Quyền yêu cầu xác định cha mẹ con được quy định tại điều 102 LHN&GĐ năm
2014, tuy nhiên tại điều 92 LHN&GD quy định rằng: “Trong trường hợp có yêu cầu về
việc xác định cha, mẹ, con mà người có u cầu chết thì người thân thích của người này
có quyền u cầu Tịa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết”. Quy định
này cho thấy pháp luật Việt Nam đã mở rộng hơn những chủ thể có quyền yêu cầu xác
định cha, mẹ, con. Tuy nhiên việc quy định đối tượng “Người thân thích” theo chúng em
là q rộng, cần có hướng dẫn chi tiết và theo một thứ tự nhất định để đảm bảo tính riêng
tư của mối quan hệ này bởi vì người thân thích là người có quan hệ hơn nhân, quan hệ
ni dưỡng, người có cùng dịng máu trực hệ và có họ trong phạm vi ba đời10.
Theo BLTTDS năm 2015, một trong những căn cứ để tịa án đình chỉ giải quyết vụ án
là: “Ngun đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ khơng được
thừa kế”11. Theo đó quyền xác định cha, mẹ, con là quyền nhân thân gắn liền với chủ thể

không thể chuyển giao cho người khác; Trong trường hợp này sẽ phải đình chỉ giải quyết
vụ án. Tuy nhiên thì trường hợp quy định tại điều 92 LHN&GĐ được coi là một ngoại lệ
khi người có yêu cầu xác định cha mẹ con chết thì người thân thích của người này sẽ tiếp
tục có quyền u cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết và tham
gia vào quá trình tố tụng. Theo chúng em, việc các nhà làm luật xây dựng Điều 92
LHN&GĐ năm 2014 nhằm đơn giản hoá cũng như giảm bớt gánh nặng về thời gian, chi
phí cho các đương sự và tịa án.
10 Điều 3, Luật Hơn nhân và Gia đình
11 Điểm a, Khoản 1, Điều 217 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015

8


- Thứ tư, thủ tục xác định cha, mẹ, con tại Tồ án nhân dân
Được căn cứ theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. Việc xác định quan hệ nhân
thân giữa cha, mẹ, con, trên cơ sở toà án sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa
các thành viên trong gia đình. Với tính chất giải quyết các vụ việc xác nhận cha, mẹ,
con có tranh chấp hoặc hoặc có yêu cầu mà một bên trong quan hệ chết; thì trình tự xác
nhận cha, mẹ, con ở Tòa án được tiến hành khá phức tạp; tốn nhiều thời gian. Chưa kể
với những trường hợp người khởi kiện khơng có chứng cứ, mà cần phía đối tượng bị khởi
kiện hợp tác để cung cấp chứng cứ (ví dụ một người yêu cầu toà xác định cha - con
nhưng khơng có chứng cứ kèm theo trong hồ sơ khởi kiện vì việc đưa con dưới thành
niên đi giám định ADN cần sự cho phép của người mẹ, mà người mẹ không đồng ý. Điều
này khiến cho hồ sơ khởi kiện bị thiếu mất chứng cứ, và có khả năng bị toà án từ chối thụ
lý. Chúng em đánh giá đây là một thiếu sót khi khơng quy có quy định riêng về thủ tục
xác định cha mẹ con tại tồ, mà lại dựa trên trình tự thủ tục chung của luật tố tụng dân sự.
Vì lẽ đó, mà các chủ thể khởi kiện có thể bị mất đi các quyền quy định tại Điều 186
BLTTDS 2015.
3. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện chế định xác định cha, mẹ con tại Tòa án
nhân dân

Thứ nhất, để đảm bảo sự việc được giải quyết đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ
tục và thống nhất thì cần quy định rõ hơn các trường hợp xác định cha, mẹ, con mà pháp
luật hiện hành mới chỉ quy định chung chung về quyền nhận cha, mẹ, con mà chưa phân
định rõ thẩm quyền giải quyết. Đồng thời pháp luật về hơn nhân cần có hướng dẫn thế
nào được coi là "có tranh chấp" và “khơng có tranh chấp” để xác định đúng thẩm quyền
giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con được tiến hành theo thủ tục hành chính hay thủ
tục tố tụng tại Tồ án. Điều này sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc xác
định cha, mẹ, con nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao hơn;
Thứ hai, trong một vài trường hợp, khi áp dụng khoản 1 Điều 88 LHN&GĐ làm căn
cứ xác định cha, mẹ sẽ dễ gây ra hiểu lầm nếu chỉ dựa trên ngun tắc suy đốn pháp lí.
Điều này cho thấy ngun tắc suy đốn khơng thể áp dụng đối với mọi trường hợp, khi
khoa học công nghệ thời nay đã rất phát triển. Chúng tơi cho rằng, pháp luật cần có văn
bản hướng dẫn áp dụng đối với Điều 88 khi có sự mâu thuẫn xảy ra trong q trình giải
quyết hoặc bổ sung thêm quy định về việc xác định cha, mẹ theo kết quả giám định ADN
đối với các trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hơn nhân hợp pháp. Như

9


vậy, ta có thể đảm bảo tính cơng bằng, chính xác, tránh được việc áp dụng sai điều khoản
pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự;
Thứ ba, nhiều trường hợp người yêu cầu không có chứng cứ gì chứng minh, và
người bị u cầu xác định là cha-mẹ-con không hợp tác dẫn tới việc Tịa án khơng thụ lý
đơn u cầu của họ do khơng có căn cứ. Vì vậy, nên quy định ngay cả khi người u cầu
khơng có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh nộp kèm thì Tịa án cũng vẫn thụ lý yêu cầu,
nhưng người yêu cầu phải có đơn cam kết chịu mọi chi phí (ví dụ như giám định) và
trách nhiệm trong quá trình giải quyết. Trường hợp thụ lý mà xác định u cầu đó khơng
đúng thì đình chỉ giải quyết vụ việc 12. Bên cạnh đó pháp luật cần phải quy định những
chế tài xử phạt, những biện pháp cưỡng chế hữu hiệu để buộc người bị yêu cầu xác định
là cha-mẹ-con hoặc bị yêu cầu xác định không phải là cha-mẹ-con phải cung cấp mẫu

giám định quan hệ huyết thống. Qua đó tháo gỡ vướng mắc cho Tòa án trong việc giải
quyết những vụ việc xác định cha-mẹ-con mà bên bị yêu cầu không hợp tác cung cấp
chứng cứ;
Thứ tư đối với nguyên tắc xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú pháp luật cần quy
định cụ thế những căn cứ pháp lý trong trường hợp này. Trên cơ sở y học, thời kỳ có khả
năng thụ thai của người phụ nữ được xác định trong khoảng từ 180 ngày đến 300 ngày
trước ngày sinh con. Theo đó, nếu người đàn ơng nào có quan hệ sinh lý với mẹ đứa trẻ
đúng vào thời kỳ có khả năng thụ thai của mẹ đứa trẻ thì người đàn ơng đó sẽ được suy
đốn là cha của đứa trẻ ngoài giá thú. Ngoài ra, pháp luật cần bổ sung quy định về chứng
cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con, làm cơ sở pháp lý để giải quyết các vụ khởi kiện
về xác định cha, mẹ, con sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội ngày nay.
Chứng cứ ở đây không chỉ dựa vào lời khai hay sự thỏa thuận của các đương sự mà việc
xác nhận quan hệ huyết thống còn phải thông qua một kết luận khoa học như kết luận y
khoa, kết luận giám định gen13;
Thứ năm, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp xác định cha, mẹ,
con được quy định tại Điều 92 LHN&GĐ năm 2014. Theo quan điểm của chúng tôi,
pháp luật cần hướng dẫn cụ thể theo hướng có thứ tự ưu tiên nhất định trong việc xác
định cha, mẹ, con khi có người u cầu chết. Có thể tính theo quan hệ gần xa, theo cách
xác định người có yêu cầu chết thì vợ hoặc chồng của họ sẽ yêu cầu trước (trong quan hệ
hôn nhân với họ) rồi đến quan hệ nuôi dưỡng (cha mẹ nuôi hoặc con nuôi của người yêu
cầu chết) tiếp theo là các quan hệ huyết thống theo thứ tự cha, mẹ, con; quan hệ anh, chị,
12 Nguyễn Hạnh Hoa, Luận văn thạc sĩ luật học “Xác định cha, mẹ, con và thực tiễn giải quyết tại Tòa án” Hà Nội, 2016.
13 Trần Thu Phương, Luận văn thạc sĩ luật học “Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam”, Hà Nội, 2015

10


em; quan hệ cơ, dì, chú bác với cháu ruột (cha mẹ đẻ, con đẻ, anh chị em ruột, cô dì chú
bác cháu ruột có người u cầu chết). Thứ tự ưu tiên phải dựa vào năng lực hành vi của
những người thân thích, thời hạn khi họ đủ điều kiện u cầu mà khơng thực hiện u

cầu đó để chuyển quyền yêu cầu cho những người tiếp theo sẽ phù hợp hơn do việc này
cần có thể liên quan đến bí mật gia đình họ;
Thứ sáu, hồn thiện thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con tại TAND theo hướng làm
cho thủ tục tố tụng đối với vấn đề này trở nên gọn nhẹ, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, bảo vệ
lợi ích chính đáng cho người dân, đồng thời bảo đảm cơ sở pháp lý chặt chẽ. Để việc yêu
cầu xác nhận cha, mẹ, con có cơ sở pháp lý chặt chẽ thì cần phải có quy định về chứng cứ
chứng minh quan hệ cha con, mẹ con. Chứng cứ ở đây nên quy định là kết luận y khoa,
kết quả giám định AND của cơ quan giám định có thẩm quyền xác nhận quan hệ cha mẹ
con về mặt sinh học. Danh sách các cơ quan có thẩm quyền xác nhận huyết thống về mặt
sinh học phải được Chính phủ thơng qua. Quy định như vậy sẽ giúp các cơ quan tiến
hành tổ tụng có căn cứ để thụ lý vụ án xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh
chấp14;
Thứ bảy, cần đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đồng nhất ở các cấp. Một mặt khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong cơng tác xác định cha, mẹ, con tại tồ án nhân dân; mặt khác nâng
cao khả năng nhận định, xét xử đồng bộ ở hầu hết các cấp toà – bảo đảm tính cơng bằng,
minh bạch hợp lý cho các chủ thể.

KẾT BÀI
Trong những năm trở lại đây, pháp luật nước ta về xác định cha, mẹ, con ngày càng
phát triển và hoàn thiện, điều chỉnh kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn về
xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, công tác thực thi pháp luật về vấn đề này còn nhiều
hạn chế, vướng mắc xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Để khắc phục
tình trạng trên, pháp luật cần xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ và có sự gắn kết
mật thiết với nhau để từ đó tạo nên một cơ chế pháp lý thống nhất, toàn diện. Trong q
trình thực hiện, nhóm chúng em cịn nhiều thiếu xót, mong thầy, cơ có thể xem xét, đánh
giá và chỉnh sửa giúp nhóm để bài làm được hồn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


14 Trần Thu Phương, Luận văn thạc sĩ luật học “Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam”, Hà Nội, 2015

11


1. Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB. Tư Pháp, Hà Nội - 2021;
2. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014;
3. Luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
4. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
luật hơn nhân và gia đình;
5. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
6. Nguyễn Hạnh Hoa, Luận văn thạc sĩ luật học “Xác định cha, mẹ, con và thực tiễn
giải quyết tại Tòa án” Hà Nội, 2016.
7. Lại Ngọc Lan, luận văn thạc sĩ Luật học “Xác định cha, mẹ, con tại Toà án nhân
dân và thực tiễn áp dụng”;
8. Trần Thu Phương, Luận văn thạc sĩ luật học “Xác định cha, mẹ, con theo pháp
luật Việt Nam”, Hà Nội, 2015;
9. ThS. Nguyễn Chí Tùng, “Xác định cha, mẹ, con theo Luật Hơn nhân và gia đình
2014 và thực tiễn áp dụng tại TP.Hịa Bình”;
10. Hồng Đình Dũng, “Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp”, Tạp chí tịa án
/>11. “Đáp án kỳ 15: Luật chung chung, trẻ có đến hai cha”, Báo điện tử pháp luật
TP.Hồ Chí Minh
/>12. Bài viết “Kiện địi cha cho con, bế tắc vì cha khơng cho... xét nghiệm ADN”, báo
Tuổi trẻ ( 31/07/2019)
/>
12




×