Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Hoàn thiện quản lý thu quỹ Bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Sơn Dương - tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.9 KB, 70 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Đã được đảng và nhà nước ta quan tâm rất nhiều, ngay từ khí thành lập nước
đến nay, bởi vì BHXH đã góp phần rất lớn trong việc đảm bảo vật chất, góp
phần ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao
động...thanh gia BHXH và gia đình khi bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng
lao động, hết tuổi lao động hoặc chết. Góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội, thúc đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc
Xã hội chủ nghĩa. Chính vì thấy rõ được tầm quan trọng của BHXH mà đảng và
nhà nước đã không ngừng đổi mới chính sách từ năm 1995 các chế độ, chính
sách BHXH đã được quy định tại Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua
ngày 23 tháng 6 năm1994 và bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1995.
Qua 10 năm tổ chức thực hiện và đi vào hoạt động, hệ thống BHXH Việt
Nam đã từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển đặc biệt
là công tác thu, khai thác thu BHXH và quản lý quỹ BHXH. Đồng thời giải
quyết đầy đủ chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH theo
luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia được
hưởng các chế độ BHXH kịp thời, đầy đủ. Ngày nay đất nước ta đang trong thời
kỳ phát triển mạnh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì vậy đòi hỏi các
chế độ chính sách BHXH phải được coi trọng hàng đầu để các chủ sử dụng lao
động và người lao động thấy rõ được các quyền lợi trước mắt và lâu dài của
mình, từ đó có nghĩa vụ tham gia đóng góp đầu đủ, kịp thời. Tuy nhiên trong
giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý BHXH hiện nay còn rất nhiều chủ sử dụng
lao động còn thiếu hiểu biết hoặc cố tình nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, bản
chất, quyền lợi và những quy định của luật pháp về chế độ, chính sách BHXH;
cho nên việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về các chế độ chính
sách BHXH trong giai đoạn hiện nay cả về mọi mặt, về cả chiều rộng lẫn chiều
sâu là hết sức quan trọng và cần thiết.
1
Chính vì vậy chính sách BHXH và việc làm cho người lao động là một
nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đổi mới


năm 2001 đến 2010; nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động góp phần làm tăng thu nhập và cải thiện đời
sống nhân dân. Bên cạnh đó hệ thống bảo đảm an sinh xã hội với nòng cốt là
chính sách Bảo hiểm Xã hội đã được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về
mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời; hoặc vĩnh viễn mất khả năng
lao động. Chính sách BHXH ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm coi trọng ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã góp phần rất lớn cho sự
phát triển của đất nước.
Trong những năm qua BHXH huyện Sơn Dương thuộc BHXH tỉnh Tuyên
Quang đã thu đạt được nhiều thành tựu, kết quả như: thu BHXH bắt buộc và thu
BHYT tự nguyện ngày càng nhiều đã góp phần không nhỏ cho sự ổn định và
phát triển kinh tế xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Nhưng trong quá
trình quản lý thu BHXH vẫn còn tồn tại một số khó khăn vướng mắc như: chưa
khai thác hết lực lượng lao động, ở các cơ quan, đơn vị. doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hợp tác xã, tổ hộ sản xuất kinh doanh cá
thể vẫn còn tồn tại tình trạng trốn tránh không nộp BHXH cho người lao động.
Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH đạt chưa cao, do vậy
để không ngừng mở rộng đối tượng thu BHXH trên nhiều mặt khác nhau thì
phải cải cách tốt thủ tục hành chính trong việc giải quyết các chế độ chính sách
BHXH; đồng thời nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức viên chức BHXH huyện Sơn Dương trong thực hiện nhiệm vụ thuận
tiện, đầy đủ và kịp thời. Chính vì vậy mà trong quá trình thực tập để làm đề tài
tốt nghiệp em đã chọn đề tài :
" Hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH trên địa bàn huyện Sơn Dương - tỉnh
Tuyên Quang".
2
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận về BHXH và công tác quản lý thu quỹ
Bảo hiểm xã hội.

Chương II : Thực trạng công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH ở
BHXH huyện Sơn Dương, Tuyên Quang thời gian qua.
Chương III : Các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH
huyện Sơn Dương.
Đề tài được thực hiện với sự giúp đỡ của: PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà.
Khoa: Khoa học Quản lý.
Chuyên ngành: Quản lý Kinh Tế
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân.
Cùng Ban Giám Đốc và tập thể cán bộ công chức viên chức BHXH huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình đó, đã giúp Em hoàn
thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
3
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC QUẢN
LÝ THU QUỸ BHXH
I- BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Tính tất yếu của Bảo hiểm xã hội:
Đất nước ta ngày nay, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, là định hướng chủ đạo nó tạo thêm nhiều việc làm mới
cho người lao động. Các khu công nghiệp mới tăng nhanh đã làm hoàn thiện cơ
cấu kinh tế vùng, nền kinh tế Quốc dân bằng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ
của mình nhà nước đã định hướng thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ cụ
thể làm động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của cả nước và từng bước
hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.BHXH mang tính
nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, an sinh xã hội.
BHXH được Nhà nước ta quan tâm rất nhiều ngay từ ngày đầu thành lập
và được cụ thể hóa bằng các sắc lệnh của Chính phủ, các chính sách này đã giúp
cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, người lao động và người làm việc

trong lực lượng vũ trang như công an, quân đội yên tâm, nhiệt tình trong công
tác góp phần không nhỏ vào việc xây dựng, đấu tranh thống nhất đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước ngày nay chính sách BHXH càng
được củng cố, hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quỹ BHXH được bảo tồn tăng
trưởng và phát triển đồng thời được sử dụng có hiệu quả để chi trả các chế độ,
trợ cấp BHXH cho người lao động tham gia đóng BHXH ở các thành phần kinh
tế một cách ổn định lâu dài. Sự xuất hiện nhanh chóng của các loại hình Bảo
hiểm, các quỹ tương hỗ, đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tồn tại
và phát triển xã hội loài người. Từ đó những nỗi lo toan, phiền muộn về các biến
cố, sự cố bất lợi xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của con người đã được giải
4
toả. Tâm lý con người cảm thấy an toàn vui vẻ hơn với sự giúp đỡ của các công
ty, các doanh nghiệp, các đơn vị ,các tổ chức BHXH, hoạt động của các loại
hình Bảo hiểm này đã đem lại chỗ dựa, niềm tin vững chắc trong cuộc sống của
người lao động, tạo sự ổn định của các doanh nghiệp, các công ty và các tổ
chức. Như vậy có thể thấy sự xuất hiện của BHXH là một nhu cầu tất yếu khách
quan của cuộc sống. việc quản lý quỹ BHXH là việc làm rất cần thiết bởi vì
BHXH là chi phí giúp đỡ về mặt tài chính cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan
trọng cho người lao động.
Xét từ các doanh nghiệp: các Doanh nghiệp phải thực hiện đóng góp đầy
đủ, thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy định chung của nhà nước và
pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hiện nay mối quan hệ
cơ bản giữa các chủ Doanh nghiệp và người lao động là mối quan hệ chặt chẽ,
gắn bó ràng buộc nhau bởi các quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các
doanh nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao động vừa phải
trả tiền lương, tiền công cho họ vừa phải có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ khi họ
không may gặp phải những rủi ro trong quá trình lao động, trong cuộc sống.
Chính từ các chi phí phát sinh này đã làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của
các doanh nghiệp, đặc biệt là những khi dịch bệnh, rủi ro mang tính thảm hoạ

ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp
khi phải trang trải cho các chi phí đó. Đối với chủ sử dụng lao động cũng phải
tham gia đóng góp đầy đủ và thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy định
chung của nhà nước của pháp luật. Sau đó người sử dụng lao động có quyền
yêu cầu về quyền lợi hưởng các chế độ trợ cấp về BHXH căn cứ vào sự đóng
góp và theo chế độ quy định.
Xét từ nhà nước và xã hội: xây dựng hệ thống pháp luật về chính sách
BHXH, tổ chức thực hiện tốt các chính sách về BHXH đồng thời cũng có trách
nhiệm tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo quỹ BHXH tăng trưởng
phát triển thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động. Việc tham
5
gia đóng góp và hỗ trợ thêm quỹ BHXH của nhà nước là thể hiện cụ thể vai trò
của Nhà nước trong việc điều tiết kinh tế xã hội và trách nhiệm của Nhà nước
thể hiện trong việc giữ gìn ổn định chính trị xã hội. Sự vận động của các quy
luật trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh nhiều trường
hợp một số doanh nghiệp vào rơi vào tình trạng bất ổn về tài chính, thậm trí phá
sản dẫn đến một loạt người lao động bị mất công ăn việc làm, không đảm bảo
được cuộc sống hàng ngày và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong xã hội.
Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ của xã hội việc quản lý thu BHXH
được coi như là nhu cầu tất yếu của con người nó có thể thấy được xem như là
một trong những quyền cơ bản nhất của con người, được Đại hội đồng liên hợp
quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948 "
Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng
BHXH. quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người" (trích từ: Một số vấn đề
cơ bản về bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội tháng 4/2001);
2. Chức năng của BHXH.
BHXH có một số chức năng chủ yếu như sau :
+ Chức năng hạn chế bớt một phần khó khăn về kinh tế của người lao
động. Với chức năng này BHXH cho phép tất cả các hoạt động kinh tế xã hội

hoặc các đối tượng đã tham gia trong quá trình kinh tế xã hội trước đây hoặc tất
cả các công dân...hình thành các quyền lợi đảm bảo để duy trì một chuẩn mực
sống tương đối ổn định ngay cả khi trong trường hợp có sự cố bất ngờ rủi ro xảy
ra.
+ Chức năng hình thành một hệ thống an sinh, an toàn xã hội. Với chức
năng này rất cần thiết cho người lao động, Người sử dụng lao động mà còn đảm
bảo sự ổn định chính trị, an toàn xã hội cho quốc gia, đảm bảo chắc chắn đối với
mọi thành viên trong xã hội gặp cảnh nghèo đói đều được cung cấp một khoản
6
thu nhập bằng tiền cũng như các dịch vụ chăm sóc về ytế và dịch vụ xã hội đầy
ý nghĩa.
+ Hai chức năng trên này hỗ trợ cho nhau. Đảm bảo ổn định kinh tế tài
chính cho người lao động, khuyến khích họ yên tâm làm việc phát huy hết khả
năng, năng lực chuyên môn giúp cho nền kinh tế phát triển, ổn định xã hội, đảm
bảo an toàn cho quốc gia về kinh tế chính trị và an ninh quốc phòng. Chính vì
thế mà hiện nay đã có 182 nước có luật về BHXH. Có thể nói BHXH là một
trong những hoạt động mà tất cả các quốc gia đều quan tâm không phân biệt thể
chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã đóng góp vai trò to lớn trong việc bảo đảm an sinh xã
hội, ổn định và phát triển kinh tế, được thể hiện thông qua các tác động chủ yếu
cụ thể sau:
-Bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm thu nhập
hoặc bị mất thu nhập do bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động bị
mất việc làm. Đây là sự đảm bảo chắc chắn sẽ xảy ra vì mọi người sẽ mất khả
năng lao động khi họ hết tuổi lao động, theo các điều kiện quy định của BHXH.
Đây là chức năng cơ bản của BHXH nó quyết định tính chất, nhiệm vụ và cơ
chế hoạt động của hệ thống BHXH.
-Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia đóng góp quỹ BHXH. Tham gia BHXH có người sử dụng lao động, người
lao động và nhà nước hỗ trợ đóng góp hình thành xây dựng lên quỹ BHXH .

Quỹ BHXH này được sử dụng để chi trả trợ cấp BHXH cho những người tham
gia BHXH không may gặp tai nạn, rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng số tiền trợ cấp
được hưởng thường nhỏ hơn rất nhiều so với số số tiền mình tham gia, do áp
dụng theo quy luật số đông bù ít, quỹ BHXH đã thực hiện phân phối lại thu
nhập theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Sự phân phối này thể hiện phân phối
thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp,
giữa những người đang làm việc khoẻ mạnh với những người tuổi cao sức yếu,
7
già cả, ốm đau đang nghỉ việc. chức năng này của BHXH đã góp phần tạo nên
sự công bằng trong xã hội mang tính nhân văn sâu sắc.
- Góp phần thúc đẩy, kích thích tinh thần lao động, khuyến khích người
lao động hăng hái sản suất nâng cao chất lợng, năng xuất lao động tạo ra nhiều
của cải cho xã hội. Quỹ BHXH thực hiện chức năng này là do họ không may
gặp phải các tai nạn rủi ro, phần thu nhập của họ bị giảm sút hoặc không còn
nhưng sự suy giảm này đã được bù đắp một phần, hay toàn bộ từ quỹ BHXH. Vì
vậy mà đời sống sinh hoạt hàng ngày của người lao động và gia đình họ không
còn bị sáo trộn. Hay nói một cách khác là họ luôn luôn được bảo đảm ổn định
cuộc sống và có chỗ dựa về mặt vât chất, tinh thần. Chính vì vậy họ luôn yên
tâm để sản xuất nâng cao chất lượng, năng xuất lao động và đạt hiệu quả kinh tế
cao.
- Gắn bó lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động giữa
người sử dụng lao động với xã hội. Thông qua BHXH những mâu thuẫn giữa
những người lao động và người sử dụng lao động. Như mâu thuẫn về tiền lương,
tiền thưởng, thời gian lao động … sẽ được hoà giải và giải quyết kịp thời. Đặc
biệt nhờ có BHXH mà cả hai bên này đều thấy được quyền lợi của mình được
quan tâm bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó chặt chẽ lợi ích với
nhau. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi hỗ trợ cho BHXH là khoản chi rất nhỏ
nhưng lại đem lại hiệu quả đạt được rất cao đảm bảo ổn định đời sống của
người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất và phát triển kinh tế
xã hội.

3. Tính chất của bảo hiểm xã hội.
BHXH ra đời gắn liền với đời sống của người lao động do vậy BHXH có
một số tính chất cơ bản sau:
- BHXH mang tính tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội.
- BHXH mang tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều theo thời gian
và không gian. Những rủi ro không may đem lại trong BHXH đã hình thành nên
8
tính ngẫu nhiên của nó. Bởi vì các rủi ro này được áp dụng BHXH đều không
thể lường trước được sự việc xảy ra, các rủi ro này thường xảy ra một cách bất
ngờ. Do vậy mà không phải tất cả những người lao động của một tổ chức hay
tất cả các tổ chức đều phải chịu chung một rủi ro hay nhiều rủi ro cùng một lúc,
cùng một thời điểm.
- BHXH vừa mang tính xã hội, vừa mang tính kinh tế và có cả tính chất
dịch vụ. Tính chất kinh tế của BHXH được biểu hiện thông qua cơ chế hình
thành và sử dụng quỹ BHXH, Quỹ BHXH khi được hình thành, bảo toàn và tăng
trưởng quỹ thì nhất thiết phải có sự tham gia đóng góp tài chính của tất cả các
bên liên quan. Mức tham gia đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa
trên nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm xã hội tr ên cơ sở lấy số đông bù
cho số ít vì thực chất mức tham gia đóng góp của từng nguời lao động là không
đáng kể so với mức họ được thụ hưởng quyền lợi. Xét về góc độ kinh tế thì
người sử dụng lao động, được lợi rất nhiều khi quan hệ BHXH, khi tham gia
BHXH người sử dụng lao động sẽ không phải chi trả các khoản chi phí cho
người lao động bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động. Xét về phía
Nhà nước thì việc tạo lập, hoạt động của quỹ BHXH đã góp phần giảm nhẹ gánh
nặng cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Đồng thời nó còn góp phần đầu tư phát
triển cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tạo lập và sử dụng, hoạt động của quỹ
BHXH đã đem lại rất nhiều quyền lợi, lợi ích cho nguời lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước.
BHXH là một bộ phận quan trọng chủ yếu trong hệ thống đảm bảo an
toàn xã hội, vì tính chất xã hội của BHXH được thể hiện rất rõ nét về tính chất

lâu dài mọi nguời lao động trong xã hội đều có quyền tham gia đóng góp vào
quỹ BHXH. Ngược lại BHXH phải có trách nhiệm Bảo hiểm đảm bảo quyền lợi
cho mọi người lao động và gia đình họ kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao
động. Tính chất xã hội của BHXH luôn gắn chặt chẽ với tính dịch vụ của nó, khi
9
nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển mạnh thì tính chất dịch vụ, tính chất xã
hội hoá của hệ thống BHXH ngày càng được nâng cao.
3.1, Đặc điểm của quỹ BHXH:
+ Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập chung giữ vị trí trong khâu tài chính
nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các Tổ chức tài chính doanh nghiệp,
tài chính Nhà nước, tài chính dân cư.
+ Việc phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính
chất không hoàn trả. Tính chất không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối
với những người lao động đã tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động
nhưng không bị ốm đau, sinh con, tai nạn lao động.
+ Sự ra đời tồn tại và phát triển ngày càng lớn mạnh của quỹ BHXH gắn
liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì nó đảm bảo quyền lợi cho người
lao động chứ không vì mục đích lợi nhuận, kiếm lời. Đồng thời quỹ BHXH cũng
phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong
từng thời kỳ của mỗi một quốc gia. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển lớn
mạnh thì càng có nhiều các chế độ BHXH được thực hiện hơn và các chế độ
cũng sẽ được áp dụng rộng rãi hơn, thoả mãn nhu cầu về BHXH của người lao
động ngày càng được nâng cao.
Mặt khác khi nền kinh tế phát triển mạnh thì mức thu nhập của người lao
động càng cao, họ sẽ tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
+ Ngoài ra quỹ BHXH mang tính chất tiêu dùng được thể hiện thông qua
các mục tiêu, mục đích của nó là chi trả đầy đủ các chế độ BHXH. Ngoài ra quỹ
BHXH lại mang tính chất dự trữ và thông thường khi người lao động tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ BHXH này chi trả ngay khi
gặp tai nạn rủi ro mà phải có thời gian dự bị đủ thủ tục mới thanh toán.

+ Hoạt động của quỹ BHXH đã đặt ra yêu cầu tất yếu sẽ hình thành chế
độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và của người lao động để dành khi ốm đau, tai
10
nạn, hưu trí, Đây cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân người lao
động và cộng đồng xã hội.
3.2, Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn cơ bản sau:
- Sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
- Sự đóng góp của người lao động tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện.
- Sự đóng góp Nhà nước đóng để đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ
BHXH đối với người lao động.
- Nhà nước hỗ trợ về BHYT đối với người nghèo và các đối tượng chính
sách khác.
- Tiền sinh lời từ đầu tư do thực hiện các biện pháp bảo toàn, tăng trưởng
quỹ BHXH.
- Các nguồn thu hợp pháp khác
Phần lớn đối với các nước trên thế giới hiện nay thì quỹ BHXH đều được
tạo lập hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên do từng điều kiện hoàn cảnh
lịch sử của mỗi quốc gia mà tỉ lệ tham gia đóng góp giữa các bên, mức độ tham
gia đóng góp của từng bên, mức độ can thiệp của Nhà nước, hay hình thức tham
gia đóng góp sẽ khác nhau.
Phương thức đóng góp vào quỹ BHXH của người sử dụng lao động và
người lao động hiện nay còn có hai quan điểm đó là:
+Việc xác định mức đóng góp phải căn cứ vào mức lương của từng cá
nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
+ Phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối
chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định nên mức đóng góp.
Việc chọn lựa quan điểm nào là tuỳ thuộc ở mỗi quốc gia nhưng phải bảo
đảm rằng mức tham gia đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối việc thu, chi
của quỹ BHXH. Trong thực tế việc xác định mức tham gia đóng góp của các bên

( thực chất là xác định mức phí BHXH) được tính toán một cách khoa học cho
11
việc xác định mức phí. BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu và người ta thường
dùng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Phí BHXH được xác
định theo công thức:
P = f
1
+ f
2
+ f
3
Trong đó: f
1
: là phí thuần BHXH
f
2
: là phí quản lý
f
3
: là phí dự trữ
Phí thuần của BHXH là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí
BHXH, phí thuần được xác định để bảo đảm chi trả đầy đủ cho tất cả các chế độ
BHXH. Chính vì vậy việc xác định mức phí BHXH là rất khó, phức tạp nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Cơ cấu lao động theo các độ tuổi, kết cấu
giới tính trong lực lượng lao động, đặc điểm cấu tạo sinh học của con người
trong một nước, tuổi thọ bình quân của người dân, điều kiện làm việc chung của
người lao động…
Ngoài sự tham gia đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động
và Nhà nước. Quỹ BHXH còn được hình thành từ các nguồn khác như: tiền sử
phạt đối với các đơn vị vi phạm theo điều lệ BHXH, các khoản hỗ trợ, viện trợ

của các tổ chức trong và ngoài nước, các khoản lãi từ hoạt động đầu tư tài chính
từ phần quỹ BHXH nhàn rỗi…
3.3, Mục đích sử dụng quỹ BHXH .
Như ta đã biết phí BHXH bao gồm 3 bộ phận đó là: phí thuần, phí dự trữ,
phí quản lý, như vậy rõ ràng ta thấy quỹ BHXH được sử dụng cho 3 mục đích
đó là: chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống
BHXH, chi trích lập quỹ dự phòng, dự trữ giải quyết trong trường hợp gặp
những tổn thất lớn.
Trong cơ cấu chi từ quỹ BHXH thì chi trả cho các chế độ BHXH là rất
lớn, chiếm phần lớn nguồn quỹ BHXH vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của
BHXH là: bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, cho các hoạt động
12
của các đơn vị, tổ chức. Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra
thường xuyên, liên tục với số lượng chi phí lớn trên phạm vi rộng lớn. Một trong
những khoản chi thường xuyên hàng tháng đó là chi lương hưu cho những
người lao động đã nghỉ công tác và chi trả trợ cấp BHXH hàng tháng cho thân
nhân của người lao động, người đang nghỉ hưu khi họ không may qua đời .
Nguồn chi thứ hai trong quỹ BHXH đó là chi phí dự trữ, thực chất đây là
quá trình tích luỹ lâu dài trong qúa trình sử dụng quỹ BHXH. định kỳ hàng
tháng, quý, năm cơ quan BHXH giữi hay trích lại một phần quỹ BHXH của
mình để thành lập nên quỹ dự phòng, dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng
trong những trường hợp khi nhu cầu chi trả quá lớn dẫn đến thâm hụt quỹ
BHXH như trong lúc đồng tiền mất giá và do hội đồng quản lý quyết định.
3.4, So sánh quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước.
Nguồn Ngân sách nhà nước là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội
phát sinh, trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực, chính trị của mình để tập
trung lại một phần thu nhập của quốc gia, nhằm tạo lập lên một quỹ tiền tệ
chung của Nhà nước và dùng cho việc thực hiện các chức năng phát triển kinh tế
xã hội theo mục tiêu kế hoạch của Nhà nước.
Qua khái niệm trên về quỹ NSNN chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm

giống nhau và khác nhau giữa quỹ BHXH và nguồn NSNN, từ đó ta sẽ hiểu rõ
hơn, được đầy đủ hơn về quỹ BHXH cụ thể:
+ Sự giống nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Việc tạo lập và sử dụng của mỗi nguồn quỹ đều được biểu hiện dưới
hình thái tiền tệ, quá trình này đều được thực thi theo các văn bản quy định của
pháp luật và việc quản lý, sử dụng quỹ được tiến hành theo nguyên tắc cơ bản
cân bằng giữa thu, chi.
- NSNN và Quỹ BHXH là những khâu tài chính quan trọng, độc lập trong
hệ thống tài chính mỗi quốc gia, chức năng nhiệm vụ của NSNN mang tính rộng
hơn so với quỹ BHXH.
13
- Hoạt động của cả NSNN và quỹ BHXH đều không phải là nhằm mục
đích kinh doanh kiếm lời, mà hoạt động của chúng đều mang đậm nét tính chất
xã hội, tính cộng đồng dân tộc và trong nhiều trường hợp hoạt động của hai quỹ
này còn mang tính nhân văn sâu sắc.
+ Sự khác nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Về điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ NSNN, gắn liền với sự
ra đời tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện đầy đủ các chức năng kinh
tế xã hội của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, gắn
liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các quan
hệ thuê mướn nhân công. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thu nhập
của người lao động ngày càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH ngày càng mở
rộng, mức độ thoả mãn về nhu cầu của người lao động khi tham gia BHXH
càng nhiều.
- Tính chất pháp lý của NSNN cao hơn so với quỹ BHXH, quá trình phân
phối của NSNN chủ yếu dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Nhà
nước ban hành các văn bản luật để thực hiện việc thu, chi quỹ NSNN. Quá trình
này được sự kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ của Quốc hội. Còn đối với
quỹ BHXH thì hoạt động thu, chi quỹ BHXH cũng được thực hiện dựa vào các
văn bản quy định pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào mối quan hệ kinh tế, quan

hệ về lợi ích của những người lao động tham gia theo nguyên tắc có đóng góp
mới được hưởng và ngược lại người lao động không tham gia đóng góp thì sẽ
không được hưởng quyền lợi.
- Trong quan hệ phân phối thì NSNN chủ yếu là phân phối lại và không
mang tính chất hoàn trả. Chủ thể tham gia đóng góp và hưởng thụ từ NSNN
thông thường là tách rời nhau, còn quan hệ phân phối quỹ BHXH thì mang tính
chất hoàn trả. Việc hoàn trả lại cho người tham gia đóng góp là không thể biết
trước được chính xác về quy mô, về thời gian và không gian.
14
- Trong quan hệ phân phối của NSNN thường phản ánh đến quan hệ lợi
ích của xã hội, lợi ích quốc gia và việc chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi
ích cá nhân nhằm bảo đảm cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội.
Trong quan hệ phân phối của quỹ BHXH thì ngược lại, trước hết vì lợi ích
của từng cá nhân sau người lao động tham gia, sau đó là lợi ích của đơn vị và
cuối cùng mới đến lợi ích xã hội.
II- QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH
1. Khái niệm :
+ Quỹ BHXH là : Một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ các bên
tham gia BHXH, ở nước ta hiện nay thì quỹ được hình thành từ:
- Người sử dụng lao động tham gia đóng bằng 15 % quỹ tiền lương.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ các
chế độ BHXH đối với người lao động ngoài ra quỹ BHXH còn hình thành từ
khoản lãi do đầu tư tăng trưởng và các khoản thu khác.
Quỹ BHXH được hình thành do ba bên đóng góp đó là (nguời lao động,
người sử dụng lao động và nhà nước) chính vì vậy quỹ BHXH là của ba bên
nhưng hiểu rộng ra đó là Nhà nước là của dân. Người lao động, người sử dụng
lao động cũng là người dân, do vậy thực chất quỹ BHXH là quỹ xã hội của Nhà
nước. Quỹ BHXH không phải của bất kỳ một tổ chức nào, một ngành nào, quỹ
cũng không thuộc Ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc cơ bản quỹ của ai thì

người đó có quyền quản lý, chính vì thế mà quỹ BHXH là quỹ chung, được điều
hành thông qua một hội đồng quản lý, hội đồng đó có đầy đủ đại diện của ba
bên.
Mô hình quỹ BHXH do hội đồng quản lý có đại diện của các bên tham gia
là mô hình phổ biến được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới .
Ở nước ta hiện nay các thành viên trong hội đồng quản lý quỹ BHXH bao
gồm: Đại diện có thẩm quyền của Bộ Tài chính, Bộ lao động Thương binh và xã
15
hội, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam có
nhiệm vụ chỉ đạo và giám sát, chỉ đạo để thực hiện thu, chi quản lý quỹ của
BHXH Việt Nam.
Người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội
bắt buộc đóng. Nguời sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm Y
tế bắt buộc, tự nguyện đóng và đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo
hiểm gồm Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước nhằm mục đích
chi trả đầy đủ các chế độ BHXH và bảo đảm các hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập chung nằm ngoài Ngân sách
nhà nước.
2- Nội dung quản lý thu BHXH.
2.1, theo quy trình quản lý thu:
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương là một đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã
hội tỉnh Tuyên Quang, do đó phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế
hoạch thu BHXH hàng năm do BHXH tỉnh Tuyên Quang giao cho đến các đơn
vị sử dụng lao động trên địa bàn mình quản lý cụ thể:
Hàng năm BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương
trích nộp BHXH tháng 9 của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện trực
tiếp quản lý thu BHXH. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng hợp và lập kế hoạch
thu BHXH trên địa bàn cho năm sau (theo mẫu số 4 - KHT), đồng thời gửi về
BHXH Tỉnh Tuyên Quang trước ngày 20/10.
Lập kế hoạch thu BHXH đến các đơn vị sử dụng lao động hàng quý;

Tổ chức thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH trong năm do
BHXH tỉnh Tuyên Quang giao.
Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH từ
đầu năm và danh sách chỉnh tăng giảm mức lương đóng BHXH hàng tháng;
Kiểm tra đối chiếu danh sách, điều chỉnh tăng giảm hàng tháng, có biên
bản đối chiếu kết quả tham gia đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động;
16
Vào sổ sách theo dõi chi tiết kết quả thu nộp BHXH đến từng người lao
động ở từng cơ quan, đơn vị sử dụng lao động phát sinh hàng tháng;
Thông báo kịp thời cho các đơn vị sử dụng lao động còn nợ đọng tiền
BHXH.
Xác nhận các mức đóng, thời gian đóng BHXH khi thực hiện giải quyết
chế độ BHXH cho người lao động hoặc di chuyển nơi làm việc của người lao
động.
Tổng hợp số liệu báo cáo kết quả thu BHXH trong tháng, quý, năm về
BHXH tỉnh Tuyên Quang theo định kỳ quy định:
+ Báo cáo nhanh 10 ngày/lần;
+ Báo cáo tháng vào ngày 02 tháng sau;
+ Báo cáo quý vào ngày 10 tháng đầu quý sau;
+ Báo cáo năm vào ngày 20 tháng đầu năm sau;
+ Kiểm tra danh sách chứng từ thu tổng hợp số liệu thu BHXH của các
đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện quản lý lập báo cáo quyết toán thu
BHXH hàng quý gửi BHXH tỉnh Tuyên Quang
+ Hàng quý, năm BHXH tỉnh Tuyên Quang tổ chức kiểm tra thẩm định số
liệu thu BHXH trong kỳ của BHXH huyện Sơn Dương. Việc tổ chức kiểm tra
thẩm định số liệu thu được thực hiện sau kỳ báo cáo, biên bản kiểm tra số liệu
thu BHXH sau khi được thẩm định là tài liệu gốc kèm theo hồ sơ quyết toán tài
chính quý, năm của BHXH các cấp.
17
Chú thích:

: Lập và giao chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH hàng năm.
: Lập kế hoạch, báo cáo số thu BHXH định kỳ.
: Hướng dẫn, theo dõi các đơn vị thực hiện tham gia đóng BHXH,
chuyển tiền thu BHXH vào tài khoản của BHXH kịp thời, giải quyết đầy đủ
quyền lợi cho đơn vị, người lao động.
: Kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động tham gia đóng BHXH theo
quy định của pháp luật.
2.2, Theo các khối thu BHXH:
Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chủ
yếu ở các khối như sau:
- Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp;
- Khối Doanh nghiệp nhà nước;
- Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Khối cán bộ xã, thị trấn;
- Khối sự nghiệp giáo dục;
- khối ytế;
18
BHXH Các
huyện, thị

BHXH
Tỉnh Tuyên
Quang
Các đơn vị
sử dụng
lao động
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH:
3.1, Công tác thu BHXH ở khối cơ quan hành chính sự nghiệp:
Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp có nhiều thuận lợi do đặc thù là
100% người lao động đều hưởng lương từ ngân sách nhà nước cấp; hơn nữa cán

bộ được giao nhiệm vụ làm công tác thu BHXH đều có trình độ chuyên môn tốt,
có nghiệp vụ kế toán. Việc lập danh sách, đăng ký lao động và quỹ tiền lương
tham gia BHXH, đến việc lập danh sách tăng, giảm lao động, hàng tháng luôn
đầy đủ, chính xác, đúng văn bản quy định của nhà nước. Song bên cạnh đó đơn
vị còn trích nộp tiền BHXH không kịp thời theo tháng mà thường dồn vào cuối
mỗi quý.
3.2, Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước:
Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước tương đối phức tạp vì
còn phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không. Chính vì vậy mà
BHXH huyện Sơn Dương cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để tuyên
truyền các chế độ chính sách BHXH, đối chiếu tăng, giảm kịp thời cho đối
tượng tham gia, đối chiếu với quỹ tiền lương, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao
động trích nộp BHXH đúng quy định;
3.3, Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Công tác thu ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp rất nhiều
khó khăn bởi còn phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không, ngoài
ra các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều trốn tránh không đăng ký thực thiện
đầy đủ nghĩa vụ BHXH cho người lao động theo quy định tại điều 149 của bộ
luật lao động.
+ Về phía chủ doanh nghiệp: chủ sử dụng lao động ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm
trong việc thực hiện đóng BHXH cho người lao động; Còn cố tình né tránh việc
thực hiện chế độ BHXH cho người lao động. Khi sử dụng người lao động các
doanh nghiệp không có hợp đồng lao động cụ thể, luôn lợi dụng kẽ hở của pháp
19
luật, như không hợp đồng với người lao động, hợp đồng miệng, hợp đồng theo
công trình, hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, hợp đồng theo mùa vụ …
Do đó BHXH huyện Sơn Dương không có cơ sở để xác định hợp đồng lao
đồng lao động, để khai thác các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc.
Bên cạnh đó đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều chưa có tổ chức

công đoàn. Do vậy chưa có người đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi và lợi
ích chính đáng của người lao động .
Chính vì thế mà công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh còn rất nhiều hạn chế, số thu BHXH không đạt theo quy định.
3.4, Công tác thu BHXH Khối cán bộ xã , thị trấn :
Công tác thu BHXH còn rất nhiều hạn chế trong việc trích nộp tiền
BHXH cho cán bộ xã còn chậm, có xã còn nộp thiếu tiền BHXH, lý do thường
các xã nộp BHXH dồn vào cuối năm. Trình độ của các bộ của kế toán ngân sách
còn nhiều hạn chế bất cập, nên công tác thu gặp rất nhiều khó khăn trong việc
đối chiếu tăng, giảm số lao động. Việc báo cáo số người tăng, giảm không kịp
thời lập danh sách trích nộp tiền BHXH không chính xác, do vậy phải làm đi,
làm lại nhiều lần.
3.5, Công tác thu BHXH ở khối giáo dục.
Đây là khối có số lao động tham ra BHXH so với các khối khác là rất lớn,
Các trường đã tích cực phối hợp với Bảo hiểm xã hội huyện lập bảng danh sách
tăng, giảm trích nộp BHXH theo quy định hàng tháng đối chiếu tăng, giảm để
cấp phiếu khám chữa bệnh kịp thời cho người lao động. Cuối mỗi quý đều lập
biên bản đối chiếu với Bảo Hiểm Xã Hội để xác định số tiền phải nộp BHXH
trong quý đầy đủ, đúng quy định.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế do cán bộ kế toán trường học không có
nghiệp vụ kế toán, chỉ là kế toán kiêm nhiệm cho nên còn lúng túng về nghiệp
vụ chuyên môn và trích nộp BHXH nhiều lúc còn chậm thường dồn vào cuối
quý.
20
3.6, Về Công tác thu ở khối Y tế :
Các trạm y tế xã đã thực hiện tốt việc trích nộp bảo hiểm cho người lao
động do tỉnh Tuyên Quang đã chuyển tiền khối ytế về nguồn ngân sách của xã,
ủy ban nhân dân các xã có trách nhiệm cân đối thu, chi cho các trạm. Kế toán xã
duyệt chi và cấp chuyển mọi khoản kinh phí thay cho trạm ytế.
Tuy nhiên cũng có những bất cập khó khăn là sau khi trạm đề nghị thanh

toán, phải lập dự toán nộp cho ủy ban nhân dân xã và đề nghị duyệt chi do vậy,
cũng làm chậm việc trích nộp BHXH.
21
Chương II:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU VÀ QUẢN LÝ THU
QUỸ BHXH CỦA BHXH HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH
TUYÊN QUANG TRONG THỜI GIAN QUA
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN SƠN DƯƠNG VÀ BHXH HUYỆN SƠN
DƯƠNG
1- Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Sơn Dương ảnh hưởng
đến thu BHXH:
Sơn Dương là một huyện nằm ở phía nam của tỉnh Tuyên Quang, có diện
tích tự nhiên 789,26 km2; trong đó đất nông nghiệp có 195,77 km2 chiếm 24,8%
đất lâm nghiệp có 396,81km2 chiếm 50,27%; còn lại 24,93% là các loại đất
khác; với số dân là: 165.188 người, bao gồm 10 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Cao
lan, Dao, Sán chín, Sán dìu, Nùng, Mông, Hoa, Mường sống đoàn kết gắn bó
trong 33 xã, thị trấn với 424 thôn bản.
Sơn Dương có địa bàn tiếp giáp với các huyện và các tỉnh như sau:
Phía bắc giáp huyện Yên Sơn, phía nam và phía tây giáp với ba huyện Đoan
Hùng, Phong Châu (tỉnh Phú Thọ), Lập thạch (tỉnh Vĩnh Phúc), phía đông giáp
hai huyện Đại Từ, Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên).
Địa hình huyện Sơn Dương khá phức tạp, rừng núi chiếm tới ba phần tư
diện tích toàn huyện và chi phối điều kiện tự nhiên bởi bốn dãy núi lớn hiểm trở
gồm: hai dãy núi hồng Tam Đảo (phía Đông Bắc) theo hướng bắc nam tạo thành
ranh giới giữa Sơn Dương và Thái Nguyên, dãy núi sáng (phía Nam) chạy từ
đông sang tây là ranh giới giữa Sơn Dương và Vĩnh Phúc. Dãy núi bầu lịch theo
hướng đông nam - tây bắc kéo dài từ xã Sơn Nam đến xã Đông Thọ chia huyện
Sơn Dương thành hai khu vực có điều kiện tự nhiên tương đối khác biệt. Phía
bắc mang đậm nét địa hình miền núi với nhiều núi đá, núi đất cao hiểm trở, xen
kẽ là các thung lũng nhỏ. Phía nam chủ yếu là núi đất, địa hình mang dáng dấp

của vùng trung du.
22
Huyện Sơn Dương với địa thế ba bề núi non hiểm trở, lại có đường bộ nối
liền với thị xã Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên và đường thủy xuyên xuốt
về trung du tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển ổn định: các xí
nghiệp, nhà máy, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ kinh doanh... thu hút
các nhà đầu tư và nhiều lao động trong và ngoài tỉnh.
Với địa hình phức tạp như vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu
BHXH ở các khối như Hành chính sự nghiệp, Doanh nghiệp nhà nước , Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, khối giáo dục...bởi các các khối nằm rải rác, đường xá
không thuận lợi làm cho công tác thu BHXH gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt
còn làm ảnh hưởng đến thời gian công tác thu ở các khối.
2- Giới thiệu về BHXH huyện Sơn Dương
Thực hiện Nghị định số 12/CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ về việc
ban hành điều lệ Bảo hiểm xã hội.
Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng chính phủ thành lập
Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành quy chế tổ chức và hoạt động BHXH Việt Nam.
Thông tư số 58 TC/HCSN ngày 24/7/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn
phương thức thu nộp bảo hiểm xã hội.
Nhằm thống nhất quản lý, tổ chức thu BHXH trong toàn hệ thống BHXH
Việt Nam, từ đó BHXH được thành lập từ Trung Ương đến địa phương.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang được thành lập
dựa trên cơ sở được hợp nhất công tác BHXH cuả Sở lao động Thương binh xã
hội và Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang, cũng từ đó BHXH các huyện, thị
xã trực thuộc được thành lập.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương là một trong những đơn vị BHXH trực
thuộc BHXH tỉnh Tuyên Quang, nằm trong hệ thống Bảo hiểm Việt Nam và
23

chịu sự quản lý theo ngành dọc của BHXH tỉnh Tuyên Quang theo quy định của
pháp luật.
BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nằm trong Bảo hiểm xã hội
Việt Nam như sau:

24
Bảo hiểm xã hội
Việt Nam
Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang
Trực thuộc BHXH Việt Nam
(có 8 phòng chức năng và 6 huyện, thị)
Bảo hiểm xã hội
huyện, thị
Thị xã
Tuyên
Quang
Huyện
Na
Hang
Huyện
Chiêm
Hóa
Huyện
Hàm
Yên
Huyện
Yên
Sơn
Huyện
Sơn

Dương
Như vậy, BHXH huyện Sơn Dương cũng thư BHXH các huyện khác đều
là những đơn vị trực thuộc nhỏ nhất của BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự chỉ
đạo trực tiếp từ BHXH Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chính thức được
thành lập theo quyết định số 94 ngày 4/8/1995 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và
đi vào hoạt động kể từ tháng 8/1995, BHXH huyện được đặt trụ sở làm việc tại
trung tâm thị trấn Sơn Dương, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Do vậy
hoạt động của BHXH huyện Sơn Dương có nhiều thuận tiện cơ bản.
* Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
a, Chức năng nhiệm vụ:
BHXH huyện Sơn Dương, là một đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh Tuyên
Quang, do vậy phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế hoạch do BHXH
tỉnh giao cho cụ thể như sau:
+ Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn
huyện Sơn Dương, lập danh sách lao động quỹ tiền lương thuộc diện áp dụng
loại hình bắt buộc để thực hiện việc tham gia đóng BHXH theo luật định.
+ Theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị tham gia BHXH trích nộp đủ tiền
BHXH và BHYT theo quy định so với tổng quỹ tiền lương.
+ Tổ chức thực hiện công tác chi trả trợ cấp BHXH như: lương hưu, mất
sức lao động, tai lạn lao động, tử tuất, trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức phụ
hồi sức khỏe...Trên địa bàn huyện quản lý.
+ Tổ chức theo dõi biến động tăng, giảm về số lao động để xác nhận thu
BHXH giải quyết chế độ hưu trí, cấp thẻ phiếu khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế
cho đơn vị.
+ Tiếp nhận quản lý các cơ quan, đơn vị, công ty trách nhiệm hữu hạn,
các hợp tác xã, các tổ hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tham gia đóng
BHXH trên địa bàn Huyện.
25

×