Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.37 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số cả nước, trong xu
thế hội nhập kinh tế, khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả tương đối
khả quan như: đã giải quyết được cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm,
thu nhập của dân cư ở khu vực nông thôn tăng lên, đời sống văn hoá xã hội
được cải thiện đáng kể. Đặc biệt là đối với các địa phương đã hình thành và
phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với các làng nghề, làng
nghề truyền thống và làng nghề mới, cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội.
Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm
ngành nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy,
tranh dân gian, gỗ, đá
Cùng với sự phát triển làng nghề truyền thống của cả nước, làng nghề
của tỉnh An Giang cũng được chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều
kiện để phát triển, mở rộng quy mô và đa dạng ngành nghề. Nhiều làng nghề
như se nhang, lưỡi câu, bánh tráng, sản xuất bánh phồng, bó chổi bông cỏ,
chầm nón, HTX rèn, mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe,
HTX dệt Châu Giang, HTX dệt Văn Giáo, tơ lụa Tân Châu, sản xuất gạch
ngói, sản xuất rập chuột, … được khôi phục và phát triển; đồng thời, nhiều
làng nghề mới được xuất hiện và phát triển mạnh như đan thảm lục bình, sản
xuất lò đất, thêu rua, chế biến mắm, khô cá sặc bổi, khô cá tra phồng, sản xuất
than đá, sản xuất võng vải, sản xuất cân treo, sản xuất đường thốt nốt, sản
xuất quạt thốt nốt, tranh thốt nốt, ốc mỹ nghệ, đá thủ công mỹ nghệ, dệt chiếu,
đan giỏ … Thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn
làng nghề được mở rộng quy mô, đã sử dụng máy móc, công nghệ thay thế
cho lao động thủ công. Hiện nay, làng nghề cần được sắp xếp, quy hoạch
thành những cụm làng nghề liên kết nhau để có thể tiếp nhận đầu tư nước
ngoài, đầu tư công nghệ hiện đại nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi
1
trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội văn minh, hiện đại. Có như vậy
làng nghề mới có thể tăng trưởng theo hướng bền vững và phát triển làng


nghề gắn với du lịch. Để giải quyết vấn đề đó, tôi chọn đề tài:"Giải pháp phát
triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang" làm luận văn
Thạc sĩ - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nêu một số công trình chủ yếu như sau:
- Luận án Tiến sĩ về “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội” của tác giả Mai Thế
Hởn.
- “Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng - thực trạng và giải pháp” của Thạc sĩ Vũ Thị Hà năm 2002. Tác giả đã
nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở nông thôn vùng Đồng bằng
sông Hồng và đưa ra giải pháp về quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát
triển làng nghề truyền thống, đưa ra giải pháp về đào tạo lao động, cán bộ
quản lý, thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của nhà nước để
phát triển làng nghề truyền thống.
- “Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với
việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam” của Thạc sĩ Trần Văn Hiến
năm 2006. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng công tác tín dụng ngân hàng
nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển làng nghề của tỉnh;
đồng thời tác giả đã ra dự báo sự phát triển của làng nghề, của tín dụng ngân
hàng nông nghiệp đến năm 2010, đưa ra cơ chế, chính sách cho vay để
khuyến khích làng nghề phát triển.
- “Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo
hướng phát triển bền vững” của Thạc sĩ Nguyễn Hữu Loan năm 2007. Tác giả
đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tổ chức quản lý, xây dựng làng nghề
2
theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Bên cạnh đó, còn một số đề tài, luận án tiến sĩ đề cập tới các vấn đề
gần với đề tài này như: “Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần ở đô thị Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hữu Lực

hay “Một số vấn đề cơ bản về sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn
Hà Bắc” của Nguyễn Ty, … Các công trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề
phát triển tiểu thủ công nghiệp là chính, còn vấn đề khôi phục và phát triển
làng nghề truyền thống mới dừng lại ở mức định hướng cơ bản tầm vĩ mô và
một số chủ trương lớn mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, đưa
ra các giải pháp khả thi cho việc đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống.
- Ngoài ra, còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp về “Phát
triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên địa
bàn huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh” của Thạc sĩ Nguyễn Quốc Hải năm 2006
và “Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế” của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề cập đến thực trạng làng
nghề truyền thống của các địa phương khác nhau; đồng thời cũng đưa ra
những giải pháp về quy hoạch kế hoạch phát triển nghề truyền thống và đặt
vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách, đào tạo nguồn
lao động để làng nghề được phát triển trong điều kiện Việt Nam thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau của các làng nghề, làng nghề truyền thống và đưa ra những giải
pháp phát triển cũng chính là giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn và nông dân theo đúng tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp phát triển các
3
làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung một số lý luận cơ bản về phát triển làng
nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay.

- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Nêu lên quan điểm và đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề
truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là làng nghề truyền thống và các nhân tố tác
động tới sự phát triển làng nghề truyền thống hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do vấn đề rộng lớn và phức tạp trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ kinh
tế, chúng tôi tập trung phân tích, khảo sát một số làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh An Giang và giới hạn phân tích hai nhân tố chủ yếu là: Tác động
của quản lý nhà nước tới sự phát triển làng nghề truyền thống và nhân tố từ bản
thân các làng nghề.
Thời gian nghiên cứu đánh giá thực trạng từ năm 2001 cho đến nay và
đề xuất giải pháp đến năm 2010 và một số giải pháp dài hạn đến năm 2020.
Số liệu phỏng vấn trực tiếp các đối tượng được thực hiện trong năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin;
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước; kế thừa có hệ thống và chọn lọc các công trình nghiên cứu
khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các tài liệu khoa học, kinh tế,
4
chính trị có nội dung liên quan hoặc đề cập đến vấn đề nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, diễn giải, khảo sát, thống kê, so
sánh, phương pháp kết hợp logic với lịch sử, lý luận với thực tế.
6. Đóng góp mới khoa học của luận văn

Luận văn phân tích và làm rõ thực trạng các làng nghề truyền thống
trên nhiều khía cạnh, khái quát quá trình hình thành và phát triển, đánh giá kết
quả những hạn chế tồn tại và nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển bền vững các làng nghề truyền thống trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh An Giang.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu ở các ngành, các cơ
quan nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn của tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở
NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống ở nông thôn
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy,
làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời
sống dân cư ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,
những lệ làng phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì,
phát triển đến ngày nay.
Làng xã Việt Nam được phát triển rất lâu đời, nó thường được gắn chặt
với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng,
phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, cùng với sự phát triển, xuất hiện
những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau,
hình thành thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp tạo thành các làng nghề,
phường nghề, xã nghề gắn liền với địa danh của địa phương, từ đó các nghề
được lan truyền và phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những người chuyên
làm nghề, thì đa phần vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề (nghề phụ).

Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các nghề mang tính chất chuyên môn
sâu hơn và thường được giới hạn trong quy mô nhỏ (làng, xã) dần dần tách
khỏi nông nghiệp để chuyển sang nghề thủ công. Càng về sau xu thế người
lao động tách khỏi đồng ruộng, chuyển sang làm nghề thủ công và sống bằng
nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền
thống và các sản phẩm mang nặng dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh
dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra những quy
6
ước như: không truyền nghề cho người khác làng, không truyền nghề cho con
gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết nghề nghiệp … trải qua một
thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có
những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời, trong đó
có những nghề đạt tới trình độ công nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và
phân công lao động khá cao.
Trong những năm đổi mới, làng nghề có nhiều cơ hội phát triển mạnh
mẽ, đồng thời cũng là lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Cho đến
nay, đã có nhiều quan niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống khác nhau,
có thể nêu một số quan niệm được tổng hợp từ các nguồn tài liệu: [3], [21],
[25],[29],[49].
- Trước hết là quan niệm về làng nghề
Quan niệm thứ nhất: làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng
đều hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Nhưng với quan
niệm như vậy thì làng nghề đó hiện nay không còn nhiều.
Quan niệm thứ hai: làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở
đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công nhiều khi cũng là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên
môn hoá cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền
thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác. Quan niệm về làng nghề

như vậy là chưa đủ, điều đó nói lên rằng không phải bất cứ làng nào có vài ba
lò rèn hay vài ba gia đình làm nghề mộc, nghề dệt … đều là làng nghề. Để xác
định đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỷ trọng lao động hay số
hộ làm nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỷ trọng thu nhập từ
ngành nghề so với tổng thu nhập của làng.
Quan niệm thứ ba: làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ
các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời,
có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, theo
kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản
7
ánh đầy đủ tính chất của làng nghề; nó là một thực thể sản xuất kinh doanh tồn
tại và phát triển lâu đời trong lịch sử là một đơn vị kinh tế TTCN có tác dụng to
lớn đối với đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội một cách tích cực.
Từ cách tiếp cận trên cho thấy quan niệm về làng nghề liên quan đến các
nghề thủ công cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề
thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, khảm trai, kim hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa, …
Trước đây, quan niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp, ngày
nay, khi mà trên thế giới khu vực dịch vụ đóng vai trò quan trọng và trở thành
lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng, thì các nghề dịch vụ trong nông thôn cũng
xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có loại làng một nghề và
làng nhiều nghề, tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công và dịch vụ có ưu thế
trong làng. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại,
hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ
không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ
trọng các nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Trong nông thôn Việt
Nam trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều
nghề gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
Từ các quan niệm trên đây, có thể khái quát về làng nghề như sau: làng
nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng (thôn) có một hay một số
nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập

từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
- Thứ hai là quan niệm về làng nghề truyền thống
Quan niệm thứ nhất: LNTT là một cộng đồng dân cư, được cư trú giới
hạn trong một địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông
nghiệp, cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời để
sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan
niệm này mới thể hiện được yếu tố truyền thống lâu đời của làng nghề, còn
những làng nghề mới, nhưng tuân thủ yếu tố truyền thống của vùng hay của
khu vực chưa được đề cập đến.
8
Quan niệm thứ hai: LNTT là những làng nghề làm thủ công có truyền
thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ.
Bởi vì khi nói đến LNTT ta không thể chú ý tới các mặt đơn lẻ, mà chú trọng
đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ
thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân,
sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: LNTT là những làng có tuyệt đại dân số làm nghề
cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được
nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối, hoặc ít nhất
cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có
nhiều nghệ nhân tài ba và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để
phát triển nghề. Đồng thời, sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh
xảo, nổi tiếng và đậm nét văn hoá dân tộc. Thu nhập từ nghề chiếm tỷ trọng
60% trở lên trong tổng thu nhập của gia đình và giá trị sản lượng của nghề
chiếm trên 50% giá trị của địa phương (thôn, làng).
Quan niệm về LNTT còn có nhiều cách hiểu khác nhau do cách tiếp
cận nghiên cứu khác nhau, để làm rõ về LNTT cần có những tiêu chí sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50%
trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị SX và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên

50% tổng giá trị SX và thu nhập của làng trong một năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và
bản sắc dân tộc Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên có thể định nghĩa: LNTT là những
thôn, làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi
nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu chiếm phần chủ
9
yếu trong năm. Cùng với thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành
nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công
chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình
công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính
mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam
Làng nghề truyền thống Việt Nam có năm đặc điểm chính sau đây:
- Hoạt động làng nghề truyền thống gắn liền với làng quê và sản xuất
nông nghiệp
Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, các nghề thủ công truyền
thống dần dần xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong các gia đình
nông dân và nhanh chóng phát triển ở nhiều làng quê. Thời gian người lao
động ở làng quê dành cho hoạt động sản xuất nông nghiệp (do ruộng đất bình
quân thấp, đặc điểm mùa vụ của cây trồng), năng suất lao động nông nghiệp
thấp đã không đảm bảo thu nhập đủ sống cho người nông dân. Vì vậy, nhu
cầu tạo việc làm để có thêm thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp trở thành
cấp thiết. Đồng thời, do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp đã tạo ra một
sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất định; trong khi đó, ngay trên thị
trường địa phương có nhu cầu về sản phẩm tiểu thủ công nghiệp để phục vụ
cho tiêu dùng, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nguồn nguyên liệu phục vụ
cho các nghề thủ công lại tương đối dồi dào … tất cả những điều đó đã thúc

đẩy các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, ban đầu phục vụ nhu cầu của gia đình
mang tính tự sản tự tiêu, sau phát triển thành hoạt động có quy mô nhiều gia
đình cùng tham gia và như vậy LNTT hình thành và phát triển.
- Có truyền thống lâu đời
Đặc trưng của LNTT Việt Nam là có truyền thống lâu đời. Theo các tư
liệu lịch sử, thời Phùng Nguyên khoảng năm 3000 trước công nguyên, người
Việt cổ đã phát minh và sáng chế ra hầu hết các kỹ thuật chế tác một số công
10
cụ như đồ đá, đồ gốm, … thời Đông Sơn từ năm 3000 đến năm 258 trước
công nguyên, người Việt đã phát minh ra công thức luyện đồng thau, đồng
thanh và đúc được trống đồng Đông Sơn, sản phẩm chứng minh cho nghề
truyền thống thời bấy giờ. Sau đó đến thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ Pháp thuộc
các LNTT dần dần định hình và cũng có nhiều biến động. Sau ngày hoà bình
lập lại ở miền Bắc (1954), giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1975)
tới nay, LNTT nước ta chịu nhiều biến động về công nghệ, thị trường, chiến
tranh, cơ chế chính sách và có nhiều bước thăng trầm nhất định, có lúc phát
triển mạnh mẽ về sản lượng, quy mô, đa dạng hoá các ngành nghề, nhưng có
thời kỳ bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố và bị mai một. Song vào thập niên
80, đầu thập niên 90, do nhiều nguyên nhân khác nhau sản xuất tiểu thủ công
nghiệp nói chung, sản xuất ở các LNTT nói riêng giảm sút nghiêm trọng,
thậm chí một số LNTT bị tan rã. Tới những năm gần đây, LNTT cả nước
đang được khôi phục và từng bước phát triển. Như vậy, hầu hết các làng
nghề, LNTT và các làng nghề mới hoặc các làng nghề mới được phục hồi,
tính truyền thống thể hiện rất rõ.
- Có bản sắc văn hoá của Việt Nam
Một đặc điểm khác hết sức quan trọng của LNTT là hàng hoá của làng,
đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ mang bản sắc truyền thống, có tính khác
biệt, tính riêng, mang phong cách của mỗi nghệ nhân và nét văn hoá đặc trưng
địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng. Hàng chạm trổ trên từng
chất liệu khác nhau (gỗ, đá, sừng, xương, …), hàng sơn (sơn quang, sơn thếp

vàng bạc, sơn mài), hàng thêu, dệt (tơ lụa, chiếu, thảm), hàng mây tre đan, kim
hoàn, đồ chơi, … ở mỗi LNTT đều có bản sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có
những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu
trao đổi được chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ
sung lẫn nhau, trở thành những kiểu mẫu hoàn thiện, đặc sắc cho những sản
phẩm cùng loại được sản xuất, chế tác tiếp sau thể hiện bản sắc độc đáo Việt
11
Nam. Chính tính khác biệt mang dấu ấn văn hoá mang lại khả năng cạnh tranh
cho sản phẩm LNTT trong quá trình phát triển thị trường ra thế giới.
- Lao động chủ yếu là thủ công
Trước đây, khi kỹ thuật công nghệ còn thô sơ, lạc hậu thì hầu hết các
công đoạn trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công đảm nhận. Đặc
trưng cơ bản của người thợ thủ công là tự định đoạt lấy mọi công việc kể cả
cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Công việc có thể tiến hành
độc lập hay cùng với một số người trong gia đình, dòng họ hoặc một số người
học việc. Công việc này đã thể hiện một tay nghề nhất định, một tài khéo léo
riêng biệt, độc đáo, kết hợp với đầu óc sáng tạo và nghệ thuật thông qua lao
động bằng tay hoặc bằng máy móc công cụ cơ khí, nửa cơ khí. Ngày nay,
nhiều LNTT đã biết sử dụng máy móc cơ khí và động lực trong sản xuất. Tuy
nhiên, dấu ấn lao động thủ công vẫn được giữ gìn và chính tính chất thủ công
mang lại đặc thù cho các sản phẩm LNTT.
- Làng nghề truyền thống luôn gắn với tên làng (thương hiệu) và có
khả năng tồn tại, phát triển lâu dài
Mỗi LNTT thường gắn liền với địa danh của làng đó để đặt tên cho
LNTT của mình như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng, làng điêu khắc
đá Ngũ Hành Sơn, làng mộc Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, đan mây
Chương Mỹ, tơ lụa Tân Châu, … đây chính là đặc điểm tiêu biểu để phân biệt
được sản phẩm riêng có của mỗi LNTT.
Sản phẩm của LNTT không chỉ đòi hỏi lao động khéo léo của người
thợ mà còn đòi hỏi sự tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ và những kinh

nghiệm này trải qua thời gian đã trở thành bí quyết nghề nghiệp và uy tín
thương hiệu. LNTT đã tồn tại lâu dài từ đời này sang đời khác là nhờ vào đặc
tính này của LNTT. Trong thời đại hiện nay, đây chính là thương hiệu, chỉ
dẫn địa lý của LNTT. Việc bảo vệ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa rất
lớn để giữ gìn danh tiếng, thị phần cho LNTT, từ đó tạo điều kiện phát triển
LNTT bền vững.
12
1.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nông thôn
Phát triển nghề và LNTT có vai trò chủ yếu sau:
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đa
dạng hoá kinh tế nông thôn
Quá trình phát triển các LNTT đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ
trọng sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng
sản phẩm nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp
sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy, khi ngành
nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có
ngành nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp,
thương mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển.
Nếu xem xét trên góc độ của sự phân công lao động thì các LNTT đã
có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Chúng không chỉ cung cấp tư
liệu sản xuất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn có tác động chuyển
dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Khi các ngành nghề chế biến
phát triển, yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp nhiều hơn, đa dạng hơn và
chất lượng cao hơn. Do đó, trong nông nghiệp hình thành những bộ phận
nông nghiệp chuyên canh hoá, tạo ra năng suất lao động cao và nhiều sản
phẩm hàng hoá [50]. Đồng thời, người nông dân trước yêu cầu tăng lên của
sản xuất sẽ tự thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào là có lợi nhất. Như vậy, quá
trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện dưới tác
động của sản xuất và nhu cầu thị trường.

- Giải quyết việc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động,
giúp chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ
Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở nông thôn, tạo việc làm
nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở
nước ta. Do diện tích đất bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá, tỷ lệ thất nghiệp,
13
thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện nay chiếm
khoảng 30 - 35% lao động nông thôn) nên vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt và
đồng bộ của các ngành nghề và lĩnh vực.
Theo kết quả điều tra, bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề ở các làng
nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên và 8-10 lao động
thời vụ, mỗi hộ chuyên làm nghề tạo việc làm cho 4-6 lao động thường xuyên
và 2-5 lao động thời vụ. Đặc biệt, nghề dệt may, thêu ren mỗi cơ sở có thể thu
hút khoảng 30-50 lao động, cá biệt có những cơ sở hàng trăm lao động; nhiều
LNTT thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất [32].
- Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng
kinh tế
Khôi phục và phát triển LNTT ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho việc
huy động một cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở khu vực nông thôn như
nguồn lực tự nhiên, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm năng vốn, các
nguyên liệu sẵn có ở địa phương … phục vụ vào sản xuất. Do đó, sản xuất
được đẩy mạnh và tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá có chất lượng cao, đa
dạng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mặt khác, sản xuất trong các
LNTT thường tương đối năng động và gắn chặt chẽ với nhu cầu thị trường, vì
vậy mà sản xuất của LNTT mang tính chuyên môn hoá và đa dạng hoá cao
hơn so với sản xuất nông nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ trọng sản phẩm hàng
hoá ở các LNTT thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông và khối
lượng sản xuất hàng hoá sản xuất ra cũng lớn hơn nhiều.

Sản phẩm của LNTT có giá trị kinh tế và xuất khẩu, nên việc phát
triển LNTT góp phần cùng sản xuất nông nghiệp làm tăng trưởng kinh tế ở
nông thôn. Người có trí tuệ, có vốn thì làm chủ hoặc thợ cả, người không
có vốn, trình độ thì làm những công việc giản đơn, phục vụ hoặc dịch vụ.
Cho nên phát triển LNTT là thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo trong
nông thôn.
14
- Tận dụng nguồn lực, phát huy thế mạnh nội lực của địa phương
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát
triển. Nguồn lực của LNTT bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ
công và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh, sức sống
của không ít sản phẩm LNTT như: tơ lụa, dệt thổ cẩm, rèn, sản xuất gạch
ngói, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe chủ yếu dựa vào tài hoa, kinh nghiệm,
tay nghề của người lao động.
Mỗi LNTT thường có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy, họ giữ vai trò
quan trọng trong việc giữ nghề, truyền nghề. Tuy nhiên, số lượng những
người giỏi nghề ngày một ít đi. Trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp được
coi là bí mật, chỉ được truyền cho con cháu trong gia đình, dòng họ [9]. Điều
này cản trở không nhỏ đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Bên cạnh đó, các nghề thủ công cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực
của địa phương, cụ thể là nguồn lao động, tiền vốn. LNTT có thể làm được
điều này vì nó có quy mô nhỏ và vừa dễ dàng thay đổi, chuyển hướng kinh
doanh phù hợp hơn.
Một khi LNTT ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ
lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để
tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất,
làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh
trên thị trường lớn. Như vậy, các nghề thủ công phát triển mạnh nó càng có
điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa, khi cơ sở
vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện cho đội

ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính
kỷ luật. Đồng thời, trình độ văn hoá của người lao động ngày một nâng cao, lại
là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh
vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong LNTT. Bởi vậy, phát triển LNTT trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tuỳ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng đội ngũ
nghệ nhân, thợ giỏi và việc truyền nghề cho những lao động trẻ tuổi.
15
- Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn
giá trị văn hoá dân tộc của địa phương
Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế
nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng.
Như vậy, LNTT không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hoá mà còn chứa
đựng những tiềm ẩn giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống văn hoá của dân
tộc được lưu truyền bao đời nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, thì việc phát triển LNTT còn là cơ sở để tổ chức du lịch làng nghề
thu lợi nhuận cao, có khả năng thu hút đông đảo du khách tìm hiểu, chiêm
ngưỡng những nét văn hoá, những sản phẩm truyền thống của dân tộc.
1.1.4. Sự cần thiết phải phát triển làng nghề truyền thống trong nền
kinh tế thị trường
Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp do cơ chế quản
lý, các hộ gia đình, các làng nghề không được tự do kinh doanh, sản xuất mà
phải gia nhập các HTX tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, LNTT không được phát
triển và có phần mai một, hệ thống HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém
hiệu quả và bắt đầu tan rã dần vào thời kỳ bắt đầu đổi mới nền kinh tế.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do
đầu tư và sản xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm;
được bình đẳng trước pháp luật. Nhiều LNTT được khôi phục và phát triển
mạnh mẽ, trở thành một xu hướng phát triển tất yếu là do:
- Thứ nhất, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý

của Nhà nước thay đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản
xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật; Do
đó, các DNTN, Công ty TNHH, CTCP được ra đời và phát triển. Hệ thống
pháp luật được xây dựng và hoàn thiện đã cởi trói cho cá nhân và doanh
nghiệp, mở đường cho sản xuất phát triển dẫn đến LNTT ở nông thôn cũng
16
được phát triển. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cầu
cống, điện nước, bưu chính viễn thông, trường học, trạm y tế … tạo điều kiện
thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hoá, mở rộng các loại thị trường hàng
hoá, lao động, tài chính …
- Thứ hai, phát triển LNTT gắn với lợi ích, đời sống thiết thực của nông
dân. Xuất phát từ lợi ích cá nhân, hộ gia đình vì mục tiêu lợi nhuận mà bản
thân LNTT tự nó phát triển. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều đến sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong đó có LNTT nhằm mục tiêu nhanh chóng nâng cao
đời sống của nông dân, giảm nhanh khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn
và thành thị. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó là động lực thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển, đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản
phẩm của LNTT. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, tiến bộ
KHCN, máy móc hiện đại được đưa vào sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
sản xuất ngành nghề góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao trình độ sản
xuất và năng suất lao động; Từ đó, tạo ra một bộ phận lao động, một bộ phận
thời gian dư thừa trong nông nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết công ăn việc làm
cho bộ phận dư thừa đó. Phát triển sản xuất kinh doanh các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp trong nông thôn sẽ giải quyết việc làm cho lượng lao động dư
thừa và thời gian nhàn rỗi của nông dân, góp phần nâng cao đời sống của
nông dân. Sự phát triển của LNTT chính là sự phát triển tiểu thủ công nghiệp,
là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp nông thôn, hình thành các khu đô thị
góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, từng bước chuyển nền
kinh tế nông nghiệp nước ta sang nền kinh tế chủ yếu là công nghiệp.

- Thứ ba, gắn liền với việc giữ gìn thương hiệu sản phẩm, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bởi vì: Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử của
nền văn hoá Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề, “Mỗi
một làng nghề là một địa chỉ văn hoá nó phản ánh nét văn hoá độc đáo của
17
từng địa phương, từng vùng”. LNTT thể hiện những nét văn hoá độc đáo qua
từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập quán ứng xử làng nghề. Bởi
LNTT với những sản phẩm làm bằng tay, chất liệu, hoa văn Việt Nam là biểu
tượng cho di sản văn hoá Việt Nam, những chất liệu, kiểu dáng và từng chi
tiết khéo léo tinh xảo trên các sản phẩm thủ công chính là nơi chuyển tải các
sắc thái văn hoá địa phương và góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc.
LNTT là nơi tổ chức các lễ hội thường niên để tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết
ơn các vị tổ nghề, nhắc nhở thế hệ sau lòng tôn kính, tự hào với những giá trị
nghề nghiệp mà cha ông ta để lại và khuyến khích sự truyền nghề kế tục.
Chẳng hạn, tơ lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm Châu Phong (huyện Tân Châu, tỉnh
An Giang), tranh Đông Hồ; Lễ hội ở Bát Tràng thường diễn ra từ 14 đến 22
tháng 02 âm lịch hàng năm việc tế tự ở đình, rước lễ trên sông và quanh làng
… Các cuộc thi văn, thơ và đặc biệt là tay nghề, thử tài là sinh hoạt văn hoá
rất sôi động và thể hiện giá trị văn hoá truyền thống, là dấu ấn văn hoá dân
gian. Những sản phẩm của các LNTT sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao,
mang đặc tính riêng của từng LNTT và những sản phẩm có “hàm lượng” văn
hoá đậm đặc, chính những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị văn hoá đơn thuần
trở thành những sản phẩm văn hoá mang truyền thống dân tộc.
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG
1.2.1. Tác động của quản lý nhà nước tới phát triển làng nghề, làng
nghề truyền thống
- Định hướng và khuyến khích phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống.
Trong quá trình CNH, HĐH nông thôn làng nghề luôn giữ một vị trí
quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cập nhiều qua các

kỳ đại hội. Nghị quyết Đại hội VIII của ĐCSVN đã xác định: “Phát triển các
ngành nghề, LNTT và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu …” [4, tr.45].
18
Đại hội IX của ĐCSVN tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển mạnh công
nghiệp và dịch vụ nông thôn, hình thành các khu vực tập trung công nghiệp,
các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường xuất
khẩu …” [5, tr.172].
Để cụ thể hoá quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách và luật pháp có liên quan đến phát triển làng nghề, LNTT như Luật Đất
đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư … các
chính sách tín dụng, chính sách đầu tư, đặc biệt là quyết định số 132/2000/QĐ-
TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách
khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn đã tạo động lực cho LNTT phát
triển. Qua đó, cho thấy Đảng, Nhà nước đánh giá cao vai trò của làng nghề và
coi trọng việc phát triển LNTT ở nông thôn. Nội dung cụ thể sau:
+ Nhà nước cho phép chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp, lâm
nghiệp để phát triển ngành nghề nông thôn.
+ Lập quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng nguyên liệu nông, lâm,
thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu tại chỗ, ổn định cho ngành nghề nông
thôn phát triển.
+ Cơ sở ngành nghề nông thôn được vay vốn của các tổ chức tín dụng
dưới hình thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội
theo quy định tại Điều 26 của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng
12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
+ Cơ sở ngành nghề nông thôn được giảm 50% trở lên về chi phí thuê
diện tích tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm trong nước. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và tài trợ một phần chi phí cho các
cơ sở ngành nghề nông thôn và nghệ nhân được tham quan, học tập, tham gia
hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm và tìm hiểu thị trường ở nước ngoài.

+ Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ chức, chỉ đạo và dành
nguồn kinh phí cần thiết trong kế hoạch hằng năm cho việc nghiên cứu, đổi
mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, sử dụng các nguồn nguyên liệu trong nước;
19
hướng dẫn việc áp dụng các loại công nghệ phù hợp để nâng cao năng suất
lao động, hạ giá thành, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm làng
nghề; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, giải quyết tình
trạng ô nhiễm môi trường trong ngành nghề nông thôn.
+ Ưu tiên đào tạo và sử dụng lao động đối với những hộ gia đình mà
Nhà nước thu hồi đất để phát triển ngành nghề, lao động là người địa phương.
Khuyến khích các nghệ nhân, HTX, tổ chức, hiệp hội mở các lớp truyền nghề,
dạy nghề cho lao động.
Nghị định số 134 của Chính phủ ngày 09 tháng 6 năm 2004 về
“Khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn” (được gọi là hoạt động
Khuyến công), bao gồm những nội dung cụ thể sau:
+ Hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức, cá nhân khởi sự doanh nghiệp lập dự án
đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, tuyển
dụng, đào tạo lao động, huy động vốn, xin ưu đãi đầu tư và các thủ tục hành
chính khác theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát
triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và địa phương.
+ Hướng dẫn, tư vấn cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đầu tư xây
dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và ứng
dụng tiến bộ KHCN, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản
phẩm và bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề.
+ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm kiếm thị trường, đối tác kinh
doanh và tổ chức triển lãm, hội chợ và giới thiệu sản phẩm.
+ Tổ chức các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, tham quan, khảo sát; hỗ
trợ tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn liên doanh, liên
kết hợp tác kinh tế, tham gia các hiệp hội ngành nghề.

+ Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và
thực hiện dịch vụ tư vấn KHCN để hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất
công nghiệp nông thôn.
20
Thông tư số 03 của Bộ Công nghiệp ngày 23 tháng 6 năm 2005 về
“Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 134/NĐ-CP của Chính
phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn”. Nội dung tóm tắt của
hoạt động Khuyến công được thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Tổ chức các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề.
+ Tổ chức các điểm tư vấn hoặc tiến hành tư vấn trực tiếp tại cơ sở sản
xuất công nghiệp nông thôn.
+ Trực tiếp hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn lập dự án khởi
sự doanh nghiệp, đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm mới, đổi mới và ứng
dụng tiến bộ KHCN, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản
phẩm và bảo vệ môi trường.
+ Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ có kèm theo đào tạo cho cơ sở sản
xuất công nghiệp nông thôn.
+ Xây dựng mô hình trình diễn và tổ chức trình diễn kỹ thuật để phổ biến
công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới và nhân rộng các mô hình tốt đã có.
+ Tổ chức, hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội
chợ, triển lãm, tham quan, khảo sát, học tập trao đổi kinh nghiệm, liên doanh
liên kết, hợp tác kinh tế và tham gia các hiệp hội ngành nghề.
+ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh.
+ Các hình thức Khuyến công khác phù hợp với các hoạt động quy
định tại Điều 3 Nghị định 134/2004/NĐ-CP.
Nghị định số 66 của Chính phủ ngày 07 tháng 7 năm 2006 về “Phát
triển ngành nghề nông thôn”, bao gồm những nội dung sau:
+ Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển
ngành nghề nông thôn dài hạn của cả nước và từng vùng kinh tế gắn liền với
việc thực hiện CNH, HĐH nông thôn.

+ Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch.
+ Xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp, làng nghề tập trung.
+ Hỗ trợ xử lý môi trường, tiếp cận tín dụng.
21
+ Thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.
+ Khuyến khích ứng dụng KHCN.
+ Hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực phục vụ ngành nghề.
- Cơ chế chính sách của Nhà nước
Sự phát triển LNTT một cách tự phát, không có tổ chức, quản lý của
Nhà nước thì gây ô nhiễm, tàn phá môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng về
kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Không có sự quản lý của Nhà nước,
LNTT tự do cạnh tranh, chẳng những không phát triển mà còn kìm hãm sự
phát triển, không nâng cao được năng lực cạnh tranh của LNTT với thị trường
trong và ngoài nước. Nhà nước không tổ chức, không quản lý phát triển của
LNTT sẽ không thu được thuế, không có điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng.
Cơ chế chính sách phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy LNTT phát triển và ngược
lại cơ chế chính sách đi ngược lại với lợi ích nhân dân sẽ kìm hãm sự phát
triển của LNTT. Cơ chế là chủ trương, định hướng của Đảng, gắn liền với ý
chí chủ quan của con người. Chủ trương, định hướng được xác định trên cơ sở
căn cứ khoa học và thực tiễn mới tạo ra cơ chế khách quan, phù hợp quy luật
và tác động tích cực đến LNTT và ngược lại. Chính sách là cụ thể hoá của cơ
chế nhằm hướng dẫn hoạt động của LNTT đi đúng hướng, đúng quỹ đạo.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng
Là một vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ quan trọng đối với LNTT mà
còn quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, đối với đầu tư của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông
được mở rộng, thông tin liên lạc, điện, nước, cầu cống, trường, trạm … được đầu
tư xây dựng đầy đủ, hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho cung ứng nguyên vật
liệu, tiêu thụ sản phẩm của LNTT. Yếu tố này có tác động mạnh mẽ tới yếu tố
tâm lý sản xuất nhỏ của người sản xuất, tới việc phát triển LNTT.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, LNTT
Quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp có cơ sở
khoa học trong tổng thể nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Trên
22
cơ sở quy hoạch đó mà có kế hoạch thực hiện từng giai đoạn, từng thời kỳ
nhằm đảm bảo những chuẩn mực đã đặt ra. Có quy hoạch, LNTT mới đủ điều
kiện để phát triển, có điều kiện mở rộng quy mô, áp dụng được công nghệ
hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh; các chính sách hỗ trợ vay
vốn ưu đãi hoặc đền bù đất đai của Nhà nước phù hợp với thực tế và lợi ích
của nhân dân thì việc xây dựng và phát triển LNTT được thực hiện nhanh
chóng. Mặt khác, có quy hoạch Nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự
phát triển cũng như khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ, tự phát của các
LNTT, từ đó có chính sách điều chỉnh phù hợp.
- Tổ chức gắn kết các ngành du lịch, văn hoá với các làng nghề truyền thống
Là một trong những xu hướng được quan tâm trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Tiềm năng du lịch ở các LNTT hiện nay là rất lớn; Mỗi
LNTT gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với
cung cách sáng tạo sản phẩm riêng. Việc du khảo các LNTT là để thấy rõ bản
sắc cũng như đặc trưng kinh tế, văn hoá của mỗi vùng. Vì vậy, một số LNTT
đã phát triển hình thức này, coi đây là một trong những cách thức nhằm giới
thiệu, quảng cáo làng nghề và sản phẩm truyền thống, qua đó tạo lập thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Dệt thổ cẩm Châu Phong, tơ lụa Tân Châu, đan đát,
mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe, sản xuất gạch ngói,
rập chuột, lưỡi câu, khô cá sặc bổi … đã thực sự thu hút khách tham quan, du
lịch, tìm hiểu sản phẩm truyền thống, quy trình và phương pháp sản xuất, tìm
hiểu thị trường và ký kết hợp đồng kinh tế. Có thể nói rằng, phát triển tiềm
năng du lịch ở các LNTT là một xu hướng rất cần được quan tâm.
- Tạo điều kiện về đầu vào, đầu ra cho sản phẩm
Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của các
LNTT. Trong những giai đoạn trước đây, nguồn nguyên vật liệu được coi là

một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của các LNTT
bởi việc hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông và phương tiện kỹ
23
thuật. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng, chất lượng, số lượng, chủng loại và
khoảng cách của các nguồn nguyên vật liệu này vẫn có những ảnh hưởng nhất
định tới chất lượng và giá thành sản phẩm. Cho đến nay nguồn nguyên liệu
cung cấp cho một số LNTT vẫn phong phú, đặc biệt là nguyên liệu cho các
nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với nhiều nghề khác thì nguồn
nguyên liệu lại là một khó khăn gây nhiều cản trở tới sản xuất do nguồn nguyên
vật liệu đang bị cạn dần đi không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.
1.2.2. Phát huy các nhân tố của bản thân các làng nghề
- Nhân tố truyền thống của từng hộ gia đình
LNTT thường gắn với những kinh nghiệm truyền thống, cha truyền con
nối, do đó đã xuất hiện nhiều nghệ nhân tài hoa. Tính truyền thống của làng
nghề tạo nên uy tín lan truyền qua bao thế hệ trong phạm vi rộng lớn, do đó
nó tự phát hình thành thị trường cung ứng vật tư, lao động, tiền vốn và thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố tác động cản trở việc di chuyển
LNTT đến một địa điểm mới, một khu mới tách biệt dân cư để xây dựng mô
hình cụm công nghiệp làng nghề. Ngày nay, một số địa phương đã hình thành
nhiều làng nghề mới, nhưng làng nghề này nằm xung quanh LNTT đóng vai
trò là vệ tinh, là nơi sản xuất gia công cho LNTT, vấn đề tiêu thụ của làng
nghề này rất khó khăn.
Sản xuất LNTT có nguồn gốc từ nghề tiểu thủ công nghiệp được tách
ra từ sản xuất nông nghiệp. Lúc đầu người nông dân chỉ tận dụng thời gian
lao động nhàn rỗi trong lao động sản xuất nông nghiệp để sản xuất sản phẩm
phục vụ cuộc sống và lao động sản xuất của họ. Vì thế, sản xuất LNTT mang
tính chất sản xuất nhỏ, manh mún tự phát với kỹ thuật thô sơ, lạc hậu. Tính
chất này đã ăn sâu trong tâm trí người nông dân và trở thành yếu tố tâm lý.
Yếu tố này tác động cản trở đến việc xây dựng LNTT với quy mô, máy móc
hiện đại và tập trung theo hướng phát triển bền vững. Yếu tố tâm lý sản xuất

nhỏ biểu hiện ở chỗ họ không muốn và không có vốn đầu tư xây dựng và sản
24
xuất, không dám vay vốn để mở rộng quy mô; không muốn rời bỏ lối sống tự
do cá nhân, tự phát để vào cụm công nghiệp LNTT, chịu sự kiểm soát của
chính quyền, chịu đóng thuế Nhà nước, …
Cơ sở vật chất của các LNTT đều do cá nhân, hộ gia đình đầu tư xây
dựng một cách tự phát tuỳ theo khả năng sản xuất, lao động và tiền vốn của
từng hộ gia đình. Từ việc mua máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cung
ứng nguyên vật liệu đến việc tổ chức tiêu thụ cũng đều do người nông dân tự
phát xây dựng, không theo quy hoạch, không tính đến tác hại của những
người xung quanh, chỉ miễn sao có lợi cho gia đình của họ. Như vậy, tính cộng
đồng trong các LNTT thường không có, nếu có là tính gia đình, dòng họ. Khi
xây dựng cụm công nghiệp LNTT theo hướng phát triển bền vững tức là có
quy hoạch, có kế hoạch của chính quyền, của pháp luật; người nông dân phải
rời bỏ, tháo dỡ cơ sở vật chất cũ của mình để xây dựng mới theo quy hoạch của
Nhà nước. Điều đó gặp trở ngại lớn ở chỗ người dân phải bỏ cũ, xây mới sẽ
không có đủ vốn để làm. Mặt khác, trước đây gia đình tận dụng đất đai, lao
động của mình và không phải đóng thuế Nhà nước, nay phải thuê đất, thuê lao
động và phải đóng thuế sản xuất kinh doanh. Đây là một một yếu tố tác động
cản trở việc xây dựng và phát triển LNTT theo hướng phát triển bền vững.
- Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững
Phát triển LNTT gắn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, ổn định lâu
dài. Trong nền kinh tế thị trường, bản thân LNTT tự nó phát triển nhờ cơ chế
chính sách của Nhà nước và tác động của cơ chế thị trường. Mặt khác, vì mục
tiêu lợi ích của mình, các cá nhân, hộ gia đình đã đầu tư vốn, máy móc, thiết
bị, lao động … để mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, đa dạng
hoá mẫu mã, đa dạng hoá loại hình sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản phẩm,
giành thắng lợi trong cạnh tranh. Trong giai đoạn thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn tạo cho LNTT có những điều kiện phát triển mạnh như cơ
sở hạ tầng, KHCN, thị trường cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm

được mở rộng. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức
25

×