Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện châu thành, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.68 KB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc
dân và là một bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông
nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, nhất là đối với nước ta khi sản xuất nơng nghiệp
hiện cịn đang chiếm 20,9% GDP, thu hút 56,8% lực lượng lao động xã
hội và đóng góp hơn 30% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và
bền vững, việc hoàn thiện và xác định một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp
lý, phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế khơng chỉ là
u cầu có tính khách quan, mà còn là một trong những nội dung chủ yếu
của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001 - 2010 đã chỉ rõ:
CNH, HĐH nông nghiệp là q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với
cơng nghiệp chế biến và thị trường; ứng dụng thành tựu khoa
học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nơng
sản hàng hóa [12, tr.1].
Với tinh thần nêu trên, nhiều chính sách mới trong nông nghiệp
được triển khai, đã thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, một số nơng sản phục vụ xuất khẩu


2
tăng nhanh, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích
đất nơng nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nhất là đứng trước những địi hỏi


của q trình hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp cả nước, khu vực đồng bằng sông Cửu Long cũng như của tỉnh An
Giang trong thời gian qua nhìn chung chuyển dịch còn chậm, chưa phát
huy hết tiềm năng và lợi thế của từng vùng nên hiệu quả chuyển dịch chưa
cao. Cụ thể là quy mô, địa bàn sản xuất của hầu hết các nơng sản hàng hóa
chủ lực cịn phân tán, phát triển theo chiều rộng là chính, hàm lượng khoa
học và cơng nghệ đưa vào sản phẩm cịn ít, dẫn đến năng suất và chất
lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế yếu...
Châu Thành là một trong 11 huyện, thị của tỉnh An Giang, nằm ở
phía Tây sơng Hậu, thuộc khu vực tứ giác Long Xun; có diện tích tự
nhiên là 35.506 ha (trong đó diện tích đất nơng nghiệp chiếm 86,9%), dân
số 176.782 người, với phần lớn người dân sống bằng nghề nơng nghiệp,
đời sống khó khăn, cơ sở vật chất cịn thiếu thốn. Trong những năm
qua, kinh tế nơng nghiệp của huyện đã có những chuyển biến tích cực,
nhiều vùng đất trước đây chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa có
hiệu quả nay đã được sử dụng tương đối hiệu quả vào các lĩnh vực kinh
tế khác nhau... Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực của huyện thì
tốc độ phát triển kinh tế nơng nghiệp cịn thấp, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý. Do vậy, đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện nhằm khai thác tối đa tiềm năng
và lợi thế, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường
trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng


3
cao đời sống của nơng dân, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH
của tỉnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong bối
cảnh hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang để viết
luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Dưới đây là một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Bùi Tất Thắng, 1994: Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
thời kỳ cơng nghiệp hố của NIEs Đơng Nam Á và Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thạo: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở An Giang,
tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2-1995.
- Bùi Tất Thắng, 1996: Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ cơng nghiệp hố của Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Đình Thắng, 1998: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Đặng Kim Sơn – Hoàng Thu Hoà, 2002: Một số vấn đề về phát
triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Lê Huy Ngọ, 2002: Con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố
nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Lâm Quang Huyên, 2002: Nông nghiệp, nông thôn Nam bộ hướng
tới thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


4
- Đinh Phi Hổ, 2003: Kinh tế nông nghiệp – Lý luận và thực tiễn,
Nxb Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Minh Châu, 2004: Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long những năm đầu thế kỷ XXI,
Hội thảo khoa học vì sự phát triển đồng bằng sơng Cửu Long.
- Bùi Tất Thắng, 2006: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh
khác nhau về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào
nghiên cứu sâu và hệ thống về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề xuất giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giai đoạn từ
nay đến năm 2010 và 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên,
luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá một cách hệ thống thực trạng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, chỉ ra những
thành công, hạn chế và nguyên nhân;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


5
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu q trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang giai đoạn 1995-2007. Các giải pháp và kiến nghị mà luận văn dự
kiến đề xuất chủ yếu thuộc phạm vi quản lý nhà nước của chính quyền
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang và cơ quan quản lý nhà nước các cấp

có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa
trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, sử dụng tổng hợp một số phương pháp như thống kê, so sánh, phân
tích và tổng hợp, tổng kết thực tiễn… Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa kết
quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu liên quan, đồng thời dựa
vào các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà
nước về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp chủ yếu sau đây:
- Góp phần hệ thống hố và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang;
- Đề xuất được phương pháp và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh
An Giang theo hướng CNH, HĐH trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn


6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Để hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế, trước hết cần làm rõ khái niệm
cơ cấu. Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, cơ cấu là một khái
niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu
hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ
phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và
tổng thể, cơ cấu biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật, hiện
tượng và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng. Như vậy,
có thể thấy có nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của khách thể
và các hệ thống [29, tr.28].
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, được cấu thành bởi
nhiều bộ phận khác nhau. Đồng thời giữa chúng ln có quan hệ biện
chứng với nhau trong quá trình vận động và phát triển. Sự vận động và
phát triển của nền kinh tế còn chứa đựng sự thay đổi của chính bản thân
các bộ phận và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau trong mỗi thời
điểm và trong mỗi điều kiện khác nhau. Do đó, có thể khái quát cơ cấu
kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với những mối quan hệ về
chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong
không gian, thời gian và điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.


8
Cơ cấu kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã hội, được
bắt đầu từ việc tăng năng suất lao động và sự phát triển của các mối quan
hệ trao đổi hàng hóa, tiền tệ.
Cơ cấu kinh tế phản ánh sự tương tác sống động giữa các yếu tố của

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó vai trị quyết định là sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế xét trên
quan điểm hệ thống với các cấp độ khác nhau, gắn với thời gian, khơng
gian và đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội nhất định có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo đảm tái sản xuất và phát triển cả về kinh tế và xã hội.
Như vậy, bản chất của cơ cấu kinh tế là sự biểu hiện của các mối
quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội, đó là mối quan hệ
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng không đơn thuần chỉ là
những quan hệ về mặt số lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố - biểu hiện về
lượng hay sự tăng trưởng của hệ thống, mà là những mối quan hệ bên
trong và bên ngoài của các yếu tố đó - biểu hiện về chất hay sự phát triển
của hệ thống [34, tr.11].
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ
khách quan giữa các yếu tố, các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn gắn với phương thức sản xuất nhất định và một
nền kinh tế nhất định. Nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành và tùy theo mục
đích phân tích mà có sự phân loại các yếu tố đó một cách tương ứng.
Song, về cơ bản, cơ cấu kinh tế được xét trên 2 mặt, đó là mặt vật chất –
kỹ thuật và mặt kinh tế - xã hội.
- Về mặt vật chất - kỹ thuật, bao gồm cơ cấu ngành nghề, loại hình
tổ chức kinh doanh, trình độ kỹ thuật, sự bố trí theo vùng lãnh thổ.


9
- Về mặt kinh tế - xã hội, bao gồm cơ cấu thành phần kinh tế, trình
độ phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quan hệ thị trường.
Nơng nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Bản thân ngành nông nghiệp cũng là một hệ thống phức
tạp với nhiều bộ phận hợp thành. Theo đó, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nông

nghiệp là tổng thể các yếu tố hợp thành nền nông nghiệp theo những quan
hệ nhất định cùng với sự tác động qua lại lẫn nhau gắn liền với những
điều kiện lịch sử cụ thể (điều kiện tự nhiên, trình độ cơng nghệ, trình độ
phân cơng lao động, trình độ tổ chức quản lý…) nhằm thực hiện có hiệu
quả những mục tiêu đã định.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nơng nghiệp
mang tính khách quan, lịch sử, xã hội và luôn gắn liền với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội… chuyển dịch từ
thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp dưới tác động của quy luật tự
nhiên, kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu kinh tế nói
chung, cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nói riêng chịu tác động của quy luật
cung cầu, giá trị và cạnh tranh. Do vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế nông
nghiệp không thể duy ý chí, mà phải nhận thức đúng đắn sự vận động của
quy luật khách quan, vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể.
Cơ cấu kinh tế nơng nghiệp hình thành, biến đổi gắn liền với sự
phát triển của cơ chế thị trường, từ kinh tế tự nhiên dần dần chuyển thành
kinh tế hàng hóa, q trình này tác động và thúc đẩy ngành nông nghiệp
phát triển đa dạng và năng động theo hướng tiên tiến.
1.1.2. Các cách tiếp cận cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:


10
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Được thể hiện ở những
mối quan hệ, tỷ lệ giữa các phân ngành trong ngành nông nghiệp (nônglâm-ngư-diêm nghiệp…). Trong quá trình phát triển, tương quan giữa các
phân ngành trong cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nơng nghiệp sẽ có những
chuyển biến quan trọng theo hướng đa dạng hoá sản xuất. Đó chính là sự
phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong sản xuất
nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp phản ánh sự phân cơng

lao động theo hướng chun mơn hóa sản xuất, được hình thành dựa trên
mối quan hệ giữa các đối tượng khác nhau của nền sản xuất, sản xuất càng
phát triển thì tập hợp ngành kinh tế càng đa dạng. Xem xét cơ cấu kinh tế
nội bộ ngành nông nghiệp không chỉ dựa trên chỉ tiêu giá trị, mà cịn phải
phân tích chỉ tiêu lao động, chỉ tiêu vốn đầu tư… Tổng hợp các chỉ tiêu đó
phản ánh thực trạng cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp.
Cơ sở của cơ cấu ngành là sự phân công lao động xã hội; phân công
lao động xã hội càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng được phân chia đa
dạng. Tiền đề của sự phân công lao động trong nông nghiệp là năng suất
lao động nông nghiệp. Trước hết, năng suất lao động của khu vực sản xuất
lương thực phải đạt tới một giới hạn nhất định, đảm bảo đủ lương thực
cần thiết cho xã hội. Đây là cơ sở quan trọng cho sự phân công giữa
những người sản xuất lương thực với những người chăn nuôi và các ngành
nghề khác trong nông nghiệp.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế
khác nhau trong nền kinh tế nói chung và nơng nghiệp nói riêng là một tất
yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền


11
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cơ cấu thành
phần kinh tế ở nước ta gồm:
Kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển. Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước,
được củng cố và phát triển trong các ngành và lĩnh vực then chốt, trọng
yếu của nền kinh tế, đảm đương hoạt động mà các thành phần kinh tế

khác khơng có điều kiện hoặc khơng muốn đầu tư kinh doanh. Trong nông
nghiệp, nông thôn, kinh tế nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực quy
hoạch sản xuất, cơ giới hóa, phát triển thủy lợi và kết cấu hạ tầng nông
thôn, hỗ trợ vốn và khoa học công nghệ cho nông nghiệp; đào tạo cán bộ
quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật; giữ vai trò quan trọng trong việc
hình thành cơng nghiệp chế biến nơng sản, cung ứng dịch vụ đầu vào và
đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tham gia quản lý tài nguyên.
Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là kinh tế
hợp tác xã và tổ liên kết sản xuất là hình thức liên kết tự nguyện của người
lao động, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của các thành viên để
giải quyết có hiệu quả những vấn đề sản xuất - kinh doanh và đời sống,
phát triển trên ngun tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân
chủ. Bối cảnh phát triển hiện nay địi hỏi phải chú trọng các hình thức hợp
tác và hợp tác xã cung ứng dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh
tế hộ gia đình và trang trại; mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên
kết, liên doanh giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế; kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước phải vươn lên nắm
vai trò chủ đạo và trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.


12
Kinh tế cá thể và tiểu chủ: Kinh tế cá thể và tiểu chủ được khuyến
khích phát triển ở cả thành thị, nông thôn, trong các ngành nghề không bị
hạn chế, có thể tồn tại độc lập hoặc tham gia vào các hợp tác xã, liên kết
với doanh nghiệp bằng nhiều hình thức. Trong lĩnh vực nơng nghiệp ở
nước ta hiện nay, kinh tế hộ gia đình - một bộ phận của kinh tế cá thể, tiểu
chủ - đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Nhà nước khuyến khích phát triển
trang trại hộ gia đình nhằm khai thác đất trống, đồi núi trọc, mặt nước và
đất hoang hóa để phát triển sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích

phát triển khơng hạn chế về quy mô trong những ngành nghề, lĩnh vực và
địa bàn mà pháp luật khơng cấm; được khuyến khích hợp tác, liên doanh
với nhau và liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh
nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước tồn tại dưới các
hình thức liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngồi
nước, hình thức này phát triển ngày càng đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi: Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi là bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển,
hướng mạnh vào sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hàng
hóa và dịch vụ có cơng nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ: Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ phản
ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian, địa lý. Trong nông
nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ dựa trên điều kiện riêng, đặc thù về
tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng trong phạm vi quốc gia hay các địa
phương. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ phản ánh sự khác nhau về điều kiện
sản xuất của mỗi vùng nhưng được đặt trong sự thống nhất chung của tồn
bộ nền nơng nghiệp. Việc phân vùng kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh


13
thổ không đồng nghĩa với phân chia địa giới hành chính và là cơ sở quan
trọng cho việc hoạch định và thực thi chiến lược, kế hoạch và chính sách
phát triển nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Mục đích
của phân vùng là nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, khắc
phục mặt hạn chế của từng vùng trong tổng thể chung của cả nước, tạo ra
sự liên kết bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa các vùng. Quan trọng hơn là
mở ra hướng chun canh sản xuất nơng sản hàng hóa đặc trưng của mỗi
vùng với khối lượng lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, thuận lợi cho việc
chế biến, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm, góp phần phát triển nơng nghiệp

theo hướng sản xuất mới, sản xuất hàng hóa đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế vùng, cần chú trọng tác
động vĩ mô của Nhà nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách
khuyến nơng, xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi, chính
sách trợ giá, tín dụng ưu đãi và những thơng tin cần thiết.
Cơ cấu kinh tế theo quy mô và trình độ cơng nghệ: Cơ cấu kinh tế
xét theo quy mơ và trình độ cơng nghệ có vai trị rất quan trọng trong quản
lý kinh tế. Cơ cấu quy mô các cơ sở sản xuất - kinh doanh vừa nói lên
mức độ tập trung hoá sản xuất của nền kinh tế, vừa nói lên khả năng linh
hoạt, mền dẻo của các loại hình tổ chức sản xuất. Cơ cấu trình độ công
nghệ phản ánh chất lượng và hàm lượng khoa học, cơng nghệ và tri thức
trong nền kinh tế. Trình độ công nghệ của sản xuất được đặc trưng bởi đặc
điểm của công nghệ sản xuất và quản lý. So với khu vực cơng nghiệp và
dịch vụ, trình độ cơng nghệ chung trong sản xuất nơng nghiệp cịn lạc hậu.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã làm cho kỹ
thuật về giống, phân bón, tưới tiêu, bảo vệ thực vật… từng bước được đổi
mới và áp dụng ngày càng có hiệu quả vào sản xuất nơng nghiệp. Q
trình cơ giới hố nơng nghiệp đã thâm nhập vào các khâu làm đất, gieo


14
cấy, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển sản phẩm… làm cho năng suất lao
động ngày càng tăng. Đặc biệt, sự tác động của công nghiệp vào khâu chế
biến đã làm tăng chất lượng và giá trị hàng hoá của sản phẩm nơng
nghiệp, từ đó mang lại thu nhập cao hơn cho người sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế theo hình thức tổ chức sản xuất: Sự tồn tại của các
thành phần kinh tế trong nông nghiệp luôn gắn liền với các hình thức tổ
chức sản xuất - kinh doanh nhất định như kinh tế hộ nông dân tự chủ, hợp
tác xã, trang trại, doanh nghiệp, trạm giống, trạm kỹ thuật, các tổ chức
khuyến nơng… Việc lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất trong nông

nghiệp phải dựa trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất và các
điều kiện thực tế cụ thể khác.
Ngoài các cách tiếp cận nói trên, cơ cấu kinh tế nơng nghiệp cịn
được xem xét dưới các góc độ khác như lao động, thị trường, sản phẩm
dưới hình thái hiện vật và giá trị, trình độ xã hội hố, trình độ phân công,
hiệp tác trong nước và quốc tế…
1.1.3. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một hệ thống phức tạp gồm nhiều bộ phận có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Những bộ phận này được coi như là các phần tử
trong một cấu trúc có sự quan hệ mật thiết mà sự thay đổi của phần tử này
hay sự biến đổi của một yếu tố làm cho phần tử này thay đổi thì cũng làm
cho các yếu tố khác của phần tử khác thay đổi và kéo theo đó là những
biến đổi của cấu trúc. Làm thay đổi các phần tử bên trong một cấu trúc
chính là làm thay đổi cơ cấu hay là chuyển dịch cơ cấu. Như vậy, có thể
hiểu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp là q trình làm biến đổi cấu
trúc và các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng
và mục tiêu nhất định, nghĩa là đưa hệ thống đó từ trạng thái này tới trạng


15
thái khác tối ưu hơn thông qua sự quản lý, điều khiển của con người theo
đúng quy luật khách quan.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn liền với q trình tái
phân cơng lao động xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo ra
hệ thống kinh tế nông nghiệp hợp lý cho phép khai thác tối ưu các nguồn
lực (vốn, tài nguyên, lao động, kỹ thuật…), đảm bảo sự phát triển cân đối,
ổn định, bền vững, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý tạo điều kiện để
ngành nơng nghiệp nhanh chóng thích ứng với u cầu hội nhập và mở
rộng hợp tác quốc tế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp hợp lý góp phần duy trì có
hiệu quả nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý góp phần thực hiện
thành cơng q trình CNH, HĐH, thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.
1.1.4. Tính tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp
trong q trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nghĩa là có sự thay đổi
ngành nghề sản xuất - kinh doanh, các khâu, các bộ phận vốn có của nơng
nghiệp, có sự thay đổi quan hệ, tỷ lệ giữa chúng và có sự thay đổi cách tổ
chức, bố trí các nguồn nhân lực, vật lực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung, cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nói riêng là sự thay đổi một kết cấu
kinh tế, thay đổi cả chất và lượng của nền kinh tế, do đó nó là một q
trình cách mạng lâu dài và khó khăn, cần tiến hành từng bước với qui mô


16
và trình độ thích hợp. Trước u cầu phát triển nền kinh tế thị trường sự
thay đổi đó tuy khó khăn nhưng nhất thiết phải làm từ cơ sở, vùng lãnh
thổ đến cả nước, sự thay đổi đó là tất yếu, hợp quy luật, đúng theo xu
hướng phát triển. Bởi lẽ, trước sự chuyển đổi của nền kinh tế đất nước,
chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, bản thân cơ cấu kinh tế kiểu
cũ bộc lộ nhiều hạn chế, đó là cơ cấu bó hẹp, khép kín, khơng phải là cơ
cấu để sản xuất hàng hoá, do vậy sản xuất chậm phát triển, thu nhập thấp,
đời sống khó khăn...
Nền kinh tế hàng hố, kinh tế thị trường địi hỏi phải có sự thay đổi

cơ cấu kinh tế phù hợp, từ cơ cấu sản xuất tự cung, tự cấp, phải chuyển
sang cơ cấu sản xuất nhằm mục đích để bán. Nền kinh tế hàng hố, kinh tế
thị trường địi hỏi mọi ngành, mọi vùng, mọi tổ chức kinh tế phải hoạt
động theo yêu cầu của thị trường, theo mệnh lệnh và tiếng gọi của thị
trường, thị trường cần hàng hố gì thì sản xuất hàng hố đó, chỉ sản xuất
và bán những cái mà thị trường cần. Cơ cấu kinh tế kiểu cũ mang tính tự
cung, tự cấp nay phải được đổi mới phù hợp với sự phát triển kinh tế thị
trường. Đó là cơ cấu kinh tế có phân cơng và hiệp tác lao động, có phân
cơng chun mơn hố sản xuất, có mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các
ngành, các vùng, trong nước với nước ngoài, dựa trên thế mạnh của từng
ngành, từng vùng để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp cịn là u cầu khách quan
bắt nguồn từ nhu cầu khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng tự nhiên, kinh
tế, kỹ thuật và lao động hiện có trong nơng nghiệp để chuyển sang kinh tế
hàng hoá, mở rộng thị trường và phát triển kinh tế nông thôn. Để khai thác


17
có hiệu quả mọi tiềm năng trong nơng nghiệp, phát triển sản xuất hàng
hoá, mở rộng thị trường và phát triển kinh tế nơng thơn thì một trong
những biện pháp quan trọng hàng đầu là phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, gắn phát triển nông nghiệp với kinh tế nơng
thơn, đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế để khai thác mọi tiềm năng mở rộng sản
xuất hàng hoá, phát triển kinh tế nơng thơn cịn là con đường giảm dần
khoảng cách về trình độ phát triển về mọi mặt giữa nơng thôn và thành
thị, cải thiện và nâng cao từng bước đời sống vật chất, văn hố, tinh thần
cho nơng dân, khắc phục cảnh đói nghèo đã bao đời đè nặng lên cuộc
sống của họ.

Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X là:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển
biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân
dân. Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo
nền tảng để nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020 [13, tr.185].
Điều đó địi hỏi phải quan tâm đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp trong q trình phát triển, bởi lẽ
trong cơ cấu kinh tế chung ở nước ta, kinh tế nông nghiệp là bộ phận cấu
thành chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.


18
Từ những lý do chủ yếu nói trên, có thể khẳng định rằng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tất yếu khách quan đối với cả nước,
cũng như đối với từng vùng, từng địa phương ở nước ta.
1.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

1.2.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Chuyển dịch
cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp một cách khoa học và hợp lý là giảm
tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất
ngành chăn ni, thủy sản. Trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng sản xuất
lúa, tăng tỷ trọng diện tích cây rau màu có giá trị kinh tế cao ở cả 3 vụ
(Đơng Xuân, Hè Thu và Thu Đông) để đạt hiệu quả cao hơn trên một
đơn vị diện tích sản xuất. Hiện nay, đối với các địa bàn thuộc đồng bằng

sông Cửu Long sản xuất lúa vẫn là nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia. Do vậy, cần chuyển dịch cơ cấu trà
lúa, giống lúa để có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong sản xuất
lúa. Tiếp tục chuyển mạnh một phần diện tích đất trũng, bãi bồi sang
đào ao nuôi cá, lập vườn để có giá trị kinh tế cao, hình thành các vùng
sản xuất hàng hóa trong nơng nghiệp. Từng bước tăng tỷ trọng chăn
nuôi trong sản xuất nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn lợn, đàn
gia cầm, đàn bò. Thực hiện phương thức chăn nuôi kết hợp chế biến,
tiêu thụ sản phẩm để có hiệu quả kinh tế. Từng bước phát triển thuỷ sản
trở thành thế mạnh, kết hợp nuôi thả những giống cá có hiệu quả kinh tế
cao với việc phát triển hệ thống tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập ở khu vực
này tăng cao hàng năm.


19
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo vùng thể hiện sự tái phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Dựa trên
những lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế - xã hội của mỗi vùng
mà hình thành các vùng kinh tế. Các vùng kinh tế này có những đặc điểm
khác nhau nhưng có điểm chung là dựa vào những lợi thế đó để khai thác
có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng nhằm tạo ra sự
phát triển.
Kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng nhằm khai thác
những lợi thế từ lao động, từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên để xây dựng
một chiến lược phát triển sản xuất - kinh doanh theo hướng chun mơn
hố, đa dạng hố.
Chuyển dịch cơ cấu vùng cịn làm cho những diện tích đất trước
đây chưa sử dụng, hoặc sử dụng chưa hiệu quả, hoặc chưa chuyển đổi
được sang hướng sản xuất phù hợp được sử dụng có hiệu quả hơn. Bên
cạnh đó, khi có một cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu tư

từ bên ngoài nhằm duy trì và phát triển kinh tế vùng đó.
Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi vùng, ngành nào có ưu thế cạnh
tranh sẽ phát triển nhanh. Từ đó, kéo theo các ngành khác có liên quan
cùng phát triển cả về qui mô và tốc độ theo một quan hệ, tỷ lệ nhất định,
qua đó đạt hiệu quả kinh tế cao nhất của vùng.
Xác định cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ tạo cơ sở để khai thác và sử
dụng có hiệu quả hơn những tiềm năng về tài nguyên, sức lao động, cơ sở
vật chất hiện có của từng vùng. Điều này quyết định tốc độ phát triển kinh
tế hàng hố ở nơng thơn mỗi vùng cũng như cả nước. Khi có biến đổi lớn
trong vùng kinh tế về kết cấu hạ tầng và tình hình kinh tế - xã hội như hệ
thống giao thơng, thuỷ lợi, trình độ dân trí, vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ,


20
đặc biệt là sự xuất hiện của những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học,
nhu cầu mới của thị trường… sẽ xuất hiện những ngành sản xuất - kinh
doanh mới có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Để phát triển các ngành mũi nhọn ở các vùng kinh tế nông thơn,
trong q trình xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế vùng cần coi trọng
tác động vĩ mô của Nhà nước thơng qua hệ thống các chủ trương, chính
sách như: Khuyến nơng, xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi
và những thông tin cần thiết…
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: Trong nền kinh tế thị
trường ln tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau. Chính sự đa dạng
hố sở hữu đã quyết định sự tồn tại của các thành phần kinh tế. Sự khác
nhau giữa các thành phần kinh tế thể hiện ở trình độ xã hội hố, sự phát
triển của lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, phương thức phân
phối sản phẩm và các mối quan hệ về lợi ích. Mỗi thành phần kinh tế có
bản chất và những đặc điểm riêng. Lợi ích của các thành phần kinh tế vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn và có mối quan hệ với nhau, cùng tồn tại với

nhau trong một nền kinh tế. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần đã trở thành tất yếu trong đời sống xã hội của nhiều nước trên thế
giới. Do đó, phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng tồn tại và
phát triển trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chuyển dịch cơ
cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp ở nước ta được thực hiện theo
hướng đảm bảo để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều
kiện và môi trường thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là
một trong những động lực của nền kinh tế.


21
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động: Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo lao động là sự tái phân công lao động dựa vào các lợi thế trong quá
trình phát triển sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động nhằm
tạo ra đủ việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và đời sống cho
người lao động, phát huy năng lực của lao động, đóng góp hiệu quả hơn
cho khu vực, cho vùng, cho đất nước, cho sự phát triển và ổn định kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động được thực hiện trên cơ sở kế
hoạch, chiến lược qui hoạch đội ngũ cán bộ, công nhân, nông dân… theo
một cơ cấu hợp lý để từ đó phát huy được thế mạnh về lao động.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo trình độ cơng nghệ: Trình độ cơng
nghệ trong sản xuất nông nghiệp nước ta từng bước được nâng cao, cơ sở
vất chất kỹ thuật của nông nghiệp ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu
quả hơn những tiềm năng to lớn của nền nông nghiệp nhiệt đới phục vụ sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện khoa học
công nghệ trên thế giới phát triển cao, nhất là công nghệ tin học, cơng

nghệ sinh học, địi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo trình độ cơng nghệ trong sản xuất nơng nghiệp. Xu hướng
chung hiện nay là phải tăng tỷ trọng công nghệ sản xuất và quản lý hiện
đại kết hợp với khai thác lợi thế của công nghệ truyền thống.
1.2.2. Yêu cầu đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với tăng
trưởng: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng về sản lượng hàng
hóa và dịch vụ của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế, được
phản ánh qua sự tăng lên về quy mơ sản lượng và sản lượng bình qn


22
đầu người của một nền kinh tế. Như vậy, có thể hiểu tăng trưởng nông
nghiệp là sự tăng lên về sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực
nơng nghiệp. Nguồn gốc của tăng trưởng nông nghiệp là sự gia tăng
và/hoặc sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực đầu vào cơ bản đối với q
trình sản xuất nơng nghiệp là đất đai, vốn, lao động và công nghệ. Mặt
khác, để đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm thiết yếu cho nhu
cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng, nguyên liệu cho phát triển công
nghiệp, vốn và ngoại tệ cho tái sản xuất mở rộng và tích lũy ban đầu để
đầu tư phát triển các ngành kinh tế khác, các ngành, các lĩnh vực trong
nông nghiệp phải không ngừng gia tăng quy mô sản lượng, nghĩa là tăng
trưởng. Tuy nhiên, mức tăng sản lượng giữa các ngành, giữa các lĩnh vực
là khơng giống nhau, nhờ đó tạo tiền đề để chuyển dịch về cơ cấu giữa các
ngành, các lĩnh vực trong nông nghiệp. Để đảm bảo về mặt số lượng và
chất lượng của tăng trưởng, việc đổi mới cơ cấu các ngành, các lĩnh vực
trong nông nghiệp, hay nói cách khác, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nơng nghiệp phải dựa trên cơ sở bố trí lại một cách hợp lý các nguồn lực
được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp giữa các ngành, các lĩnh vực.

Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phát triển nông nghiệp
bền vững: Phát triển nông nghiệp bền vững luôn là mục tiêu phấn đấu của
mọi quốc gia và là một quá trình biến đổi lâu dài theo xu hướng ngày càng
hồn thiện. Phát triển nơng nghiệp bền vững có ý nghĩa rộng lớn, bao hàm
cả bốn mục tiêu cơ bản là: Tăng trưởng kinh tế - tăng về quy mô số lượng,
thay đổi về cơ cấu kinh tế - thay đổi về chất lượng, tiến bộ về xã hội nâng cao chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư, cải thiện về môi
trường tự nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái và chỉ khi nào đồng thời đạt


23
hiệu quả cao ở cả bốn mục tiêu này thì nền nông nghiệp mới được xem là
phát triển bền vững.
Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế học coi chuyển dịch cơ cấu kinh
tế là một trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của
một nền kinh tế [29, tr.33]. Bởi vì, có những quốc gia đạt được mức tăng
trưởng nông nghiệp rất cao nhưng vẫn cịn một bộ phận lớn người dân
sống ở nơng thơn có thu nhập dưới mức nghèo đói. Đây là hệ quả của sự
chuyển dịch thiếu cân đối giữa các ngành kinh tế, giữa các thành phần
kinh tế và giữa các vùng lãnh thổ của nền kinh tế đó. Mặt khác, sự tăng
trưởng nhanh chóng của nền kinh tế có thể kéo theo sự khai thác tài
nguyên thiên nhiên bừa bãi, khiến cho các nguồn tài nguyên bị kiệt quệ,
làm phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái hoặc cùng với tăng trưởng là sự
bất bình đẳng về kinh tế, chính trị và nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị
hạ thấp hoặc mất đi, dẫn tới cơ cấu xã hội bị đảo lộn và bất ổn định. Tuy
nhiên, nếu chỉ nhấn mạnh đến công bằng xã hội và bền vững môi trường
tự nhiên sẽ dẫn tới phát triển dàn trải giữa các ngành và giữa các vùng,
dẫn tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, không đáp ứng
được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế, để bảo
đảm hài hịa cả mục tiêu trước mắt và lâu dài, nhiều nước chọn con đường
phát triển tồn diện thơng qua tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với nâng

cao chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải xuất phát từ tín hiệu của thị
trường: Phát triển nơng nghiệp tồn diện với tốc độ tăng trưởng cao và
bền vững nhất thiết phải dựa trên cơ sở kinh tế hàng hóa gắn với thị
trường. Chỉ có như vậy mới khắc phục được xu hướng tự phát, tự cung, tự
cấp, phân tán nhỏ lẻ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn


24
nước ta hiện nay. Sản xuất hàng hóa đặt ra yêu cầu sản xuất sản phẩm nào,
số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại ra sao phải do thị trường
quyết định, không phải do khả năng đất đai, lao động, khí hậu, kinh
nghiệm của người sản xuất quyết định.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với hiệu quả kinh tế và
xã hội: Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải là cơ cấu đảm bảo đạt hiệu quả
kinh tế và xã hội cao. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất chỉ có
thể tồn tại được khi sản phẩm có khả năng cạnh tranh, hay nói cách khác
sản xuất phải đạt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế không phải
bao giờ cũng thống nhất với hiệu quả xã hội. Do vậy, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp khơng chỉ tính đến hiệu quả về mặt kinh tế mà cịn
phải tính đến hiệu quả về mặt xã hội, phải được đo lường bằng các chỉ tiêu
tổng hợp, cả về kinh tế và xã hội.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với nền kinh tế mở và
hội nhập quốc tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
phải phù hợp với xu hướng hội nhập và mở cửa với thế giới và khu vực.
Yêu cầu trên còn là cơ sở để hình thành các giải pháp xây dựng cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý trong giai đoạn hiện nay.
Sáu là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với công bằng xã hội:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH,
HĐH trong thế kỷ XXI ở nước ta không chỉ đạt mục tiêu tăng trưởng kinh

tế nhanh, vững chắc và toàn diện mà còn phải đảm bảo ổn định xã hội và
nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, khu vực nơng thơn nói riêng.
Vì vậy, cùng với phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với mục tiêu xóa đói giảm


25
nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo ở nông thôn, giữa nông thôn và
thành thị.
Bảy là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải kết hợp giữa truyền thống
và hiện đại: Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nước ta
hiện nay, một mặt phải kế thừa những kinh nghiệm truyền thống, bao gồm
cả ngành nghề truyền thống ở nông thôn, nông nghiệp lúa nước, kinh
nghiệm thâm canh cây trồng, vật nuôi, giống cây đặc sản… Mặt khác,
phải tiếp cận với xu thế hiện đại của thế giới và khu vực, thực hiện
phương châm “đi tắt đón đầu”, nhanh chóng ứng dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật và quy trình cơng nghệ tiên tiến vào phát triển nông nghiệp,
nông thôn.
Tám là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn mục đích tăng trưởng
kinh tế với phân cơng lại lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng
lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ ở
khu vực này: Để đảm bảo sự phát triển nơng thơn bền vững, ổn định thì cơ
cấu lao động nông thôn phải được điều chỉnh hợp lý. Cơ cấu kinh tế gắn
với phân công lại lao động nông nghiệp là phương hướng lâu dài của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thay đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ thúc đẩy phân công lại lao động xã hội
bên trong lãnh thổ mà cịn thúc đẩy q trình tham gia vào hợp tác lao
động quốc tế tạo thuận lợi cho từng ngành chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế sâu hơn, cạnh tranh mạnh mẽ hơn, nhờ đó mà kích thích
tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Chín là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với quy
hoạch, chiến lược và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, của
vùng và của cả nước: Nông nghiệp trên địa bàn huyện là một bộ phận của


×