Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Ôn thi tốt nghiệp chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.28 KB, 75 trang )

Contents
Contents 1
A. Phần kiến thức lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa 1
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa của T. More và T.
Campanela 1
Câu 2: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia thế kỷ XVIII 9
Câu 3: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia – phê phán 13
Câu 4: Vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội
khoa học trong thế kỷ XIX 18
Câu 5: Vai trò của V.I Lênin đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX 21
B. Phần kiến thức kinh điển về chủ nghĩa xã hội khoa học 26
Câu 6: Phân tích các luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học trong
tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” 26
Câu 7: Phân tích các luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học trong
tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” 31
Câu 8: Phân tích các luận điểm của Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học trong tác phẩm
Vấn đề nông dân ở Pháp và ở Đức 36
Câu 9: Phân tích các luận điểm của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học trong tác phẩm:
“Hai sách lược của Đảng xã hội - dân chủ Nga trong cách mạng dân chủ” 40
10: Phân tích các luận điểm của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học trong tác phẩm “Bàn về
thuế lương thực” 46
C. Phần kiến thức về các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học 49
Câu 11: Lý luận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự vận dụng của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam 49
Câu 13: Học thuyết cách mạng xã hội chủ nghĩa và thời đại ngày nay là sự vận dụng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam 61
Câu 14: Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản
và sự vận dụng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam 65
Câu 15. Lý luận về quy luật hoạt động của Đảng Cộng sản trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ý nghĩa đối với công tác xây dựng Đảng Cộng sản


Việt Nam hiện nay 70
A. Phần kiến thức lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa của
T. More và T. Campanela
Ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XV đến XVII phương thức sản xuất tư bản đang
trong quá trình hình thành, bắt đầu có những bước phát triển đáng kể. Giai cấp tư
sản dần vươn lên chiến lĩnh những vị trí quan trọng và thống trị trong xã hội. Cuộc
đấu tranh giữa giai cấp tư sản, giai cấp địa chủ phong kiến cũng trở nên khắc
nghiệt. Xã hội có những thay đổi lớn, cùng với đó cũng xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng lớn đã đặt nên những nền móng về chủ nghĩa xã hội, những tư tưởng phê
phán xã hội đường thời và hình thành nên xã hội mới xã hội cộng sản. Tiêu biểu
1
cho những tư tưởng chủ nghĩa xã hội đương thời đó ở Châu Âu là T. More và T.
Campanela:
1.1 Hoàn cảnh lịch sử nước Anh thế kỷ XV – XVI ( T. More 1478-1535)
Trong giai đoạn lịch sử này ở Châu Âu xã hội có những sự thay đổi không
ngừng ở trên tất cả các phương diện. Tiêu điểm là ở Anh:
Về kinh tế: Ở châu Âu, nước Anh là nơi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát
triển rất sớm. Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, sản xuất nông nghiệp ở Anh có
những biến đổi lớn. Nghề chăn nuôi và sản xuất lông cừu phát triển mạnh mẽ đem
lại nguồn lợi rất lớn, vì vậy các lãnh chúa phong kiến và địa chủ đã chiếm đoạt đất
đai của công xã, đuổi nông dân khỏ đồng ruộng, biến những diện tích đất canh tác
nông nghiệp thành những đồng cỏ để chăn nuôi cừu. Sự phát triển mạnh mẽ của
chăn nuôi cừu theo kiểu tích tụ ruộng đất quy mô lớn đã từng bước làm phá sản hoạt
động sản xuất của hàng triệu nông nô, phá hủy kết cấu kinh tế nông thôn phong kiến
vốn ngũ trị trong xã hội anh trước đó. Sự giàu có của tầng lớp quý tộc, chúa đất tư
sản tỷ lệ thuận với sự bần cùng, khốn khó của đông đảo nông dân bị phá sản, bị đẩy
khỏi ruộng đất của họ, khiến họ phải xa lìa quê hương và đổ về các thành thị, trung
tâm công nghiệp để kiếm sống. Đó là một cảnh tượng hết sức tàn khốc của thời kỳ
tích lũy tư bản đầu tiên ở Anh. Từ đây, nền kinh tế nông nghiệp phong kiến ở Anh

chuyển sang nền kinh tế nông nghiệp TBCN.
Do sản xuất hàng hóa phát triển cả trong công nghiệp và nông nghiệp đã
thúc đẩy ngành thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời, phát triển. Nhiều trung tâm
thương mại hình thành và Luân Đôn trở thành trung tâm thương mại, tài chính lớn
nhất nước Anh. Thương mại phát triển đã thúc đẩy ngành hàng hải phát triển theo.
Về chính trị - xã hội: Cùng với sự xuất hiện của CNTB, với sự thay đổi trong
kinh tế đã dẫn đến sự thay đổi căn bản trong cơ cấu giai cấp – xã hội, vị trí vai của
các giai cấp trong xã hội. Cùng với hai giai cấp địa chủ và nông dân, trong xã hội
Anh đã xuất hiện hai giai cấp mới đó là: vô sản và tư sản. Do đó, trong xã hội Anh
lúc bấy giờ, bên cạnh mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa
nông dân và địa chủ phong kiến đã xuất hiện mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến
với giai cấp tư sản mới hình thành cấu kết với giáo hội phản động. Nước Anh thế
2
kỷ XVI vẫn do giai cấp địa chủ thống trị với sự chuyên chế hà khắc tiêu biểu là
triều đại Hăng ri VIII.
Về văn hóa – tư tưởng: Nền kinh tế TBCN ra đời thì hệ tư tưởng tư sản cũng
ra đời, phát triển và ngay lập tức nó trở thành hệ tư tưởng đối lập với tư tưởng
phong kiến. Từ đó đã xuất hiện hai phong trào lớn: “Phong trào văn hóa Phục
hưng” và “Phong trào cải cách tôn giáo”. Cả hai phong trào này đều phản ánh hệ tư
tưởng của giai cấp tư sản và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản mới ra đời
đang sung sức chống lại tư tưởng giáo hội, phong kiến phản động. Cả hai phong
trào này tác động mạnh mẽ vào nước Anh. Phong trào cải cách tôn giáo dẫn đến sự
ra đời của đạo Tin Lành và Anh giáo thế kỷ XVI. Phong trào văn hóa Phục hưng
góp phần hình thành trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà T. More là một đại biểu
xuất sắc.
1.2 Hoàn cảnh lịch sử nước Ý thế kỷ XVII (T. Campanela 1568-1639)
Cũng trong trong thế kỷ XVI – XVII, Italia bị cuốn vào cuộc chiến tranh kéo
dài suất 30 năm. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
Cuộc chiến tranh đã xâu xé và tàn phá đất nước Ý nặng nề.
Về kinh tế: Vào trước thế kỷ XVI nước Ý có nền kinh tế phát triển vào loại

nhất Châu Âu. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, nền kinh tế TBCN đã ra đời nhưng thị
trường trong nước vẫn bị phân chia theo lãnh địa, nên đã hạn chế đến việc giao lưu
hàng hóa và phát triển sản xuất. Vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, cùng với
sự khủng hoảng kinh tế, những cuộc chiến tranh đã biến nước Ý từ một nước có
nền kinh tế phát triển nhất thành nền kinh tế bị phá hủy nặng nè.
Về chính trị-xã hội: Do kinh tế vừa phát triển vừa biến động khủng hoảng
nên nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới nảy sinh với những ngành nghề mới, mức
sống và địa vị xã hội của các giai tầng cũng khác nhau. Tình hình kinh tế xã hội
trên dẫn đến mâu thuẫn giữa các giai cấp ở Ý lúc này càng trở nên gay gắt đặc biệt
là: mâu thuẫn giữa quý tộc và tăng lữ với tư sản mới đang lên; mâu thuẫn giữa quý
tộc với nông dân và thợ thủ công (tiền vô sản); mâu thuẫn giữa tư sản với người
tiền vô sản.
3
Về văn hóa-tư tưởng: Quê hương của Căm Pa nen la lại là điểm xuất phát
của một nền văn minh mới - văn minh tư sản - thời đại văn hóa Phục hưng với
những nhà tư tưởng lớn, những nhà khoa học nổi tiếng như: Lê ô na đơ vanh xi,
Căm Pa nen la, Đăng tơ và Ga li lê.
2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa của T. More
Tômat Morơ sinh năm 1478 trong một gia đình luật sư ở Luân Đôn. Do
được tiếp nhận một nền giáo dục đầy đủ lại kết hợp với tinh thần tự học, tự rèn
luyện ông trở thành người có học thức cao, có tư tưởng nhân đạo cao cả. Năm 26
tuổi ông bắt đầu tham gia hoạt động chính trị và đã trúng tuyển vào Nghi viện phụ
trách trên lĩnh vực ngoại giao. Năm 51 tuổi (1529) ông đã trở thành Huân tước tể
tướng nước Anh. Do những mong muốn tốt đẹp của ông đối lập với nhà vua, ông
đã bị tên vua Hăngri VIII quy thành tội “phản quốc” và ông đã bị bắt giam 15
tháng và bị kết án tử hình. Bản án tử hình ông được thi hành vào ngay 6/7/1535,
khi ông mới 57 tuổi.
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa cơ bản của T. More được trình bày và thể hiện
trong tác phẩm “Utopia” ở các nội dung sau:
Thứ nhất, phê phán chế độ đương thời:

Trước hết, T. More phê phán chính sách ngoại giao xâm lược của bọn vua
chúa, theo ông những cuộc chiến tranh xâm lược không chỉ giết hại người dân vô tội
mà còn tàn phá cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, đời sống nhân dân ở các nước bị xâm
lược, nó còn làm cho nhân dân trong nước cũng bị kiệt quệ, lầm than.
Phê phán chế độ quân chủ chuyên chế phản động đương thời. Phê phán bọn
ăn bám, ông cho rằng: xã hội có quá nhiều bọn quý tộc, linh mục, binh lính , bọn
ăn bám đó là một tệ nạn xã hội. T. More cho rằng, xã hội hình thành hai cực: một
cực là đại bộ phận quần chúng lao động nghèo khổ, đói rách; một cực là thiểu số
bọn quý tộc giài sang, sống xa hoa, lãng phí. Để sống như vậy chúng đã dùng mọi
thủ đoạn để bóc lột nhân dân lao động, trước những điều đó ông đã lên tiếng bênh
vực người nghèo.
T. More đã nhấn mạnh sự ghê tởm của quá trình tích lũy nguyên thủy của
chủ nghĩa tư bản. Morơ đã khái quát hiện tượng trên bằng hình tượng “cừu ăn thịt
4
người” một hình tượng vừa hiện thực vừa quái dị nhưng lại phù hợp với thời kỳ
tích lũy ban đầu của CNTB. C.Mác đã từng nói đây là thời kỳ đầy máu và nước
mắt. T. Morơ đã nhận ra nguyên nhân của mọi tệ nạn xã hội là do chế độ tư hữu.
Chính chế độ tư hữu đã tạo ra những bất bình đẳng xã hội và không thể nói đến
công bằng và hạnh phúc được. Ông kết luận: muốn có chế độ công bằng và bình
đẳng thì chỉ có cách là: “xóa bỏ chế độ tư hữu”.
Thứ hai, tư tưởng về một xã hội tốt đẹp đem lại cuộc sống hạnh phúc cho
con người
T. More đã xây dựng cả một dự án xã hội mang tính chất một mô hình tổng thể.
Trong việc trình bày rõ ràng và có hệ thống những luận điểm tiêu biểu của tư tưởng
XHCN thời kỳ này, những luận điểm đó được trình bày trên những vấn đề sau:
Trên lĩnh vực kinh tế: T. More nêu ra cơ sở kinh tế trong xã hội Không tưởng
(Utopia) là một khối thống nhất gồm hai bộ phận thủ công nghiệp và nông nghiệp
trên nền tảng của chế độ sở hữu xã hội cả về tư liệu sản xuất, lẫn tư liệu tiêu dùng,
được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên. Phân phối theo nhu cầu
ở mức tối thiểu cần thiết. Tiêu dùng trên cơ sở tổ chức các nhà ăn công cộng.

Trên lĩnh vực chính trị: Xã hội “Không tưởng” là một xã hội thật sự dân chủ,
mặc dù nó vẫn có nhà nước. Nhưng nhà nước được tổ chức theo nhu cầu của xã
hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Các nhà chức trách nhà nước là do nhân dân bầu
ra bằng phiếu kín, nhà nước có chức năng kiểm kê và phân phối sản phẩm, điều
hành lao động, làm ngoại thương và kiểm tra công việc của các giai đình. Nhà
nước này đối lập với nhà nước quân chủ Anh trước đó. Xã hội Utopia ghét chiến
tranh yêu hòa bình, song T. More không phản đối chiến tranh nói chung. Họ chỉ
dùng chiến tranh để bảo vệ bờ cõi và có thể dùng bạo lực để giúp nhân dân các
nước bị áp bức, giải phóng họ khỏi áp bức, ngay khi chiến tranh thì mọi người phải
chăn lo để không còn chiến tranh nữa.
Trên lĩnh vực xã hội: Về thời gian lao động, ông cho rằng người lao động
ngoài giờ làm việc ra phải được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí để nâng cao thể lực, trí
lực, để hoàn thiện con người. T. More chủ trương mọi người làm việc 6 giờ một
ngày chia làm hai ca, còn lại là tám giờ ngủ, mười giờ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí
5
hoạt động khoa học văn học nghệ thuật. Vì ông cho rằng, cuộc sống hạnh phúc
không chỉ có nhu cầu thỏa mãn về vật chất, mà còn cần nhiều thời gian nhàn rỗi để
cho con người có điều kiện tự do phát triển tinh thần và mở mang trí tuệ.
Trong lĩnh vực giáo dục: Tất cả trẻ em (cả nam lẫm nữ) đều được nuôi
dưỡng trong các nhà trẻ. Tất cả trẻ em nam, nữ đều được đi học. Thanh niên bắt
buộc phải học cao cấp, giáo dục cao cấp còn dành cho những người lao động có
nhu cầu học tập. Học văn hóa phải kết hợp với học nghề thủ công hay nông nghiệp.
Về lĩnh vực hôn nhân gia đình: Xã hội quy định nam 22, nữ 18 tuổi trở lên
mới được thành hôn, hôn nhân tự do “mọi người được lựa chọn người vợ hoặc
người chồng của mình” và sống theo quan hệ một vợ một chồng “chỉ có dân đảo
“Không tưởng” mới thỏa mãn với chế độ hôn nhân một vợ một chồng” và ông nêu
quan điểm: Trong hôn nhân có quyền ly hôn, vì hôn nhân tự do cho nên hôn nhân
ít tan vỡ và rất ít xảy ra ly hôn.
Về lĩnh vực dân tộc và tôn giáo: Xã hội Utopia vẫn còn tồn tại dân tộc, vẫn
còn sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn giữa các dân tộc có thể dẫn đến chiến tranh.

Trong xã hội không tưởng còn tồn tại các tư tưởng khác nhau. Mọi người được tự
do tín ngưỡng và có thể tuyên truyền tôn giáo nhưng không được phép kì thị tôn
giáo. Tôn giáo trong Xã hội Utopia là tôn giáo duy lý hóa, Ông nêu lên quan điểm
bầu cha cố. Như vậy, tôn giáo trong Utopia là sự tôn sùng những cái gì là đạo đức
và chủ nghĩa nhân đạo duy lý.
Về vấn đề con người: Con người luôn là vấn đề được các nhà XHCN quan
tâm như là vấn đề trung tâm. Trong Xã hội Utopia T. More đã chỉ ra rằng: tất cả
những thứ có trên thế giới này, không có cái gì quý có thể so sánh với tính mạng
con người. Ông đã bênh vực những con người bị áp bức bóc lột, bị bần cùng hóa
đang chết dần chết mòn trong điều kiện xã hội phong kiến đang suy tàn và chủ
nghĩa tư bản đang trong thời kỳ tích luỹ ban đầu đầy máu và nước mắt.
2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa của T. Campanela
T. Campanela sinh năm 1568 ở Ca la bri miền nam nước ý, trong một gia
đình thợ thủ công làm nghề đóng giầy dép. Ông được gia đình tạo điều kiện cho ăn
học một cách có hệ thống trong các tu viện về các môn: thần học, triết học, văn học
6
và xã hội học. Những quan điểm xã hội - chính trị của ông được thể hiện tập trung
trong tác phẩm “Thành phố mặt trời”. Tác phẩm này ông đã viết khi đang ở trong
tù, nó đượ xuất bản bằng tiếng ý, tiếng La tinh năm 1613, tiếng Đức 1623, tiếng
Pháp 1637 và bằng tiếng Nga 1906. Những quan điểm xã hội – chính trị thể hiện:
Một là, phê phán xã hội đương thời:
Đó là một xã hội coi trọng những kẻ chây lười, ăn bám mà coi khinh những
người lao động, những người có tài năng. Xã hội coi con người không bằng con
vật: họ chăm lo chọn giống ngựa, giống chó trong khi lại coi nhẹ giống người. Ông
cũng chỉ ra xã hội đương thời đầy rẫy những tệ nạn như: chây lười, trộm cắp, ăn
bám, cướp của, giết người, loạn luân. Ông cho rằng những tệ nạn trên là do chế độ
tư hữu sinh ra.
Hai là, tư tưởng về một xã hội tốt đẹp đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người
Xã hội của “Thành phố mặt trời” kể về một xã hội, một cộng đồng người
sống với nhau rất lý tưởng, chưa ở đâu có, lấy chế độ công hữu về TLSX làm cơ

sở, mọi của cải trong xã hội như: ruộng đất, nhà cửa, tài nguyên và mọi của cải sản
xuất ra đều là của chung thậm chí chung vợ, chung chồng và chung con cái. Những
quan điểm XHCN không tưởng của T. Campanela được thể hiện qua phương pháp
mô tả chi tiết các mặt đời sống kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội của “thành phố
mặt trời”, đã gián tiếp phế phán xã hội đương thời ở Ý lúc bấy giờ.
Về lao động: mọi người có sức lao động phải làm việc theo khả năng của
mình, không ai chây lười ăn bám, nghề nào cũng được xã hội quý trọng. Xã hội tạo
điều kiện để mọi người đều có thể lao động kể cả người tàn tật. Sự phân công lao
động phải dựa trên tài năng, giới tính và tuổi tác. Sự phân công như vậy thể hiện sự
bình đặng, đồng thơi tạo điều kiện để mọi người đều được làm việc theo khả năng
của mình và cũng sẽ được thụ hưởng xứng đáng. Nền kinh tế của “Thành phố mặt
trời” gồm ba ngành chính: trồng trọt, chăn nuôi và nghề biển, đồng thời chú ý phát
triển thủ công, thương mại đặc biệt là nghiên cứu khoa học để phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống. Mọi lao động đều được làm việc 4 giờ một ngày còn lại là ăn,
ngủ, nghỉ ngơi vui chơi, nghiên cứu, phát triển trí lực và thể lực.
7
Về phân phối: Ông cho rằng phải phân phối theo lao động nhưng mặt khác
phải phân phối theo nhu cầu nhưng thực chất là chủ nghĩa bình quân. Trên cơ sở tất
cả là của chung, mọi thứ đều dồi dào, nhưng phân phối không để ai quá giàu, không
ai quá nghèo. Ông giải thích về cách phân phối trên: nếu để cho người ta quá nghèo,
sẽ dẫn đến trộn cắp, nhưng để người ta quá giàu sẽ dẫn đến lười biếng. Họ không
giàu vì họ chẳng có gì là của riêng, họ không nghèo vì họ có mọi cái cấn thiết.
Về chính trị: Cơ cấu và hoạt động của nhà nước trong thành phố mặt trời
được chia thành ba lĩnh vực với ba đại biểu: đại biểu cho sức mạnh, đại biểu cho
cho trí tuệ, đại biểu cho tình yêu. Nhà nước do nhân dân bầu ra, người đứng đầu là
“Ông mặt trời” là người có quyết định tối cao đối với tất cả các công việc của xã
hội. Dưới Ông mặt trời và ba trợ lý có thể bị phê bình nhưng không thể bãi miễn,
bởi vì họ là những người sáng suốt nhất, thông minh và hoàn hảo nhất, mọi việc xử
lý đều có lý, có tình. Dưới ba trợ lý còn có những người có uy tín khác do dân cử
ra, những người này do dân bầu và bãi miễn theo nguyên tắc dân chủ.

Về giáo dục: việc giáo dục ở thành phố mặt trời gắn liền với lao động sản
xuất. Sự phát triển khoa học kỹ thuật có ý nghĩa to lớn. T. Campanela thực hiện
chế độ phổ cập giáo dục toàn xã hội, theo từng cấp từ thấp đến cao, giáo dục kết
hợp với dạy nghề, với sản xuất. Ở thành phố Mặt trời, người ta thiết lập sự bình
đẳng giữa nam và nữ. Xã hội quan tâm tạo cho phụ nữ được quyền học tập, tạo
điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò của mình trong xã hội.
Về con người: T. Campanela chủ trương con người phải bình đẳng kinh tế và
chính trị. Lợi ích cá nhân gắn liền với lợi ích xã hội song con người dù có bình
đẳng thì cũng có năng lực và sở thích khác nhau. Vì vậy nhà nước phải có chính
sách đãi ngộ khác nahu với từng người. Tuân theo những quy định đó là thể hiện
đạo đức con người và con người phải thuần phục, trung thành với Chúa. Trong
Thành phố Mặt trời mợi người đều bình đẳng, đều làm việc trên tinh thần thân ái,
giúp đỡ lẫn nhau.
Tóm lại mặc dù T. Campanela đã nêu lên những quan điểm có giá trị song
cũng bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều mâu thuẫn. Trong xã hội Thành phố Mặt trời là xã
hội bình đẳng, nhưng vẫn có đặc quyền. Ông đã chưa chỉ ra con đường cải tạo chế
8
độ chính trị - xã hội đương thời thành nhà nước lý tưởng dựa trên sở hữu xã hội và
hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Mặc dù các tư tưởng XHCN của T. Campanela
còn có những hạn chế lịch sử trên, song qua tác phẩm của mình Ông đã thể hiện rõ
những ước mơ của quần chúng nhân dân lớp dưới về một tương lại tốt đẹp hơn.
Câu 2: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia thế kỷ
XVIII
Trong khi nước Anh tiến mạnh trên con đường TBCN thì nước Pháp vẫn còn
lạc hậu: 90% dân số sống bằng nghề nông, công cụ sản xuất lạc hậu, ruộng đất bị bỏ
hoang, năng xuất lao động thấp. Nước Pháp càng ngày rơi vào sự khó khăn. Chế độ
phong kiến đã cản trở sự phát triển, so với nước Anh, nước Pháp còn thua kém về
nhiều mặt.
1. Hoàn cảnh lịch sử nước Pháp:
Sang thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến ở Pháp đã bước vào thời kỳ suy tàn.

Công thương nghiệp Pháp có những bước phát triển mạnh, các thành phố lớn và
trung tâm công thương nghiệp đã ra đời và phát triển nhanh, yếu tố TBCN ngày
càng rõ rệt.
Dưới chế độ phong kiến ở Pháp, việc phân chia đẳng cấp rất chặt chẽ. Xã hội
được phân ra làm ba tầng lớp: Tăng lữ, quý tộc là hai tầng lớp có đặc quyền, đặc
lợi, đẳng cấ thứ ba là bình dân chiếm 99% dân số nhưng bị tước mọi quyền chính
trị, không được tham gia vào các cơ quan nhà nước và phải phục vụ các đặc cấp có
đặc quyền. Vì vậy, mâu thuẫn trong xã hội Pháp trở nên sâu sắc. Từ nữa sau thế kỷ
XVIII, xã hội Pháp chia thành hai trận tuyến rõ rệt: một bên là nhà vua, tăng lữ,
quý tộc; một bên là giai cấp còn lại, là đẳng cấp thứ ba do giai cấp tư sản lãnh đạo.
Trong hoàn cảnh đó, từ cuối thế kỷ XVII nhất là sang thế kỷ XVIII, các nhà
tư tưởng tiên tiến đã liên tục tấn công vào thành trì của chế độ chuyên chế phong
kiến bằng học thuyết mới tiến bộ và cách mạng. Lịch sử gọi thế kỷ XVIII là thế kỷ
“Ánh sáng”, thế kỷ chuẩn bị tư tưởng cho cuộc đại cách mạng sắp bùng nổ. Trong
trào lưu tư tưởng “Ánh sáng”, có nhiều lĩnh vực và nhiều khuynh hướng tư tưởng
khác nhau trong đó có các nhà tư tưởng XHCN và CSCN không tưởng mà tiêu
biểu là Giăng Mêliê, F.Morenly, Gabrien Bonnơ Mably và Gơrắccơ Babớp.
9
2. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia thế kỷ XVIII
- Phê phán chế độ xã hội đương thời
Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII đã lên án một cách gay gắt
chế độ xã hội đương thời.
Đầu tiên đó là G. Mêliê, ông cho rằng trong xã hội, giữa người với người có
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nếu không có mối quan hệ này thì xã hội không
thể tồn tại. G. Mêliê đã phê phán chế độ chuyên chế phong kiến phản động ở Pháp,
ông cho rằng đây là chế độ bất công, hủy hoại đánh đập con người. Sự tham lam
lộng hành của vua chúa làm cho thần dân bất hạnh. Vì vậy, sự cầm quyền của chế
độ chuyên chế là một trong 6 điều ác của xã hội, nguồn gốc chính của cái ác là do
chế độ tư hữu sinh ra. Vì thế, muốn thủ tiêu cái ác trước hết phải thủ tiêu chế độ tư
hữu, thu tiêu cội nguồn của mọi nỗi đau khổ, bất hạnh của con người.

Còn F. Morenly cho rằng chế độ xã hội đương thời đầy rẫy bất công. Ông đã
chỉ ra nguyên nhân của nỗi đau khổ, bất hạnh của con người đó là chế độ tư hữu.
Vì vậy, muốn có xã hội tốt đẹp, con người được giải phóng thì phải xóa bỏ chế độ
tư hữu, xây dựng chế độ công hữu.
Đến G. Mably cũng giống như Morenly, Ông cũng xây dựng quan điểm về
CNXH không tưởng dựa trên cơ sở lý thuyết về quyền binhg đẳng tự nhiên, ông
cho rằng: mục đích của nhà nước là đức hạnh nhưng muốn có đức hạnh thì phải có
bình đẳng, muốn có bình đẳng thì phải cấp ruộng đất cho mọi người, để mọi người
đều có tài sản, nhưng tài sản này không được nhiều hơn mức pháp luật cho phép.
Ông phê phán chế độ quân chủ ở Pháp là kinh tởm, là chế độ phân chia xã hội
thành giai cấp: kẻ giàu có thì độc ác, người nghèo thì lao động nặng nhọc, bị áp
bức đến cùng cực và luôn gặp rủi ro.
Cuối cùng là Babớp, cũng như những người xã hội chủ nghĩa không tưởng
cùng thời, Babớp cũng lấy luật tự nhiên làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Ông
cho rằng: sự bình đẳng giữa người với người xuất phát từ bản chất của con người
và đó cũng là quyền thiêng liêng của con người. Song khác với những bậc tiền bối
quan niện luật tự nhiên có từ buổi sơ khai của loài người được thể hiện dưới dạng
tự nhiên, Babớp không lẫn lộn trạng thái tự nhiên sơ khai với quyền tự nhiên.
10
Babớp hiểu được cơ chế thống trị đầy rẫy sự bất công, và bóc lột nhan dân lao
động của giới quý tộc, cho nên ông có lòng thù hận giai cấp thống trị và đã không
ngừng đấu tranh chống lại những kẻ độc tài áp bức nhân dân.
- Xây dựng xã hội mới
Từ việc phê phán chế độ xã hội đương thời, các nhà tư tưởng đều đi đến kết
luận nguyên nhân của nó là do chế độ tư hữu, do đó cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu
thiết lập chế độ công hữu để đi đến một xã hội tốt đẹp hơn.
+ Mêliê chủ trương xây dựng xã hội mới - xã hội dựa trên chế độ công hữu về
ruộng đất. Trong xã hội mới, mọi người đều có nghĩa vụ lao động, mọi của cải được
quản lý chung, con người sống trong hòa bình hữu nghị, được hưởng thụ một cách
bình đẳng về của cải và phương tiện sinh sống. Mêliê kêu gọi nhân dân đoàn kết để

xóa bỏ bọn bóc lột, những kẻ ăn bám xã hội để giải phóng cho mình. Để tiêu diệt
bọn bóc lột, để giải phóng cho mình, Ông kêu gọi các dân tộc hãy đoàn kết tương trợ
lẫn nhau, đó là con đường để thoát khỏi cảnh nghèo khổ, chém giết lẫn nhau. Với
Mêliê, CNXH không phải là ước mơ mà là một học thuyết có ý nghĩa thực tiễn. Ông
tin vào sức mạnh của nhân dân, vào khả năng cách mạng của họ, kêu gọi họ đứng
lên làm cách mạng bằng sức mạng của mình, nhất định họ sẽ dành được thắng lợi.
Việc chỉ ra con đường cách mạng giải phóng cho nhân dân lao động khỏi bị áp
bức, bóc lột là công to lớn của Mêliê trong lịch sử tu tưởng XHCN.
+ Để mang lại niền vui hạnh phúc cho con người, Morenly chủ trương thiết
lập xã hội mới - xã hội cộng sản trên phạm vi cả nước. Xã hội cộng sản được xây
dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và thực hiện phân phối bình
đẳng. Nhà nước có trách nhiệm điều chỉnh các quá trình sản xuất công, nông
nghiệp và tiêu dùng của công dân. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm chăm lo
hạnh phúc cho nhân dân, mọi công dân trong xã hội phải coi lao động là quyền và
nghĩa vu mỗi người. Morenly còn đưa ra ba đạo luật cơ bản nhằm tủ tiêu những tệ
nạn và sự bất hạnh trong xã hội, đó là: thiết lập sở hữu xã hội, bảo đảm việc làm
cho mọi người, biến tất cả công dân thành quan chức và cuối cùng là thiết lập trách
nhiệm mỗi công dân hành động vì lợi ích xã hội phù hợp với sức khỏe, tài năng
tuổi tác của mình.
11
+ Mably dự kiến xây dựng xã hội tương lai. Trong xã hội mới, ruộng đất và
tư liệu sản xuất là của chung, tình trạng phân chia đẳng cấp trong xã hội xóa bỏ.
Lao động được tổ chức một cách hợp lý, lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là niềm
vinh quang của mọi thành viên trong xã hội. Trong lao động phải phát huy tinh
thần thi đua, thực hiện nguyên tắc lao động theo khả năng và phân phối theo nhu
cầu. Theo ông, trong xã hội mới vấn đề giáo dục thế hệ trẻ phải được quan tâm, vì
đó là tương lai của đất nước, thực hiện giáo dục toàn dân không mất tiền. Về đạo
đức xã hội cần giáo dục đạo lý: đừng làm điều gì mà mình không muốn người khác
làm cho mình.
+ Babớp chủ trương xây dựng xã hội mới – xã hội cộng sản. Trong xã hội

mới phải thực hiện nguyên tắc mọi người đều lao động, bình đẳng trong lao động.
Babớp khẳng định : “không ai được sống trên lưng người khác, trong nước cộng
hòa sẽ không có kẻ ăn bám”. Xã hội mới phải mang lại hạnh phúc cho mọi người,
mọi người được sống trong trạng thái yên vui, sung túc, vững chắc. Những công
dân lao động trong xã hội được nhận từ xã hội những vật phẩm để thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản. Lao động, sản xuất trong xã hội cộng sản được tổ chức tập trung.
Ruộng đất và tài sản trong quốc gia đều thuộc về nhân dân.
- Con đường để đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa
Sau khi phê phán chế độ xã hội đương thời, phác họa lên xã hội tương lai,
các nhà tư tưởng đã đề cập đến con đường để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa
tương lai theo các cách khác nhau.
- G. Mêliê cho rằng cần phải lật đổ và gạt bỏ giai cấp thống trị. Để tiêu diệt
bọn bóc lột, để giải phóng cho mình, Mêliê kêu gọi các dân tộc hãy đoàn kết tương
trợ lẫn nhau, đó là con đường để thoát khỏi cảnh nghèo khổ và chém giết lẫn nhau.
Việc chỉ ra con đường cách mạng giải phóng cho nhân dân lao động khỏi ách áp
bức, bóc lột là công lao to lớn của Mêliê trong lịch sử các tư tưởng XHCN.
- Muốn xây dựng xã hội cộng sản, Morenly không chủ trương tiến hành cách
mạng để xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới mà ông chủ trương xã hội mới
bằng con đường hòa bình, bằng cải cách chính trị xã hội và bằng luật lệ mới. Ông
cho rằng, muốn xóa bỏ chế độ đương thời đầy rẫy bất công, phải thay các luật lệ cũ
12
bằng luật lệ mới tốt hơn. Từ các đạo luật cơ bản quy định các nguyên tắc của xã
hội cộng sản, sẽ xây dựng các đạo luật khác thiết thực vơi đời sống của con người.
- Theo Mably trong xã hội mới, nhà nước có chức năng tổ chức lao động,
phân phối sản phẩm và chăn lo giữ gìn những phong tục của xã hội. Mọi công dân
trong xã hội hết lòng thương yêu, gắn bó với tố quốc, đen hết sức mình để phục sự
tổ quốc mình, khi có giặc ngoại xâm thì tất cả công dân phải cần vũ khí vì xã hội
không có quân đội đội thường trực và lực lượng vũ trang.
- Babơp lại cho rằng cần có chính quyền chuyên chính cách mạng, nghĩa là
phải sử dụng bạo lực cách mạng để thiết lập nên nhà nước của mình, để tiến hành

xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, nhìn chung hệ thống lý luận của CNXH Utopia đã thể hiện những
quan điểm cộng sản CNXH tương đối rõ nét, nhưng những quan điểm đó là không
tưởng, nó chỉ đem lại một giá trị nào đó, trong tính chất của Xã hội cộng sản.
Câu 3: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia – phê
phán.
Đầu thế kỷ XIX, là giai đoạn CNXH không tưởng phát triển đến đỉnh cao.
CNXH không tưởng ở thời kỳ này đã phản ánh những yếu tố, xu hướng mới về
chất của hiện thực kinh tế xã hội, những nhu cầu này sinh trong quá trình xung đột
giai cấp gay gắt. Vì vậy, nó trở thành “vật liệu xuất phát”, nguồn gốc tư tưởng của
CNXH khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen. CNXH không tưởng đầu thế kỷ XIX
tập trung ở hai nước: Pháp và Anh với những đại biểu kiệt xuất đó là Xanhximông,
Phuriê và Ôoen:
1. Về hoàn cảnh lịch sử
Đầu thế kỷ XIX thế giới đã bước giai đoạn hai của thời kỳ cận đại. Giai đoạn
đầu của thời kỳ cận đại với sự xuất hiện hàng loạt các cuộc cách mạng dân chủ tư
sản, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước được thiết lập, hệ tư tưởng
tư sản từng bước được truyền bá và giai cấp tư sản đã giữ vị trí thống trị ở nhiều
nước phương Tây. Giai đoạn hai của thời kỳ cận đại phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ do việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ
13
thuật vào sản xuất. Đã bắt đầu xuất hiện những mâu thuẫn dẫn đến sự phủ định của
chủ nghĩa tư bản.
- Nước Pháp với sự cầm quyền của giai cấp tư sản phản động mà đứng đầu
là Napôlêon, mọi thành quả của cách mạng bị bóp chết, cái còn lại chỉ là những gì
có lợi cho giai cấp tư sản. Napôlêon đã thực hiện chính sách bành trướng Sôvanh
tư sản gây chiến tranh khắp nơi với hi vọng giành lấy quyền bá chủ thế giới. Với
bản chất xâm lược, quân đội Napôlêon đã gây nhiều tội ác ở nhữn nơi chúng đặt
chân đến. Phong trào quần chúng ở nhiều noi đã nổi lên chống lại cuộc chiến tranh
xâm lược. Đến năm 1815, Napôlêon bị thất bại hoàn toàn. Sau đó ở giai cấp tự sản

Pháp đã chào đón Vương triều Buốcbông, thế lực phong kiến bị đuổi khỏi nước
pháp nay lại trở về nắm chính quyền.
Mặc dù chính quyền do đại biểu Phong kiến địa chủ lên nắm, song đó chỉ là
sự thay đổi ở thượng tầng kiến trúc, còn cơ sở kinh tế vẫn là CNTB – thành quả của
cách mạng Pháp vẫn tồn tại và phát triển, nên nền kinh tế nước Pháp thời kỳ này
cũng có nhiều chuyển biến tích cực và phát triển với xu hướng chung của nền kinh
tế các nước châu Âu. Tuy nhiên về chính trị-xã hội, đây là thời điểm diễn ra những
biến cố chính trị phức tạp, đời sống nhân dân Pháp vẫn tối tăm. Các cuộc đấu tranh
của công nhân diễn ra với các hình thức khác nhau và đã có tính chất chính trị rõ
ràng. Tất cả những cuộc khởi nghĩa, nổi dậy của quần chúng lao động chống các thế
lực thống trị ở Pháp đã chứng minh mâu thuẫn ở Pháp là không thể điều hòa.
Tất cả những yếu tố kinh tế, chính trị - xã hội đó là cơ sở cho việc xuất hiện
và phát triển những tư tưởng, quan điểm và học thuyết về chủ nghĩa xã hội thời kỳ
này ở nước Pháp, mà đại diện nổi bật là Xanhximông và Furiê.
- Nước Anh, Cuộc cách mạng tư sản Anh (1640) đã mở đường cho sự phát
triển của CNTB, sau thắng lợi của cách mạng, GCTS Anh đã liên minh với tư sản
quý tộc để lên nắm chính quyền, đưa đất nước theo con đường TBCN. Quá trình
tích lũy nguyên thủy tư bản “đầy máu và nước mắt” để Anh trở thành cường quốc
về thương nghiệp và có nền công nghiệp pháp triển. Sản phẩm trong trọng nhất
trong cách mạng công nghiệp này là GCVS. GCVS tập trung đông đảo ở các khu
vực công nghiệp, các thành thị lớn, tạo cho họ tình đoàn kết giai cấp và giác ngộ
14
vai trò của mình. Từ cuối thế kỷ thứ XVIII và đặc biệt là sang đầu thế kỷ XIX,
phong trào đấu tranh của GCCN Anh có những biến chuyển mạnh mẽ do bị bóc lột
thậm tệ. Ngay từ khi mới ra đời, GCCN Anh đã tiến hành đấu tranh đòi cải thiện
đời sống. Đến 1824 họ đã dành được thắng lợi quan trọng, buộc Quốc Hội phải
thừa nhận công nhân có quyền lập hội. Từ 1838 đến 1848 lại diễn ra một phong
trào lớn đó là phong trào Hiến chương. Trong bối cảnh này đã xuất hiện một nhà
cải cách tài năng có khuynh hướng cộng sản đó là Rô bớc Ô oen.
2. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội Utopia - phê phán thế kỷ XIX

2.1 Phê phán chế độ xã hội đương thời.
Cũng giống như các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước, các nhà tư
tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán đã kịch liệt lên án chế độ xã hội
đương thời.
- Xanhximông đã vạch trần tình trạng đặc quyền bất hợp lý vô chính phủ của
xã hội tư sản với những nghịch cảnh: kẻ không có năng lực lại điều khiển những
người có năng lực, kẻ vô đạo đức lại đi dạy đạo đức cho người lương thiện, kẻ
phạm tội lại trừng phạt công dân.
- Đương thời Furiê đã phê phán chế độ xã hội đương thời một cách sắc sảo
và sâu sắc. Ông đã lấy lời hứa của giai cấp tư sản trước cách mạng so sánh hiện
thực sau cách mạng, Ông đã chỉ ra rằng đâu đâu những câu nói hết sức hoa mĩ
cũng tương ứng một thiện thực thảm họa nhất, để vạch trần bộ mặt thực sự của giai
cấp tư sản lúc bấy giời. Ông còn cho rằng xã hội Pháp lúc này là ‘một trạng thái vô
chính phủ của công nghiệp” trong đó người lao động được hưởng quá ít, còn
những kẻ ăn bám được hưởng quá nhiều.
- Ôoen cho rằng chế độ tư hữu là nguyên nhân của mọi tai họa xã hội, nó
làm tha hóa trí tuệ con người, là nguyên nhân thường xuyên gây nên sự thù hằn
trong xã hội, là nguồn gốc của mọi tội lỗi xấu xa, nạn đĩ điếm mại dâm là nguyên
nhân của chiến tranh mọi thời kỳ lịch sử gây nên cảnh chém giết lẫn nhau. Ôoen
căm thù chế độ tư bản, Ông cho rằng, xã hội tư bản có ba chướng ngại cản trở sự
phát triển của xã hội: đó là chế độ tư hữu, hôn nhân tư sản và tôn giáo.
2.2 Xây dựng xã hội mới
15
Cả ba nhà tư tưởng thời kỳ này đều chỉ ra rằng nguyên nhân của mọi bất
công, bất bình đẳng, khuyết tật của xã hội là do chế độ tư hữu, tuy nhiên thái độ
của các nhà tư tưởng đối với chế độ tư hữu lại có sự khác nhau. Xanhximông và
Furiê chủ trương duy trì chế độ tư hữu, theo Xanhximông “chế độ sở hữu phải
được tổ chức như thế nào để có lợi nhất cho toàn xã hội về mặt tự do và về mặt của
cải”. Theo Furiê vẫn duy trì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xã hội vẫn còn phân
chia giai cấp, vẫn còn thu nhập không do lao động đem lại. Xã hội mới của Furiê

có những đặc trưng là: sản xuất tập thể trong các hiệp hội, tình trạng rời rạc, manh
mún bị thủ tiêu, mọi người trong xã hội đều có quyền lao động, quyền có tư liệu
sản xuất để sinh sống, tình trạng lao động làm thuê bị thủ tiêu, mọi người được tự
do và tự nguyện lao động, thực hiện phân phối công bằng.
Ôoen thì đòi thủ tiêu chế độ tư hữu, với quan điểm này, Ôoen đã vượt lên
Xanhximông và Furiê về vấn đề sở hữu. Ôoen chủ trương xây dựng chế độ mới,
chế độ công hữu. Chế độ công hữu được tổ chức đúng đắn và có cơ sở khoa học thì
trong xã hội từ người có địa vị cao nhất đến người có địa vị thấp nhất đều có thể tự
đảm bảo mọi nhu cầu cần thiết và hạnh phúc của mình một cách đầy đủ hơn so với
mức có thể đạt được bằng cạnh tranh dưới chế độ tư hữu. Dưới chế độ mới, lao
động được tổ chức trên cơ sở lao động tập thể trong các công xã, mọi người được
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nguyên tắc lao động là duy trì quan hệ hợp
tác mang tính chất liên hợp giữa các thành viên trong công xã, giữa các công xã
với công xã trong quá trình sản xuất.
Về xã hội mới theo quan điểm của Xanhximông thể hiện một số đặt trưng
sau: Xã hội phải được tổ chức như thế nào để mang lại lợi ích cho đa số, muốn vậy
phải giải quyết vấn đề sở hữu. Trong xã hội mới mọi người đều phải lao động, lao
động được tổ chức thành “hội liên hiệp” nhằm duy trì sự hoạt động của mọi người
một cách có lợi nhất, mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của công dân được thỏa
mãn. Trong xã hội đó, khoa học và công nghiệp được kết hợp với nhau bằng đạo
Cơ đốc mới. Các thiết chế xã hội phải thúc đẩy phúc lợi của những người vô sản.
Song theo Ông, những người vô sản vẫn chưa tách khỏi quần chúng cần lao nhưng
Ông đã đã thể hiện là người phát ngôn, người chiến sĩ bảo vệ lợi ích của họ.
16
2.3 Con đường để đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa
Để xây dựng xã hội cộng sản tương lai, các nhà tư tưởng lại có những con
đường, phương pháp khác nhau. Xanhximông đã tuyên bố: giải phóng giai cấp cần
lao là nhiệm vụ cuối cùng của mình. Nhưng để làm điều đó thì Ông thực hiện bằng
con đường hòa bình, bằng giáo dục thuyết phục, thậm chí ông còn tìm mọi cách
ngăn chặn hành động bạo lực.

Còn đối với Furiê thì một mặt ông cho rằng cách mạng là hợp quy luật
nhưng mặt khác ông lại phủ nhận bạo lực cách mạng. Ông chủ trương xây dựng xã
hội mới bằng con đường hòa bình và nhờ vào lực lượng của những người có quyền
và có tiền. Ông đã đến nhờ Napôlêôn đưa nhân loại thoát ra khỏi khủng hoảng.
Đến những ngày cuối đời ông vẫn chờ những người “hằng tâm, hằng sản” đến báo
cho ông tin vui là họ sản sàng hỗ trợ cho sự nghiệp của ông, cung cấp kinh phí để
ông xây dựng công xã. Nhưng kêt quả là không một nhà chính khách, nhà tư sản
nào chịu tiếp không cả.
Ôoen thì cho rằng chỉ có thể chuyển sang một chế độ xã hội mới bằng con
đường hòa bình chứ không dùng bạo lực. Mặt khác, để xây dựng xã hội mới, để
hoàn thành công cuộc cách mạng vĩ đại, cần phải tuyên truyền và giải thích chân lý
cơ bản. Ông đặt nhiều niềm tin, hy vọng vào sự thức tỉnh của chính phủ đang cầm
quyền ông còn chủ trương thuyết phục để các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc,
tạo điều kiện để Ôoen thực hiện những cải cách của mình.
Tóm lại, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng CNXH Utopia ở đầu thế
kỷ XIX với các nhà tư tưởng đại diện là Xanhximông, Puriê và Ôoen có những
cống hiến vô cùng to lớn, Học thuyết CNXH không tưởng của Ôoen đã được Mác
và Ăngghen thừa nhận là tiền đề của lý luận của CNXH khoa học. Ba con người đó
đó mặc dù tất cả các tính chất ảo tưởng và không tưởng của nó thuộc về những trí
tuệ vĩ đại nhất của tất cả các thời đại, đã tiên đoán một cách thiên tài vô số chân lý
mà ngày nay chúng ta đang chứng mịnh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học.
17
Câu 4: Vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với sự ra đời và phát triển của
chủ nghĩa xã hội khoa học trong thế kỷ XIX
C. Mác và Ph. Ăngghen đã có vai trò rất lớn trong việc hình thành và đặt
nên nền móng vững chắc cho CNXH khoa học, những giá trị, tư tưởng lý luận
của hai ông về CNXHKH là nhưng cớ sở để phát triển và đi đến con đường xã
hội cộng sản.
- Về vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội khoa học trong thế kỷ XIX.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của nền công nghiệp lớn.
Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân có sự gia tăng nhanh
chóng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ trọng công nhân công nghiệp đã
tăng đáng kể và trở thành bộ phận hạt nhân của giai cấp. Đây là lực lượng công
nhân lao động trong khu vực sản xuất then chốt có trình độ công nghệ và kỹ thuật
hiện đại nhất. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị áp bức
của giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt
giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhiều cuộc
khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng
khắp. Điều kiện kinh tế, xã hội ấy đòi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường,
điều mà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó một vài thập kỷ đã không thể đảm
đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân
mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự sinh thành ra lý luận mới, tiến bộ soi sáng sự
vận động đi lên của lịch sử.
Đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa
học, văn hoá và tư tưởng. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vạch thời đại
trong vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng.
Trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra đời của triết học cổ
điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Hêghen, Phoiơbắc; của kinh tế
chính trị học cổ điển Anh: A. Smít và Đ. Ricácđô; của chủ nghĩa xã hội không
18
tưởng - phê phán: H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen. Những giá trị khoa học,
cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra tiền đề cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa
học thế hệ sau kế thừa.
C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) trưởng thành ở một
quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy
vật của L. Phoiơbắc và phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí tuệ uyên bác,
các ông đã tiếp thu với một tinh thần phê phán đối với các giá trị của nền triết học

cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế hệ trước để lại; sớm đắm mình
trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tất cả
những điều đó đã cho phép các ông đến với nhau, trở thành đôi bạn cùng chí
hướng, giúp các ông nhận thức được bản chất của những sự kiện kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản. Kế thừa các giá trị khoa
học trong kho tàng tư tưởng nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa
học những sự kiện đang diễn ra đã cho phép các ông từng bước phát triển học
thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận nói chung, tư tưởng xã hội chủ
nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về chất.
C. Mác và Ph. Ăngghen là hai nhà triết học vĩ đại của nhân loại, lãnh tụ
thiên tài giai cấp công nhân quốc tế, đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của mình cho
sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, những người lao động bị áp bức trên toàn
thế giới. Hai ông đã xây dựng học thuyết cách mạng cho giai cấp công nhân – học
thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mác và Ăngghen nhờ hoạt động khoa học, đặc biệt là hoạt động thực tiễn đã
có sự chuyển biến lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ
nghĩa. Mác đã sớm nhận thấy, cần phải có triết học để tìm hiểu đời sống thực tế xã
hội, còn Ăngghen lại từ đời sống thực tế mà thấy cần có triết học làm công cụ. Sự
uyên bác về trí tuệ, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, lòng trung
thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân và kiên định lập trường giai cấp đã
giúp cho hai ông nhận thức đúng quy luật phát triển của xã hội loài người, nhất là
quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, đồng thời hai ông phát hiện ra một lực
lượng xã hội có thể chuyển xã hội sang một giai đoạn mới. Sự phát hiện ra sứ
19
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học, phân biệt nó với các học thuyết khác.
- Về vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội khoa học trong thế kỷ XIX
Trong giai đoạn này hoạt động của hai ông gắn liền với các sự kiện cách
mạng trọng đại ở các nước Tây Âu: cao trào cách mạng 1848 – 1850, thành lập

quốc tế I (1864), Công xã Pari (1871), thành lập quốc tế II (1889) (lúc này C.Mác
đã mất, chỉ còn Ph.Ăngghen). Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển
thêm nhờ tổng kết thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân.
Từ thực tiễn của phong trào công nhân hai ông rút ra kết luận hết sức quan
trọng là để giành được quyền thống trị về chính trị giai cấp công nhân phải “đập
tan bộ máy nhà nước tư sản”, xây dựng nhà nước mới, nhà nước dân chủ xã hội
chủ nghĩa; hai ông bổ sung lý luận về cách mạng không ngừng bằng tư tưởng về sự
kết hợp cuộc cách mạng của giai cấp vô sản với phong trào đấu tranh của nông
dân; về chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các phương pháp và
hình thức đấu tranh trong các thời kỳ cao trào và thoái trào cách mạng.
Phát triển lý luận về chuyên chính vô sản, nhà nước của giai cấp công nhân.
Dự kiến khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội – về thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa
cộng sản - được trình bày trong các tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô ta”,
“Chống Đuy rinh”.
Ph. Ăngghen còn tiếp tục phát triển vấn đề nông dân và liên minh công
nông. Trong CNTB không thể coi nông dân là một khối thống nhất và không
ngừng phân hóa (đại nông, ttrung nông, tiểu nông). Do đó, sách lược của Đảng
công nhân phải khác nhau đối với các tầng lớp nông dân khác nhau.
Cùng với việc phát triển học thuyết của mình thì C. Mác và Ph. Ăngghen
còn phải tiến hành cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc,
đặc biệt là chủ nghĩa cơ hội và xét lại trong quốc tế I để bảo vệ những nguyên lý
của chủ nghĩa xã hội khoa học. Khẳng định vai trò to lớn của C. Mác và Ph.
20
Ăngghen không những trong việc sáng lập mà còn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Như vậy, có thể tóm tắt vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với sự ra đời
và phát triển của CNXH khoa học trong quá trình hoạt động thực tiễn tập trung ở
cái điểm sau:
- Thứ nhất, Các ông đã phát hiện và chứng minh một cách khoa học còn

đường, phương thức đấu tranh của nhân loại trong quá trình chuyển biến cách
mạng của loài người từ CNTB lên CNXH.
- Thứ hai, Các Ông đã phát hiện ra và chứng minh một cách khoa học rằng,
GCCN là lực lượng xã hội duy nhất có đủ khả năng đảm nhận sứ mệnh lịch sử thủ
tiêu CNTB, xây dựng XHCN và CNCS.
- Thứ ba, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thừa kế xuất sắc những giá trị lý luận
của CNXH không tưởng – phê phán đối với những mặt, những nội dung cơ bản
hợp thành CNXHCS. Hơn thế, các ông còn chứng minh được những quy luật cơ
bản của cách mạng XHCN trên những lĩnh vực cơ bản của xã hội, trong tiến trình
từng bước xây dựng chế độ xã hội mới, đưa nhận loại tiến vào CNXH và CNCS.
Với những vai trò to lớn này C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một cuộc
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng XHCN của loài người, đưa CNXH từ không
tưởng trở thành khoa học, đặt nền móng, cơ sở cho những sự khám phá sáng tạo
mới của CNXH trên cả hai phương diện. Một mặt, đó là những cơ sở, tiền đề và
định hướng vững chắc cho nghiên cứu phát triển lý luận của CNXH khoa học. Mặt
khác, đó là những nền tảng, những cơ sở, tiền đề và định hướng vững chắc cho
GCCN, cho chính Đảng của GCCN trong cuộc đấu tranh cách mạng, từng bước
vận dụng, thực hiện hóa lý luận CNXH khoa học.
Câu 5: Vai trò của V.I Lênin đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa
học thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
V. I. Lênin (1870 - 1924) - vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã
đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Bằng
những nghiên cứu và kết luận khoa học của mình, V. I. Lênin đã làm phong phú
chủ nghĩa Mác, đưa chủ nghĩa Mác sang một giai đoạn mới cao hơn, giải đáp
21
những vấn đề cơ bản mà thời đại đặt ra cho giai cấp vô sản quốc tế. Nhìn nhận
những đóng góp to lớn của V. I. Lênin đối với lý luận của chủ nghĩa Mác, vai
trò to lớn của Lênin đã chuyển từ lý luận, học thuyết của chủ nghĩa Mác, CHXH
khoa học phát triển nó và biến nó thành thực tiễn trên con đường cách mạng vô
sản của nước Nga.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mở đầu một thời kỳ mới trong sự phát triển
của phong trào công nhân Quốc tế. Đó là thời kỳ giai cấp vô sản tiên tiến ở Châu
Âu đấu tranh hướng tới giành chính quyền do điều kiện khách quan là CNTB bước
vào giai đoạn phát triển cao nhất là chủ nghĩa đế quốc.
Đến đầu thế kỷ XX, sự phân chia lãnh thổ thế giới đã hoàn thành, nên mâu
thuẫn giữa đế quốc “già” và đế quốc “trẻ” trở nên gay gắt, vấn đề phân chia lại
thuộc địa lại được đặt ra.
Lênin giữ vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ những nguyên tắc
cách mạng của chủ nghĩa Mác và phát triển nó một cách sáng tạo. Sự xuất hiện và
phát triển của chủ nghĩa Lênin gắn bó hữu cơ với sự phát triển của phong trào cách
mạng ở Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Quốc tế II sau khi Ph. Ăngghen mất đã rơi hoàn toàn vào tay các lãnh tụ cơ
hội, do đó một nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với V.I. Lênin đó là đấu tranh chống
lại chủ nghĩa cơ hội bảo vệ chủ nghĩa Mác, đồng thời tiếp tục phát triển học thuyết
của Mác trong thời đại mới. Và V.I. Lênin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó.
Nếu C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công lớn làm cho chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng trở thành khoa học, thì V.I.Lênin là người có công đầu làm cho chủ nghĩa xã
hội từ lý tưởng thành hiện thực.
Có thể chia sự bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học của V.I. Lênin
thành 2 thời kỳ:
1. Trước cách mạng tháng Mười
- Lênin đề cập đến việc xây dựng một đảng kiểu mới của GCCN
Một là, việc xây dựng một Đảng kiểu mới, Mácxít cách mạng của giai cấp
công nhân là xuất phát từ những tiền đề khách quan.
22
Hai là, Đảng kiểu mới, Đảng Mácxít cách mạng của GCCN cần phải tuân
theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thứ nhất, về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, lý luận CNXHKH
làm nền tảng tư tưởng.
+ Nguyên tắc thứ hai về tổ chức, Đảng là một bộ phận của GCCN, song là bộ

phận tiên phong, giác ngộ nhất, cách mạng nhất của GCCN. Đảng được xây dựng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành
động. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh trên cơ sở tự giác cao và bình đẳng,
dân chủ trong đảng. Đảng phải luôn luôn gắn bó máu thịt, trước hết với GCCN và
sau đó là nhân dân lao động và lãnh đạo họ và các tổ chức vô sản khác. Đảng phải
thực hiện tự phê bình và phê bình đối với từng đảng viên và nội bộ đảng.
+ Nguyên tắc thứ ba, về chính trị, đảng phải kiên định lập trường GCCN,
trung thành với lợi ích của GCCN và nhân dân lao động. Đảng phải có trí tuệ và
năng lực xây dựng cương lĩnh cách mạng đúng đắn và trình độ thực hiện trong
thực tiễn cách mạng. Trong việc xây dựng cương lĩnh, Đảng phải xuất phát từ điều
kiện lịch sử cụ thể, vận dụng sáng tạo nguyên lý lý luận của của CNXHKH, trách
giáo điều, chủ quan duy ý chí.
- Về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
Khi cách mạng dân chủ đã giành được thắng lợi triệt để phải chuyển biến ngay
sang cách mạng XHCN. Lênin đã đưa ra được một quan điểm hết sức quan trọng:
Một là, quan điểm về vai trò lãnh đạo của GCCN trong CNXHKH.
Hai là, quan điểm về tính nhân dân của cuộc cách mạng dân chủ tư sản
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Ba là, nền tảng của cuộc cách mạng nhân dân là liên minh của GCCN với
quảng đại quần chúng nhân dân lao động phi vô sản, trước hết là với nông dân.
Liên minh GCCN với GCND là tất yếu và là cần thiết, bởi nó quyết định qui mô
của cách mạng. Liên minh này còn xuất phát từ nhu cầu khách quan của hai giai
cấp vô sản và nông dân.
Bốn là, quan điểm về con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách
mạng. Lê nin đã khẳng định việc sự dụng bạo lực cách mạng để phá đổ một kiến
23
trúc thượng tầng chính trị đã lỗi thời là hết sức cần thiết. Nhưng bạo lực cách mạng
không đồng nhất với chỉ đâu tranh vũ trang và còn là toàn bộ hành động đấu tranh
chính trị của nhân dân.
Năm là, quan điểm về vấn đề chính quyền trong cách mạng dân chủ. Lê nin

khẳng định vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong
cách mạng dân chủ tư sản, GCCN lãnh đạo, chính phủ cách mạng lâm thời là mục
tiêu đầu tiên và căn bản của cuộc cách mạng, là chính phủ thay thế chính phủ
phong kiến bị lật đổ, là biểu hiện thắng lợi quyết định của cách mạng vơi chế độ
chuyên chế và là một trong những điều kiện để chuyển sang cách mạng XHCN.
Sáu là, quan điểm về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản thành cách
mạng XHCN. Theo Lê nin cách mạng dân chủ thắng lợi thì GCVS và nhân dân lao
động vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn, mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS ngày
càng gay gắt. Do đó, cách mạng dân chủ phải chuyển thành cách mạng XHCN.
Bảy là, quan điểm về khả năng thắng lợi của cách mạng XHCN trong thơi
đại Đế quốc chủ nghĩa. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa cách mạng xã hội chủ
nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước tư bản trung bình, hoặc kém phát
triển, chứ CNXH không thể đống thời trong tấc cả các nước.
- Bàn về vấn đề lực lượng cách mạng, vấn đề liên minh công nông.
Nền tảng của cuộc cách mạng nhân dân là liên minh công - nông. Liên minh
công nông là tất yếu và cần thiết, bởi nó quyết định quy mô của cách mạng, quyết
định sự thành công của cách mạng. Liên minh công - nông là cần thiết còn xuất
phát từ nhu cầu khách quan của cả hai giai cấp: vô sản và nông dân. Tuy nhiên
nông dân là một giai cấp không thuần nhất và không được kiên định, họ không tự
đại diện cho mình. Do vậy liên minh công - nông phải do GCVS lãnh đạo.
2. Sau cách mạng tháng Mười
Sau cách mạng tháng Mười V.I. Lênin tập trung vào việc tổng kết kinh
nghiệm và ý nghĩa của cách mạng tháng Mười.
Vạch ra phương hướng, nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ thành
quả cách mạng: công nghiệp hoá, cải tạo nông nghiệp, tiến hành cách mạng văn
hoá, giải quyết vấn đề dân tộc, những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại
24
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nội dung, phương hướng, nhiệm vụ của công cuộc
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng quân đội kiểu mới.
Luận chứng về bản chất, nội dung của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên

chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ này.
Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và ấu trĩ “tả” khuynh.
Thời kỳ sau cuộc nội chiến, nước Nga bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, là thời kỳ hoạt động đầy sáng tạo của V.I.Lênin nhằm phát triển chủ nghĩa xã
hội khoa học. Sự sáng tạo đó biểu hiện tập trung trong chính sách kinh tế mới.
Từ sau cách mạng Lênin đã bổ sung và triến triển một loạt vấn đề lý luận chủ
nghĩa Mác nói chung và CNXHKH nói riêng. Đặc biệt, Người đã tập trung phân tích
những vấn đề cơ bản về CNXHKH sau:
Một là, Lênin đã đặt vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc trong các nước
thuộc địa và phụ thuộc theo một cách mới.
Hai là, Lênin đã chỉ ra hai hình thức phát triển cách mạng của GCCN trong thời
đại quá độ từ CNTB lên XHCN và hình thức hòa bình. Song khả năng hòa bình là hết
sức hiến có. Cuối cùng, cách mạng XHCN tháng 10 Nga vẫn sử dụng hình thức vũ
trang để giành chính quyền.
Ba là, Lênin phát triển học thuyết Mác về chuyên chính vô sản. Vấn đề chuyên
chính vô sản là vấn đề Lênin đặc biệt quan tâm luận giải và phát triển.
Bốn là, Lênin đã khái quát về mặt lý luận hoạt động thực tiễn của công cuộc cải
tạo xã hội cũ và kinh nghiệm của quần chúng trong công cuộc xây dựng xã hội mới và
đã nêu lên những luận điểm cơ bản của một kế hoạch khoa học xây dựng CNXH, bao
gồm những vấn đê: xã hội hóa theo hướng XHCN những tư liệu sản xuất cơ bản, xây
dựng nền công nghiệp hiện đại, điện khí hóa nền kinh tế quốc dân, cải tạo nền kinh tế
tiểu nông theo nguyên tắc của CNXH, tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa.
Tóm lại, V.I.Lênin có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong mọi thời kỳ đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội khoa
học, Người không xem học thuyết này như cái gì đã xong xuôi và không thể sửa
chữa. Người đòi hỏi mình và mọi người tìm cách vận dụng sáng tạo học thuyết này
25

×