Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Học thuyết giá trị thặng dư và sự cống hiến của C.Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.78 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 3
Chương 1: Học thuyết giá trị thặng dư 5
1.1 Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản 5
1.1.1 Công thức chung của tư bản 5
1.1.2 Mẫu thuẫn của công thức chung của tư bản 5
1.1.3 Hàng hóa sức lao động 7
1.2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư 9
1.2.1 Sản xuất giá trị thặng dư 9
1.2.2 Bản chất của tư bản và sự phân chia tư bản 10
1.2.3 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư 12
1.2.4 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư 12
1.2.5 Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản15
1.3.Tiền công trong chủ nghĩa tư bản 16
1.3.1 Bản chất kinh tế của tiền công 16
1.3.2 Các hình thức cơ bản của tiền công 17
1.3.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế 17
1.4 Tích lũy tư bản 19
1.4.1Thực chất và động cơ tích lũy tư bản 19
1.4.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy tư bản 19
1.5. Hình thái tư bản và những hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư 22
1.5.1 Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận 22
1
1.5.2 Các hình thái tư bản và lợi nhuận của chúng 28

1.5.2.1 Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp 28
1.5.2.2 Tư bản cho vay và lợi tức cho vay 30
1.5.2.3 Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán 32
1.5.2.4 Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô TBCN
34
Chương 2: Sự cống hiến của C.Mác 40


2.1 Quan điểm của các trường phái trước C.Mác 40
2.1.1 Quan điểm của trường phái trọng thương 40
2.1.2 Quan điểm của trường phái Cổ điển 40
2.2 Những hạn chế của những quan điểm trước C.Mác 42
2.3 Đóng góp của C.Mác đối với học thuyết giá trị thặng dư 43
Chương 3: Ý nghĩa và sự vận dụng thuyết giá trị thặng dư ở Việt Nam hiện nay 48
3.1 Thực tiễn Hàng hóa sức lao động ở Việt Nam: 48
3.2 Thực tiễn vấn đề “sản xuất giá trị thặng dư” ở Việt Nam 48
3.3 Sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa 49
3.4 Liên hệ tư bản thương nghiệp ở Việt Nam hiện nay: 52
3.5 Liên hệ tư bản cho vay ở Việt Nam hiện nay: 56
3.6 Thị trường chứng khoán ở Việt Nam và vận dụng học thuyết giá trị thặng dư vào thực tiễn
hoạt động TTCK: 60
3.7 Liên hệ tư bản địa tô ở Việt Nam hiên nay: 62
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1. Tính cấp thiết của tiểu luận:
Trong toàn bộ học thuyết của C.Mác thì học thuyết giá trị thặng dư được Lênin
đánh giá là “viên đá tảng của học thuyết kinh tế C.Mác”. Điều đó cho chúng ta thấy vai
trò ý nghĩa to lớn của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư
của C.Mác khẳng định rõ cả luận cứ về mặt lý thuyết và luận cứ về mặt thực tế, mang ý
nghĩa khoa học sâu sắc, đã giải thích được trọn vẹn nhất, cho phép giải thích được những
hạn chế của các nhà kinh tế trước C.Mác.
Chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước ta cần
vận dụng tốt nhiều học thuyết kinh tế trong đó có học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
Tiểu luận đề tài “Học thuyết giá trị thặng dư và sự cống hiến của C.Mác, liên hệ thực tiễn
ở Việt Nam hiện nay” sẽ mang lại ý nghĩa thiết thực về cả phương diện lý luận và giá trị
thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu tiểu luận:
Tiểu luận nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
• Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
• Liên hệ thực trạng ở Việt Nam liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
• Đối tượng nghiên cứu: học thuyết trước C.Mác, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác,
học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
• Phạm vi nghiên cứu: tiểu luận có liên hệ đến thực tiễn trong phạm vi ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
• Tiểu luận đã sử dụng phương pháp mô tả: để mô tả các khái niệm, tính chất đặc điểm của
học thuyết giá trị thặng dư.
• Tiểu luận đã sử dụng phương pháp phân tích: để phân tích các ưu điểm và hạn chế của
học thuyết giá trị thặng dư trước C.Mác,phân tích học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
• Tiểu luận đã sử dụng phương pháp chuyên gia: tham khảo, thu thập ý kiến của các nhà
khoa học, các nhà kinh tế, tham khảo tài liệu sách báo mạng internet…
3
5. Hạn chế của tiểu luận:
Trong quá trình làm tiểu luận, nhóm tiểu luận cũng gặp phải những khó khăn nhất
định: Xuất phát từ nhiều vấn đề thực tiễn ở nước ta liên quan đến đề tài nên một số vấn
đề thực tiễn có thể nhóm chưa đề cập đến trong tiểu luận.
6. Kết cấu của tiểu luận:
Chương 1: Thuyết giá trị thặng dư
Chương 2: Sự cống hiến của C.Mác
Chương 3: Ý nghĩa và sự vận dụng thuyết giá trị thặng dư ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 1: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1 Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
1.1.1 Công thức chung của tư bản
Theo Các Mác thì tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công
thức: H – T - H (Hàng - Tiền - Hàng) còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì
theo công thức: T - H - T’ (Tiền - Hàng - Tiền).

4
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T tức là Hàng -
Tiền) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H tức là Tiền - Hàng), ngoài ra điểm xuất phát và
điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông
hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng. Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng
hành vi mua (T - H tức Tiền - Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’ tức Hàng -
Tiền'); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò
trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị tăng thêm.
Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để có giá trị mới. T' (tức
là Tiền sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công thức: T’ = T + ΔT, trong đó: ΔT
là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thặng dư. Còn số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban đầu
dùng để mua hàng ở đầu chu trình lưu thông này) với mục đích thu được giá trị thặng dư
trở thành tư bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư
cho nhà tư bản.
Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của tư bản cũng
không có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, với T’ = T
+ m
1.1.2 Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’ = T + t.
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá
trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư. Nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay
đổi hình thái của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị
trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tiền không lớn lên,
do đó giá trị không tăng thêm.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị thực của hàng hóa nhưng cũng không làm tăng giá trị thặng dư vì tính
chung tổng thể trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa
là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại.
5
Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, mua may, bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói

thách, nói xạo để được lợi thì chính bản thân người thực hiện hành vi đó được lợi nhưng
tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu
được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác. Như vậy trao đổi
không ngang giá thì giá trị không tăng thêm
Xem xét nhân tố tư bản ngoài lưu thông đồng nghĩa với việc không có sự tiếp xúc
giữa tiền- hàng. Nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông ví dụ như đem chôn,
cất, dấu, tích trữ, tàng trữ, không đầu tư gì cả thì cũng không thể làm cho tiền của mình
tăng thêm lên được , sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con. Mặt khác nếu hàng không
được đưa vào lưu thông nghĩa là hàng sẽ dùng trực tiếp vào sản xuất hoặc tiêu dùng thì
cũng không làm tăng giá trị thặng dư được. Cụ thể, khi hàng dùng vào sản xuất thì giá trị
của nó sẽ dịch chuyển vào sản phẩm. Còn khi hàng dùng vào tiêu dùng cá nhân thì cả giá
trị và giá trị sử dụng cũng mất đi.
Như vậy, cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng
thêm.Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải
tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá (trong lưu thông ) nhưng nhà tư bản
không bán hàng hoá đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng
hoá đó (ngoài lưu thông) tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - hàng hoá đó
là sức lao động. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng
dư.
Thông qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự chuyển hóa trong lưu thông,
tạo ra giá trị mới, theo đó công thức T - H - T' có thể được hiểu là: T là tư bản, là số tiền
đầu tư ban đầu, trong đó một phần sẽ đầu tư vào để mua máy móc, nhà xưởng, một phần
mua nguyên liệu và một phần thuê nhân công, H chính là hàng hóa sức lao động, thông
qua sức lao động của con người sẽ tác động vào máy móc, vật liệu để tạo nên những H
(hàng hóa) có giá trị cao hơn so với giá trị ban đầu và nhà tư bản chỉ việc chiếm đoạt H
này và bản để thu về T' (giá trị mới cao hơn và đã bao hàm trong đó là giá trị thặng dư).
6
Như vậy công thức đầy đủ có thể viết:
Sức lao động

T - H sản xuất hàng hoá H’ - T’
TLSX
Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là: “Tư bản không thể xuất hiện từ
lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong
lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.
1.1.3 Hàng hóa sức lao động
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (gồm thể lực và trí lực) tồn tại trong một
con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Trong mọi xã hội, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản xuất, nhưng
sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
• Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và
chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
• Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất
nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá.
Sức lao động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn mới trong sự phát triển xã hội:
giai đoạn sản xuất hàng hoá trở thành phổ biến, đó là sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Hàng hoá sức lao động là nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản xuất hàng hoá giản
đơn. Như vậy, sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để chuyển hoá
tiền tệ thành tư bản.
Sức lao động là hàng hoá đặc biệt: Sức lao động phải là hàng hoá và giống hàng
hoá thông thường khác nhưng có tính đặc biệt. Trong quan hệ mua bán, chỉ bán quyền sử
dụng chứ không bán quyền sở hữu và có thời gian nhất định. Trong mua bán chịu: Giá trị
sử dụng thực hiện trước, giá trị thực hiện sau. Vì sức lao động phải bán trong mọi điều
kiện - mua bán trong mọi điều kiện để sinh sống.
7
Cũng như hàng hóa khác thì hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và
giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hoá thông thường, lượng giá
trị sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái

sản xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hoá thông thường vì sức lao động là năng lực
(khả năng) tồn tại trong cơ thể sống của con người, để tái sản xuất ra năng lực đó người
công nhân phải tiêu dùng một khối lượng sinh hoạt nhất định để thực hiện nhu cầu tái
tạo sức lao động. Như vậy lượng giá trị sức lao động được đo lường gián tiếp bằng
lượng giá trị sinh hoạt.
Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động:
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho gia đình anh ta
+ Chi phí đào tạo
Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm): Nhân tố làm tăng là do
chí phí đào tạo tăng, do đòi hỏi của cách mạng khoa học kỹ thuật. Nhân tố làm giảm
lượng giá trị sức lao động: do giá trị tư liệu sinh hoạt giảm và năng suất lao động của
ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt tăng.
Giá trị sức lao động đặc biệt khác hàng hoá thông thường: nó mang yếu tố tinh
thần và lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngoài nhu cầu vật
chất còn có nhu cầu tinh thần.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: cũng giống như hàng hoá khác đó là
giá trị sử dụng cũng được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với tư liệu sản xuất
để tạo ra hàng hoá. Trong quá trình lao động đó người công nhân đã tạo ra một giá trị
mới (v + m ). Trong đó có một bộ phận ngang bằng với giá trị sức lao động của người
công nhân nhà tư bản dùng để trả lương cho người công nhân đó (đó là v), còn một bộ
phận dôi ra ngoài bộ phận sức lao động (m) nhà tư bản chiếm không.
8
Như vậy, có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng nó tạo ra
một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác: Giá trị sử dụng đặc biệt
của hàng hoá sức lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.
1.2 Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư
1.2.1 Sản xuất giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số

tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức
tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản
khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư
bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.
Tức là sản lượng của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho
công nhân và mức chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có
hai đặc trưng:
• Công nhân làm việc dưới sự điều khiển của nhà tư bản như là một bộ phận của tư bản và
được nhà tư bản sử dụng với hiệu quả cao nhất.
• Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
1.2.2 Bản chất của tư bản và sự phân chia tư bản (Tư bản bất biến và tư bản khả
biến)
1.2.2.1 Bản chất của tư bản
Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và
được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất
không còn là tư bản nữa.
9
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Đó là một định nghĩa rất chung về
tư bản, nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản hiện đại. Nhưng sau khi nghiên cứu quá
trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá
trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể
hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do
giai cấp công nhân sáng tạo ra.
1.2.2.2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các
hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại

dưới hình thức tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại được sử dụng toàn
bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị
của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng , có loại khi đưa vào sản xuất thì
chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu.
Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều do lao động cụ thể của công nhân
mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư
liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản
xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới.
Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là
được sản xuất ra.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp
C.Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó
dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị
thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của
công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị
được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá
trình sản xuất. Tư bản bất biến gồm máy móc, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu. Giá trị
10
của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm.Giá trị tư liệu
sản xuất được bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới.
Tư bản khả biến là bộ phận tư bản ứng trước dùng để mua hàng hóa sức lao động
không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân làm thuê đã
sáng tạo ra một giá trị mới, lớn hơn giá trị của sức lao động, tức là có sự biến đổi về số
lượng. Tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức tiền lương.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp C.Mác tìm
ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất biến. Sự phân
chia đó vạch rõ nguồn gốc của m, chỉ có bộ phận tư bản khả biến mới tạo ra giá trị thặng
dư, còn tư bản bất biến chỉ là điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất. Sự phân chia đó
cũng cho thấy vai trò của mỗi bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị hàng hóa. Giá trị

của hàng hóa gồm (c+v+m)Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để
sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó,
vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
1.2.3 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m') là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m)
với tư bản khả biến (v) và được tính bằng công thức:
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
Trong đó: t là thời gian lao động tất yếu
t' là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân
làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu
được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
M = m' . V
Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V. Chủ nghĩa tư
bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao
động càng tăng.
11
1.2.4 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1.2.4.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài tuyệt đối ngày lao
động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Việc kéo dài ngày lao động
không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân (vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp
công nhân đòi giảm giờ làm. Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì vì lợi nhuận, khi độ dài ngày
lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công
nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì
vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối.

Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản
khi còn dựa trên lao động thủ công.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:
- Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
- Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 4/4*100% = 100%
Sản xuất m tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động thành 10 giờ trong khi
thời gian lao động cần thiết là 6 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 4/6*100% = 150%
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao
động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định, còn giới hạn dưới của ngày
lao động là thời gian lao động cần thiết.
Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động cần thiết
nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Độ dài cụ
thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản trên cơ sở tương
quan lực lượng quyết định. Do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nên chế độ ngày
làm 8 giờ đã được thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.2.4.2 Sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
12
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động cần thiết, kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài
ngày lao động không đổi.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:
- Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
-Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= 4/4 *100%= 100%
Sản xuất giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết còn 2
giờ. Thời gian lao động thặng dư là 6 giờ.
Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= 6/2 *100%= 300%

Bằng cách nào để rút ngắn thời gian lao động cần thiết, biết rằng thời gian lao
động cần thiết bằng giá trị tạo ra sức lao động, bằng giá trị tư liệu sinh hoạt. Muốn rút
ngắn giá trị lao động cần thiết hạ thấp giá trị sức lao động, hạ thấp giá trị tư liệu sinh
hoạt bằng cách tăng năng suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Khi đã có
nền sản xuất công nghiệp thì có sự kết hợp cả hai phương pháp trên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được ngoài mức trung bình do
tăng năng suất lao động cá biệt, hạ thấp giá trị cá biệt so với giá trị xã hội.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung, đó là
đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là biến
tướng cuả giá trị thặng dư tương đối. Tuy vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Đó là giá
trị thặng dư tương đối dựa trên năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch
dựa trên năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá
trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp
dụng phổ biến. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời. Mác gọi giá trị
thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Sự khác nhau
giữa chúng còn thể hiện ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư
bản thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng
rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ của giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các
nhà tư bản.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố
gắng đạt được trong cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư
siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản mà
13
còn thể hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau. Như vậy giá trị thặng dư siêu
ngạch là động lực trực tiếp mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn
thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị
của hàng hoá.
1.2.5 Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất
hiện giá trị mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này, giai cấp tư sản có xu

hướng không ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản xuất với quy mô
ngày càng lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều được đưa vào tái đầu tư,
tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà xưởng để vận hành tạo giá trị thặng dư.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản vì nó quy
định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của
xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Ở đâu có
sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư
bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật
kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực
thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy
sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn
cơ bản của xã hội tư bản: Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động; mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân.
Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục
đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với
nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng
dư cao hơn.
14
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
1.3 Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
1.3.1 Bản chất kinh tế của tiền công
Công nhân trong xã hội tư bản làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định thì
được nhà tư bản trả cho một số tiền gọi là tiền công. Tiền công được trả theo thời gian lao
động, hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được.
Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự thật

thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng
hoá.
Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một
hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản
xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản
xuất ra, chứ không bán "lao động".
Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận
sau đây: thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản
không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy
luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, còn nếu "hàng hoá lao động" được
trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật
giá trị.
Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là
thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao động không có giá trị. Vì thế, lao
động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao
động. Do đó tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.
15
Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động,
nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động.
1.3.2 Các hình thức cơ bản của tiền công:
Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay
nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn. Tiền
công ngày hay tháng chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay là thấp, vì còn tuỳ theo
ngày lao động dài hay ngắn. Muốn đánh giá mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền
công ngày mà còn phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá
cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc
vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản
xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành. Tiền công tính theo sản phẩm là hình
thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian. Thực hiện tiền công tính theo sản

phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của
công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân tích cực lao động tạo ra nhiều
sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
1.3.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế.
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số
lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền
công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm
xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị
trường. Nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch
vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
16
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến
đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố
tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động như sự nâng
cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên
của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao
động, đó là sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động
qua lại của các nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động,
do đó dẫn tới sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.
Xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền
công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa
tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi
không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời thất nghiệp là hiện
tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động vượt quá cầu về lao động, điều đó cho
phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó, vì vậy tiền công thực tế của giai
cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một
xu hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điều kiện của chủ nghĩa

tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ nên nhu cầu
về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng buộc các nhà tư sản phải cải tiến tổ
chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất.
1.4 Tích lũy tư bản
1.4.1.Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục,
không ngừng. Tái sản xuất được chia thành hai loại: Tái sản xuất giản đơn là quá trình
sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Tái sản xuất giản đơn là đặc trưng của nền sản
xuất nhỏ. Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn
trước, với một tư bản lớn hơn trước. Hình thái điển hình của tái sản xuất trong chủ nghĩa
17
tư bản không phải là tái sản xuất giản đơn mà là tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy, phải
biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư
làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư.
Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã
mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Nghiên cứu tích luỹ tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra kết luận:
• Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Theo C.Mác, tư bản ứng trước sau quá
trình tích lũy tư bản chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.
• Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành
quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa
những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người
này chiếm đoạt lao động của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến
kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn
là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy
luật giá trị.
Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà

tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không
ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm
cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích luỹ tư bản
1.4.2.1. Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m')
Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm
máy móc, thiết bị và công nhân. Nhưng ở đây, nhà tư bản không tăng thêm công nhân mà
18
bắt buộc số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời
gian lao động và cường độ lao động, đồng thời tận dụng một cách triệt để công suất của
số máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng. Nhà tư bản có lợi là không
cần ứng thêm tư bản để thuê thêm công nhân và máy móc, mặt khác thiết bị và máy móc
được khấu hao nhanh hơn, giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản. Trong ngành
khai thác, đối tượng lao động là tặng vật tự nhiên; Tư bản bất biến chủ yếu là tư liệu lao
động, chỉ cần dựa vào sức lao động có thể tăng qui mô tích luỹ mà không cần ứng tư bản
mua thêm nguyên liệu. Trong nông nghiệp cũng vậy, với một số nông cụ, vật tư như cũ,
độ phì của đất thì sản lượng tăng lên nếu như một số công nhân như cũ lại cung cấp một
lượng lao động lớn hơn.
1.4.2.2. Năng suất lao động.
Năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng
giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể lấn sang
phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không giảm mà vẫn có thể có thể
bằng hoặc cao hơn trước;
Một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hoá
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích luỹ
nhờ việc sử dụng vật liệu mới và công cụ mới của vật liệu hiện có đó là những phế thải
vốn không có giá trị trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội. Cuối cùng,

năng suất lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu dụng
mới càng nhanh.
1.4.2.3. Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ qui mô
hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm; còn tư bản tiêu dùng
là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm theo từng chu kì sản
19
xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản suất. Sau khi trừ đi
những tốn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và công cụ lao động, nghĩa là sau
khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã chuyển vào sản phẩm, nhà tư bản sử dụng những
máy móc và công cụ lao động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác. Kĩ thuật càng hiện
đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ
không công của tư liệu lao động càng lớn.
1.4.2.4. Đại lượng tư bản ứng trước.
Muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư thì phải tăng qui mô tư bản. Đại lượng tư
bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo cả chiều rộng lẫn
chiều sâu, khối lượng giá trị thặng dư tăng lên càng nhiều.
1.5 Hình thái tư bản và những hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong
đời sống thực tế của xã hội tư sản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi
nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô
tư bản chủ nghĩa.
1.5.1. Chi phí sản xuất TBCN, lợi nhuận và tỷ xuất lợi nhuận .
1.5.1.1 Chi phí sản xuất TBCN.
Nếu gọi giá trị hàng hoá là G ta có: G = c + v + m (1)
Đối với xã hội, đây chính là chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng
hoá gồm: Chi phí lao động quá khứ được vật chất hoá vào TLSX ( c ) và chi phí lao động
sống tạo ra giá trị mới ( v + m ).
Đối với nhà tư bản, để sản xuất ra hàng hoá, họ chỉ cần bỏ ra một số vốn ban đầu

(tư bản) để mua các yếu tố sản xuất: TLSX + SLĐ (c + v). Đây gọi là chi phí sản xuất
TBCN, ký hiệu bằng K. K = c + v (2)
20
Vậy, Chi phí sản xuất TBCN là phần giá trị bù lại giá cả của những TLSX và giá
cả SLĐ đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản.
Sự khác nhau của G và K:
• Về chất: Chi phí thực tế (G) là chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá,
là giá trị của hàng hoá. Còn chi phí sản xuất TBCN (K) là chi phí về tư bản - là vốn ứng
ra ban đầu.Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy thực chất bóc lột
của chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hóa: W = k + m, trong đó k = c+v.
• Về lượng: Chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế của xã hội để sản xuất ra
hàng hoá một lượng là (m).
Từ (1) và (2) suy ra: G = K + m K = G – m
Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định (c1) là 1200
đơn vị tiền tệ; số tư bản lưu động (c2 và v) là 480 đơn vị tiền tệ (trong đó giá trị của
nguyên, nhiên, vật liệu (c2) là 300, tiền công (v) là 180. Nếu tư bản cố định hao mòn hết
trong 10 năm, tức là mỗi năm hao mòn 120 đơn vị tiền tệ thì: Chi phí sản xuất (k) là: 120
+ 480 = 600 đơn vị tiền tệ Tư bản ứng trước (K) là: 1200 + 480 = 1680 đơn vị tiền tệ Tức
là: K › k Nhưng khi nghiên cứu, Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong 1
năm, nên tổng tư bản ứng trước (K) và chi phí sản xuất luôn bằng nhau (K = k)
1.5.1.2 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
1.5.1.2.1 Lợi nhuận
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN, nên sau khi
bán hàng hóa, nhà tư bản thu được một khoản dôi ra so với chi phí sản xuất TBCN,
khoản đó gọi là lợi nhuận (ký hiệu p).
Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hoá G = c + v + m được chuyển
thành:
G = K + p = chi phí sản xuất TBCN + Lợi nhuận
21
Vậy: Lợi nhuận là số tiền thu được trội hơn so với chi phí sản xuất TBCN. Nó

chính là giá trị thặng dư khi được coi là con đẻ của tư bản ứng trước.
So sánh lợi nhuận và giá trị thặng dư:
Về chất: Thực chất lợi nhuận chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản
ánh sai lệch bản chất bóc lột của CNTB. Cái khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ: Khi nói là (m)
tức là so sánh với (v), là con đẻ của tư bản khả biến, còn khi nói (p) lại có hàm ý so sánh với cả
(c + v), là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (K). Mục đích ở đây là muốn xoá nhoà nguồn
gốc đích thực của lợi nhuận.
Về lượng: (p) và (m) thường không bằng nhau, (p) có thể cao hơn, hoặc thấp hơn
(m), do giá cả hàng hoá có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị hàng hoá do cung –
Cầu và cạnh tranh trên thị trường quy định. Nhưng xét trên bình diện xã hội tổng
(p) vẫn bằng tổng (m).
1.5.1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận.
Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư (m')
chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận.
- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và toàn bộ tư sản
ứng trước. Ký hiệu là P'.
Trong thực tế người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm
giữa tổng số lợi nhuận thu được hàng năm (P) và tổng tư bản ứng trước (K).

- So sánh giữa m' và P'.
Về lượng: Tỷ suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư.
P' < m' vì (
)
v
m
'm
vc
m
'p =<
+

=
22
Về chất: Nếu (m') phản ánh đúng mức độ bóc lột công nhân, thì (P') lại phản ánh
sai lệch mức độ đó (bao giờ p’ cũng ở mức thấp hơn m’). Nhưng (p’) lại phản ánh mức
doanh lợi của việc đầu tư tư bản, nó chỉ cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào ngành nào có
lợi hơn. Do đó (P') là mục tiêu cạnh tranh và là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các
nhà tư bản.
Các nhân tố ảnh hưởng tới P'.
• Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất gía trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn
và ngược lại.
• Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu
tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
• Tốc độ chu chuyển của tư bản: Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất
sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng truớc càng nhiều lần, giá trị thặng
dư theo đó mà tăng lên, làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.
• Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến
không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Bốn nhân tố trên
đây đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để để đạt được tỷ suất lợi
nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tư
bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau thì tỷ suất lợi nhuận lại đạt được khác
nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình
thành lợi nhuận bình quân.
1.5.1.2.3.1 Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một
ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành thông qua các biện pháp: Cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất, nâng cao NSLĐ, chất lượng hàng hoá làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với
giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
23

Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của hàng
hoá (giá trị xã hội của hàng hoá) và làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành
thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống, chủng loại hành hoá đa dạng với chất
lượng ngày càng cao. Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản
xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Hay là giá trị cá biệt của những hàng hoá
được sản xuất và chiếm đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.
1.5.1.2.3.2 Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh
trong các ngành nghề sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Do trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau và các điều kiện sản xuất
không giống nhau, do đó lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận không giống nhau, nên
các nhà tư bản cạnh tranh với nhau để tìm ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu
tư.
Biện pháp cạnh tranh là di chuyển tư bản từ những ngành có (p’) thấp sang những
ngành có (p’) cao.
Kết quả dẫn tới sự phân bố lại các yếu tố sản xuất, làm thay đổi quan hệ cung cầu và giá
cả hàng hoá, dẫn tới (p’) của các ngành xấp xỉ nhau tức là (p’) bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả các tỷ suất lợi nhuận
khác nhau. Hay là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã
hội. ký hiệu là p’. Tính theo công thức:
24
Bảng 2: sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Ngành
sản xuất
Chi phí
sản xuất
TBCN
M
(m'=100%)
Giá trị

hàng
hoá
P'
ngành
(%)
P

’(%)
P

Giá cả
sản xuất
Cơ khí 80c+20v 20 120 20 30 30 130
Dệt 70c+30v 30 130 30 30 30 130
Da 60c+40v 400 140 40 30 30 130
Theo bảng trên, ngành da là ngành có (p’) cao nhất, do đó, tư bản ở ngành cơ khí sẽ
di chuyển đến ngành da làm cho quy mô ngành da mở rộng, sản phẩm ngành da tăng lên,
cung sẽ lớn hơn cầu, giá cả sản phẩm da giảm xuống, do đó lợi nhuận cũng giảm theo. Còn
sự vận động ở ngành cơ khí thì ngược lại.
Như vậy, sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến sự phân bố lại các yếu tố sản xuất
và làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận của ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận
ngang nhau (30%). Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân (
P

' ).
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì ta tính được lợi nhuận bình quân
của từng ngành theo công thứcK:
P

= K .

P

'
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau đầu tư
vào các ngành sản xuất khác nhau. Đó là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ
vào tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu tạo hữu cơ của tư
bản như thế nào.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân làm cho quy luật giá trị thặng dư hoạt động
trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
25

×