Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thảo luận nhóm TMU THỰC TRẠNG về THU hút và sử DỤNG NGUỒN vốn ODA ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN vừa QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.38 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---

---

BÀI BÁO CÁO THẢO LUẬN

MƠN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VỀ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA

Giảng viên

: Lê Nam Long

LHP

: H2104BKSC0611

Nhóm

:7

HÀ NỘI – 2021
0

TIEU LUAN MOI download :



DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 7

ST

Họ và Tên

T
61 Nguyễn Phương Thảo
62 Nguyễn Thị Phương Thảo
63 Nguyễn Thị Thìn
64 Nguyễn Phương Thu
65 Trần Thị Thúy
66 Phạm Thị Thu Thủy
67 Nguyễn Thị Tình
68 Nguyễn Tú Tồn

1

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
I. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TỪ NHẬT BẢN……………..3
1.1 Thực trạng ODA của Nhật Bản tại Việt Nam ………………………………………...3
1.1.1 Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản……………………………………………….3
1.1.2 Thực trạng ODA của Nhật Bản…………………………………………….. 3
1.2 Đánh giá thực trạng ODA của Nhật Bản tại Việt Nam………………………...........5
1.2.1 Về quy mô viện trợ…………………………………………………………...5
1.2.2 Về chất lượng viện trợ……………………………………………………….5

1.3 Về tác động của vốn viện trợ của Nhật Bản tại Việt Nam …………………………....6
AI. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TỪ VỐN TRUNGQUỐC…….......9

2.1. Thực trạng của ODA của Trung Quốc ở Việt Nam…………………………..............9
2.1.1 Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc…………………………………………....9
2.1.2 Thực trạng ODA Trung Quốc ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2019…………10
2.2 Đánh giá thực trạng ODA của Trung Quốc ở Việt Nam…………………….............11
2.2.1 Về quy mô viện trợ……………………………………………………….....11
2.2.2 Về chất lượng việntrợ………………………………………………………12
2.2.3 Về động cơ viện trợ………………………………………………………...14
2.3 Tác động của vốn viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam……………………..…..14
2.3.1 Tác động tích cực………………………………………………………..…15
2.3.2 Tác động tiêu cực…………………………………………………………..15
III. TÌNH HÌNH GIẢI NGÂN VỐN ODA Ở VIỆT NAM…………………………...20
3.1 Thực trạng giải ngân…………………………………………………………………20
3.2 Nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong giải ngân………………………………..... 21
3.3 Quyết định cho vay lại vốn của Chính phủ…………………………………………. 22
III. GIẢI PHÁP CHUNG………………………………………………………………23

2

TIEU LUAN MOI download :


I. Thực trạng ODA của Nhật Bản tại Việt Nam
1.1 Thực trạng ODA của Nhật Bản tại Việt Nam
1.1.1 Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Về khuôn khổ quan hệ: Tháng 3/2014, hai nước nâng cấp quan hệ lên thành “Đối
tác chiến lược sâu rộng vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á” trong chuyến thăm Nhật
Về Hợp tác về kinh tế: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt

Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam .Đến nay,
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhà đầu tư số 2 tại Việt Nam, đối
tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam (năm 2014). Hai bên đã ký Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư (tháng 12/2004), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản
(VJEPA) (tháng 10/2009)... tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho phát triển quan hệ kinh tế,
thương mại giữa hai nước.Hiện Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam triển khai Kế
hoạch hành động kèm theo Chiến lược cơng nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ
hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020 tầm nhìn 2030.
Về thương mại:Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999.
Năm 2014, Nhật Bản là bạn hàng thương mại đứng thứ 4 của Việt Nam với kim ngạch
thương mại hai chiều đạt 27,612 tỷ USD , trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
đạt 14,704 tỷ USD (tăng 8,2%), nhập khẩu đạt 12,908 tỷ USD (giảm 4,45%).
Về đầu tư trực tiếp: Trong 6 tháng đầu năm 2015 (tính đến 20/6/2015), Nhật Bản
đứng thứ 5 với 131 dự án cấp mới và 61 dự án tăng vốn, tổng vốn đăng ký và tăng thêm
đạt 496,38 triệu USD. Hai bên hoàn thành báo cáo kết thúc Sáng kiến chung Việt-Nhật
giai đoạn 5 và nhất trí tiếp tục triển khai giai đoạn 6 trong năm 2015.
1.1.2 Thực trạng ODA của Nhật Bản
Về quy mô ODA, trong 20 năm qua, Nhật Bản luôn là nước viện trợ ODA lớn nhất
cho Việt Nam., chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt
Nam. Từ năm 1992 đến hết 2014 , Nhật Bản đã cam kết khoảng 27, 05 tỷ USD vốn vay

3

TIEU LUAN MOI download :


ODA cho Việt Nam. Ngược lại, Giải ngân ODA của Việt Nam đạt 22%, tương đương 147
tỷ Yên, đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) trong số các nước sử dụng ODA vốn vay Nhật Bản.
Về cơ cấu viện trợ, nhìn chung theo xu hướng hiện nay, Nhật Bản đang có chiều
hướng giảm viện trợ khơng hồn lại, tăng hình thức ODA có hồn lại và ODA hỗn hợp.

Theo báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính về việc thẩm định các dự án cho vay Nhật Bản từ
ngày 1-10-2017 nêu rõ, lãi suất vay thông thường của Nhật Bản cho Việt Nam tăng từ
1,2%/năm lên 1,5%/năm, lãi suất ưu đãi áp dụng đối với khoản vay trong một số lĩnh vực
tăng từ 0,3%/năm lên 1%/năm. Cùng với đó, phía Nhật yêu cầu mức lương để lập dự toán
các dự án vay vốn tài khóa 2018 là khoảng 30.000 USD/tháng/người, chưa kể các khoản
phụ cấp. Mức này cao hơn 20%-25% so với mức lương tư vấn nước ngồi bình qn trong
các dự án vay vốn ODA.
Về lĩnh vực viện trợ, mặc dù Nhật Bản cũng dành tới 24% vốn ODA của mình cho
các dự án điện và khí gas, nhưng chỉ có 2% viện trợ cho ngành khai khống và chế tạo.
Đặc biệt 46% ODA của Nhật Bản được rót cho lĩnh vực vận tải nhằm tăng cường kết nối
và 14% cho các dịch vụ an sinh xã hội. Như vậy, ODA của Nhật Bản ở Việt Nam không
chỉ tập trung riêng cho ngành năng lượng, khai khoáng nhằm tận dụng triệt để nguồn tài
nguyên mà còn quan tâm tới các mục tiêu an sinh xã hội và các ngành kinh tế khác
Về chủ thể cung cấp viện trợ, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) là tổ chức
duy nhất thực hiện các chương trình hợp rác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản bảo trợ với
mục tiêu chuyển giao công nghệ và kiến thức phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của các nước nhận viện trợ. Ngồi ra, Nhật Bản cịn có Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài
(OECF) là một tổ chức thức hiện phần lớn các khoản cho vay song phương trong viện trợ
phát triển chính thức của Nhật Bản, Quỹ OECF- PSIF để tiến hành đầu tư tài chính khu
vực tư nhân và Quỹ tín dung MIYAZAWA để giúp các nước khắc phục hậu quả sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Chậu Âu.
Về chất lượng viện trợ, Các điều kiện và điều khoản của vốn vay ODA Nhật Bản là
ưu đãi với lãi suất thấp và thời hạn dài, tuy nhiên, không phải dự án nào cũng áp dụng các
điều kiện ràng buộc. Do đó, nhà thầu khơng bắt buộc phải mang quốc tịch Nhật Bản trong
mọi dự án vay vốn ODA Nhật Bản. Các khoản vay STEP (là khoản vay ràng buộc)
4

TIEU LUAN MOI download :



chỉ được dành cho các dự án có yêu cầu công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản. Trong tổng số
vốn vay đã cam kết từ năm 2010 đến 2017, tỷ trọng của các khoản vay STEP chỉ vào
khoảng 38% trong khi 62% số vốn vay cịn lại khơng áp dụng bất kỳ điều kiện ràng buộc
nào về quốc tịch nhà thầu hay nguồn gốc xuất xứ hàng hóa.
1.2 Đánh giá thực trạng ODA của Nhật Bản tại Việt Nam
1.2.1 Về quy mô viện trợ
Về quy mô viện trợ, với việc Nhật Bản đã luôn là nước đứng đầu về viện trợ ODA
dành cho Việt Nam với tổng số vốn cam kết lên tới 509,804 tỷ yên, tương đương trên 5 tỷ
USD. Điều đó khơng chỉ thể hiện đường lối mong muốn tăng cường hợp tác trên lĩnh vực
kinh tế với Việt Nam, mà cịn có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan
hệ giữa hai nước, đặc biệt là quan hệ ngoại giao và kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác động
khơng nhỏ tới các quan hệ đối ngoại khác. Sau Nhật Bản thì một loạt các nước phát triển
khác, các tổ chức quốc tế khác cũng đã nối lại và tăng cường viện trợ cho Việt Nam, hỗ trợ
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Về mức độ ưu đãi lãi suất, khi mức thu nhập của Việt Nam được xếp hạng vào hạng
mục "Thu nhập trung bình thấp” thì mức độ ưu đãi của các điều khoản và điều kiện của
ODA Nhật Bản đã thay đổi. Một số lập luận đã được đưa ra về Chính phủ Nhật Bản áp đặt
điều kiện tương đối khắt khe về cho vay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thầu và
tư vấn Nhật Bản, như chính sách thuế, xuất xứ của nhà thầu và phương thức mua sắm. Với
nguyên tắc là khơng ai cho khơng ai cái gì và với nguyên tắc đó, Nhật Bản viện trợ ODA
cho Việt Nam chắc chắn duy trì lợi ích về mặt kinh tế hoặc chính trị. Ngồi việc hợp đồng
kèm theo điều kiện để doanh nghiệp thuộc nước cho vay thực hiện các cơng trình vốn
ODA thì lương chun gia nước ngồi ở các dự án đó cũng rất cao, có thể đến hàng trăm
triệu đồng mỗi tháng.
1.2.2 Về chất lượng viện trợ
Thứ nhất, các dự án ODA của Nhật Bản tại Việt Nam đều rất minh bạch và có độ
tin cậy cao. Phía JICA ln ln bày tỏ thái độ hồn tồn đồng ý với chính phủ Việt Nam
về việc cần tăng cường chia sẻ thơng tin và tính minh bạch. Việc này, theo JICA là để xác
nhận tổng quan dự án và kết quả dự kiến của dự án cũng như đảm bảo tính minh bạch của
5


TIEU LUAN MOI download :


việc cung cấp vốn vay của Nhật Bản đối với công chúng.Hơn nữa, việc “Đánh giá hậu dự
án” để đánh giá liệu các kết quả đầu ra và chỉ số kế hoạch đã đặt ra tại thời điểm đánh giá
tiền dự án có đạt được hay khơng ln được cơng khai trên trang web của JICA. Tuy
nhiên, Jica nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân biệt giữa các vấn đề có thể được cơng
khai và những vấn đề cần được giữ bí mật trên quan điểm đảm bảo cạnh tranh cơng bằng
trong q trình đấu thầu.Ví dụ, Jica cơng khai tên của các nhà thầu chỉ sau khi ký kết hợp
đồng; Báo cáo đánh giá tiền dự án sẽ đưa ra phác thảo phạm vi và tiến độ dự án nhưng sẽ
chỉ đề cập đến tổng chi phí dự án
Thứ hai, quy trình xét duyệt và thẩm định dự án ODA của Nhật Bản khá chặt chẽ
và tuần tự. Tất cả các dự án đều phải trải qua đầy đủ các bước từ tuyển chọn dự án (khảo
sát, đánh giá tính khả thi, lựa chọn nhà thầu…), thực thi cho đến đánh giá hiệu quả sau khi
kết thúc dự án. Việc đảm bảo một quy trình đầy đủ các bước nhằm hạn chế tối đa tình
trạng gian lận, tham nhũng, vận động hành lang.
Thứ ba, với điều kiện ràng buộc chỉ được áp dụng kèm theo các dự án có u cầu
cơng nghệ tiên tiến từ Nhật Bản, do vậy, vai trò của nhà thầu Việt Nam so với nước ngoài
khi tham gia các dự án ODA Nhật Bản hoàn toàn là như nhau. Trong mọi trường hợp, các
doanh nghiệp Việt Nam hồn tồn có thể tham gia thực hiện dự án vốn vay ODA Nhật
Bản. Cụ thể, với những dự án vốn vay có điều kiện khơng ràng buộc, các doanh nghiệp
Việt Nam có thể tham gia đấu thầu và thực hiện hợp đồng với tư cách là nhà thầu chính
hoặc nhà thầu phụ.Với các dự án áp dụng hình thức STEP, các doanh nghiệp của Việt Nam
có thể tham gia thực hiện hợp đồng với tư cách là thành viên của liên danh Việt Nam Nhật Bản, hoặc nhà thầu phụ.
1.3 Về tác động của vốn viện trợ của Nhật Bản tại Việt Nam
1.3.1 Tác động tích cực
Thứ nhất, ODA của Nhật Bản đã góp phần phát triển hạ tầng điện lực và sử dụng
hiệu quả năng lượng. Việc cung cấp điện ổn định rất quan trọng, không chỉ làm ổn định
đời sống sinh hoạt của người dân mà cịn góp phần phát triển nền cơng nghiệp trong nước

và thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Vào những năm 60, sau khi hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà
máy thủy điện Đa Nhim, Nhật Bản luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho phát triển năng
6

TIEU LUAN MOI download :


lượng điện. Nhật Bản đã phát huy khả năng kỹ thuật của mình để hỗ trợ Việt Nam phát
triển nguồn điện lực như xây dựng các nhà máy điện, công trình truyền tải phân phối điện;
và xây dựng mạng lưới trạm biến áp ở các KCN,v.v... Từ năm 1992 đến năm 2011, số vốn
mà Nhật Bản đã tài trợ cho ngành năng lượng (số cam kết) là 493,9 tỷ Yên, chiếm tỷ trọng
lớn thứ hai trên tổng nguồn vốn (23,8%), chỉ sau lĩnh vực giao thông. Trong 10 năm cho
đến năm 2010, lượng tiêu thụ điện năng của Việt Nam mỗi năm tăng trung bình khoảng
14%. Năm 2009, tỷ lệ điện khí hóa tồn quốc lên đến 97,6%. Tính đến cuối năm 2011,
công suất của các nhà máy điện đã và đang được xây dựng bằng nguồn vốn ODA Nhật
Bản đạt 4.500 MW, tương đương 14% tổng công suất phát điện cả nước. Nhật Bản hiện
đang tiến hành Một số dự án như dự án hoạch định QH tổng thể phát triển điện lực và tiết
kiệm năng lượng, đào tạo nhân viên kỹ thuật điện, và phổ cập tiêu chuẩn kỹ thuật điện.
Một số nhà máy điện đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA Nhật BẢn theo
Trang chủ Jica
Tên
Nhà máy Thủy điện Đa
Nhim
Nhà máy Thủy điện Phú Mỹ
Nhà máy Thủy điện Phả Lại
Nhà máy Thủy điện Hàm
Thuận – Đa Mi
Nhà máy Thủy điện Đại
Ninh
Nhà máy Thủy điện Ơ Mơn

Nhà máy Thủy điện Thái
Bình

7

TIEU LUAN MOI download :


Nhà máy Thủy điện Nghi 2006
Sơn

Thứ hai,số vốn ODA của Nhật Bản cịn góp phần tăng cường mạng lưới giao thông
vận tải ở Việt Nam. Nửa đầu những năm 90, việc khôi phục Quốc lộ số 1 được ưu tiên
hàng đầu, trong đó Nhật Bản hỗ trợ khơi phục các cây cầu, hỗ trợ cải tạo cầu đường sắt
trên tuyến đường sắt Thống nhất Bắc-Nam, tăng cường chức năng đô thị với các dự án xây
dựng đường vành đai 3 (Hà Nội), Đại lộ Đông-Tây (TP.HCM), đường sắt nội đô tại Hà
Nội và TP.HCM,…, và nâng cấp các cửa ngõ quốc tế với dự án cải tạo Cảng Hải Phòng,
Sân bay quốc tế Nội Bài,…; Bên cạnh đó, các dự án phát triển nguồn nhân lực cũng được
triển khai để cải thiện an toàn và chất lượng dịch vụ giao thông đô thị, đồng thời đáp ứng
nhu cầu quốc tế hoá của ngành.
Mạng lưới đường bộ được cải thiện đã tạo điều kiện để việc vận chuyển khối lượng
lớn nông sản từ nông thôn đến Hà Nội trở nên dễ dàng hơn và giảm bớt chi phí vận
chuyển. Ngồi ra, việc xe buýt cũng đến được tận vùng nông thôn mang lại hiệu quả cải
thiện sinh hoạt và nâng cao sinh kế của người dân trong vùng như giúp người dân đi đến
cơ sở GD và y tế dễ dàng hơn,v.v...
Thứ ba, số vốn ODA của Nhật Bản cũng góp phần năng cao đời sống, sức khỏe cho
người dân. Để giúp người dân có thể tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng cao hơn. Nhật
Bản đã tập trung hỗ trợ nâng cấp ba bệnh viện trọng điểm, đó là Bệnh viện Bạch Mai ở Hà
Nội, Bệnh viện Chợ rẫy ở TP.HCM và Bệnh viện Trung ương Huế ở TP.Huế. Các cơ sở vật
chất được xây dựng, đội ngũ y, bác sĩ được nâng cao tay nghề từ các chuyên gia Nhật Bản.

Từ năm 2003, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất vắc xin sởi, sau đó
là dự án chuyển giao cơng nghệ sản xuất vắc xin sởi vào năm 2006. Để có thể tăng cường
khả năng đối phó với mối đe dọa của dịch SARS, Nhật Bản cũng tiến hành hỗ trợ cho các
cơ quan nghiên cứu , sáng ngày 25-6- 2021 tiếp tục viện trợ khơng hồn lại cho Việt Nam
thêm 1 triệu liều vắc-xin phòng Covid-19 của hãng Astra Zeneca.

8

TIEU LUAN MOI download :


Thứ tư, số vốn ODA Nhật Bản đã giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo thông qua
phát triển nông nghiệp. Vào năm 2010, khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, tỷ
lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn là 18,7%, ở mức cao so với tỷ lệ 3% ở khu vực đơ thị).
Trước tình hình đó, Nhật Bản đã khơng ngừng hỗ trợ Việt Nam xóa đói giảm nghèo, cải
thiện sinh kế cho người nông dân với một số dự án tiêu biểu như “Dự án Thủy lợi Phan
Rang”. Dự án đã được triển khai từ 50 năm trước đây nhằm cung cấp nước tưới cho đồng
bằng Phan Rang tỉnh Ninh Thuận, một trong những vùng có khí hậu vơ cùng khắc nghiệt.
Đồng thời, vì hệ thống thủy lợi Phan Rang sử dụng nguồn nước xả từ nhà máy thủy điện
Đa Nhim nên tiết kiệm được chi phí khai thác nguồn nước, và đạt hiệu quả sử dụng cao.
Hiện nay, tại tỉnh Bình Thuận, tiếp giáp với tỉnh Ninh Thuận, Dự án thủy lợi Phan Rí Phan Thiết cũng đang được triển khai theo chương trình vốn vay ODA.
Thứ năm, việc sử dụng vốn ODA từ Nhật Bản cịn giúp Việt Nam Bảo vệ mơi
trường tự nhiên và phát triển môi trường đô thị. Năm 1994, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam
lập “Kế hoạch cải thiện hệ thống thoát nước và xử lý nước thải ở Hà Nội”. Nội dung của
dự án này bao gồm xây dựng trạm bơm Yên Sở và 2 nhà máy xử lý nước thải mẫu,v.v,
… Kết quả đánh giá cuối kỳ dự án của JICA cho thấy 70% người dân Hà Nội cơng nhận

dự án đã góp phần hạn chế thiệt hại do úng ngập gây ra. Thiệt hại về nhà cửa, xe cộ, nạn
dịch bệnh do lụt lội đã giảm. Tình trạng ơ nhiễm mơi trường vì rác thải cũng được cải
thiện. Dự án Cải thiện môi trường nước Hà Nội đã thực sự mang lại thành quả, góp phần

hạn chế thiệt hại do úng ngập gây ra tại Hà Nội.
II. T^nh h^nh thu h_t và sa dụng vốn ODA tc Trung
Quốc 2.1. Thực trạng ODA của Trung Quốc ở Việt Nam
2.1.1. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Về quan hệ chính trị- ngoại giao, trong suốt chiều dài lịch sử hai nước, quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc dù có những thời khắc thăng trầm, nhưng hữu nghị và hợp tác vẫn
là dịng chảy chính. Hợp tác với Trung Quốc được xác định là một trong những ưu tiên
hàng đầu trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt
Nam.

9

TIEU LUAN MOI download :


Sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1991, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đã
phát triển nhanh chóng, toàn diện và sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Năm 2008, Việt Nam và
Trung Quốc đã thiết lập quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” theo phương châm
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần
“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Năm 2020 đánh dấu 70 năm quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc (18/1/1950 – 18/1/2020) hợp tác trong các lĩnh vực
ngoại giao, an ninh và quốc phòng ngày càng được tăng cường, giao lưu nhân dân hai
nước cũng không ngừng được mở rộng. Trong bối cảnh Trung Quốc ln muốn gia tăng
ảnh hưởng của mình ở khu vực, quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Việt Nam đang
chuyển từ song phương lên quan hệ đa phương với sự hình thành các cơ chế hợp tác mới,
các chiến lược ở quy mơ lớn thay vì những dự án riêng lẻ với từng quốc gia, ví dụ như
Sáng kiến Vành đai con đường (BRI) năm 2013, Hợp tác Lan Thương – Mê Công năm
2015.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đó là căng
thẳng biên giới lãnh hải trên biển Đông. Mặc dù, Trung Quốc đã ký bản Tuyên bố về ứng

xử của các bên ở Biển Đông (DOC) từ ngày 4/11/2002, thế nhưng Trung Quốc lại tỏ ra
không hợp tác, vẫn tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo có trang bị cơ sở hạ tầng ở khu vực
Biển Đông, tiếp diễn các hành vi xâm phạm chủ quyền của tàu cá, tàu khai thác thăm dị
dầu khí Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tất cả điều này đang
thách thức nghiêm trọng tới hịa bình và ổn định khu vực cũng như quan hệ ngoại giao
giữa hai nước.
Về quan hệ kinh tế vD thương mại , kể từ năm 2018, Trung Quốc trở thành đối tác
thương mại đầu tiên cán mốc 100 tỷ USD trong lịch sử quan hệ ngoại thương của Việt
Nam, và hiện nay Trung Quốc giữ vị trí là đối tác thương mại lớn nhất và cũng là thị
trường nhập khẩu, nhập siêu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này,
Việt Nam luôn là nước bị thâm hụt thương mại với mức độ nghiêm trọng. Nguyên nhân
được cho là do sản xuất Việt Nam luôn phụ thuộc vào nhập khẩu đầu vào từ Trung Quốc
(29,8%), trong khi đó nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng kim ngạch nhập khẩu của
Trung Quốc. Về lâu dài việc này không chỉ khiến Việt Nam luôn ở nấc thang thấp
10

TIEU LUAN MOI download :


hơn Trung Quốc về mặt công nghệ sản xuất mà còn làm suy giảm động lực nghiên cứu
phát triển (R&D) của doanh nghiệp Việt Nam.
Về đầu tư, trong các quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam tính
đến tháng 11/2020, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với tổng số vốn đầu tư lên tới gần 8,1
tỷ USD, chiếm 30,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; tiếp đến là Hàn Quốc 3,7 tỷ USD,
chiếm 14%. Trung Quốc đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,4 tỷ USD, chiếm
9,1%, Nhật Bản, Đài Loan và Thái Lan xếp ở những vị trí tiếp theo.
2.1.2. Thực trạng ODA của Trung Quốc ở Việt giai đoạn 2000 – 2019
Sau khi bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Trung Quốc tiếp tục hỗ
trợ sự phát triển của Việt Nam bằng cách cung cấp các khoản viện trợ dưới hình thức cho
vay ưu đãi và viện trợ khơng hồn lại.

Về quy mô ODA, theo số liệu của Tổ chức Aiddata (2017), trong giai đoạn 2000 –
2014, Việt Nam đã nhận khoảng 350 triệu USD ODA của Trung Quốc, chiếm 4,3% tổng
viện trợ ODA của Trung Quốc cho khu vực Đông Nam Á. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (2018), trong giai đoạn 2016 - 2017, Trung Quốc trở thành nhà tài trợ lớn thứ 5
của Việt Nam với khoản vay ưu đãi và viện trợ lên tới 281,38 triệu USD. Nhìn chung,
Trung Quốc thường phá bỏ nguyên tắc cho vay ODA theo chuẩn quốc tế, ít quan tâm đến
khả năng trả nợ với các thủ tục rất đơn giản và khơng địi hỏi cải cách kinh tế trong nước.
Về cơ cấu viện trợ, 28,9% vốn ODA của Trung Quốc dành cho Việt Nam trong giai
đoạn 2000 - 2014 là các khoản viện trợ khơng hồn lại, 69,5% là cho vay với lãi suất ưu
đãi và còn lại là các khoản vay không lãi suất/hỗn hợp. Tuy nhiên, viện trợ của Trung
Quốc áp dụng mức lãi suất khá cao xấp xỉ 3%, cộng thêm 0,5% phí quản lý và 0,5% phí
dịch vụ, trong thời gian cho vay ngắn 15 năm và thời gian ân hạn chỉ 5 năm. Dự án Đạm
Ninh Bình là một ví dụ, dự án này được triển khai với nguồn vốn vay ưu đãi lên tới 5.000
tỷ VND từ Ngân hàng EXIMBANK Trung Quốc với lãi suất 4%/năm.
Về lĩnh vực viện trợ, các khoản viện trợ ODA Trung Quốc dành cho Việt Nam tập
trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là năng lượng và công nghiệp, khai khoáng, xây dựng với
tỷ trọng viện trợ lần lượt là 55,27% và 35,57%. Như vậy, chỉ riêng hai lĩnh vực này đã
11

TIEU LUAN MOI download :


chiếm tới 91% tổng ODA của Trung Quốc vào Việt Nam..Khoảng từ năm 2010 trở lại đây,
viện trợ ODA của Trung Quốc mở rộng thêm các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã
hội, ứng phó khẩn cấp, y tế và giáo dục. Đa phần các khoản viện trợ của Trung Quốc trong
những lĩnh vực này đều dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật như Dự án bác sĩ Trung Quốc hỗ
trợ phẫu thuật đục thủy tinh thể cho các bệnh nhân Việt Nam, hỗ trợ chống dịch cúm gia
cầm, hay dự án đào tạo nguồn nhân lực trong khuôn khổ hiệp ước hợp tác kinh tế, khoa
học và kỹ thuật .
Về địa bDn viện trợ, các dự án viện trợ quy mô lớn của Trung Quốc đa phần tập

trung ở các tỉnh phía Bắc của Việt Nam, nhất là các dự án xây dựng, sản xuất và các dự án
giao thông. Chiến lược đầu tư tập trung này bắt nguồn từ lý thuyết cực tăng trưởng, theo đó
sự tập trung và tương đồng vị trí của một tập hợp các dự án đầu tư vào một khu vực địa lý
cụ thể sẽ tạo ra các cụm liên kết với nhau, nuôi dưỡng sự phát triển của thị trường địa
phương, khuếch tán hoạt động kinh tế tại địa phương, tạo ra quá trình kết tụ kinh tế năng
động và giảm tình trạng thất nghiệp.
Về chủ thể cung cấp viện trợ, EXIMBANK và MOFCOM là hai chủ thể cung cấp
chính các khoản tín dụng ưu đãi của Trung Quốc cho Việt Nam. Tuy nhiên, ở một số dự án
đặc thù như trong lĩnh vực y tế , giáo dục hay viện trợ dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật, các
bộ chuyên ngành của Trung Quốc lại là các chủ thể cung ứng viện trợ, ví dụ như Bộ Giáo
dục hay Bộ Y tế Trung Quốc.
Về chất lượng viện trợ, mức độ ràng buộc trong các dự án viện trợ ODA của Trung
Quốc rất cao, thậm chí yêu cầu 100% nhà thầu và trang thiết bị nhập khẩu từ nước sở tại.
Chính vì vậy, tình trạng các nước nhận viện trợ như Việt Nam thường không nhận được
nguồn tài chính hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt mà chỉ được tiếp nhận gián tiếp thông qua
trang thiết bị, máy móc, cơng nghệ từ phía các nhà thầu Trung Quốc do Chính phủ Trung
Quốc rót tiền trực tiếp cho các doanh nghiệp này.
2.2. Đánh giá thực trạng ODA của Trung Quốc ở Việt Nam
2.2.1. Về quy mô viện trợ
Về quy mơ viện trợ, nhìn chung viện trợ ODA của Trung Quốc cho Việt Nam trong
giai đoạn 2000 – 2014 còn khá khiêm tốn (350 triệu USD). Nếu so sánh với các nhà tài
12

TIEU LUAN MOI download :


trợ truyền thống của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Mỹ, thì ODA của Trung
Quốc cho Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ trong các gói viện trợ của ba quốc gia này. Cụ
thể, trong giai đoạn 2000 – 2016, ODA của Nhật Bản cho Việt Nam là 15,05 tỷ USD, Hàn
Quốc đứng ở vị trí thứ hai với 1,5 tỷ USD, tiếp theo đó là Mỹ 994 triệu USD

Về mục đích viện trợ, các dự án ODA của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào lĩnh
vực cung ứng và sản xuất năng lượng ở Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực điện than.
Tương tự, lĩnh vực thu hút ODA Trung Quốc lớn thứ hai là công nghiệp, khai khoáng và
xây dựng với tỷ lệ viện trợ chiếm tới 35,57%, song đa phần đều là các dự án xây dựng nhà
máy phân đạm, hóa chất, xây dựng nhà máy thép... Như vậy, các dự án ODA của Trung
Quốc cho Việt Nam chủ yếu nhằm mục đích cung ứng và sản xuất năng lượng, chỉ có
khoảng 3,4% là cho các mục đích an sinh xã hội
Ngồi ra, trong cơ cấu viện trợ ODA của Trung Quốc, hầu hết các dự án viện trợ
có giá trị lớn của Trung Quốc đều dưới hình thức cho vay ưu đãi lãi suất cao, do vậy viện
trợ của Trung Quốc chỉ giúp phát triển kinh tế trong ngắn hạn, còn trong dài hạn đang làm
gia tăng nguy cơ bị lệ thuộc và rủi ro mắc nợ. Tóm lại, ODA của Trung Quốc cho Việt
Nam chỉ ưu tiên lợi ích kinh tế của Trung Quốc như khai thác tài nguyên thiên nhiên, mở
rộng thị trường xuất khẩu, cho vay lãi suất cao, hơn là theo đuổi các mục tiêu phát triển
như giải quyết các vấn đề an sinh xã hội như đói nghèo, cải thiện mơi trường, chất lượng
cuộc sống, bình đẳng giới…
2.2.2. Về chất lượng viện trợ
Thứ nhất, các dự án ODA Trung Quốc tại Việt Nam thiếu tính minh bạch và độ tin
cậy về mặt dữ liệu và quy trình triển khai dự án. Tháng 3 năm 2018, Trung Quốc đã thành
lập Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Trung Quốc (CIDCA). Mục tiêu chính của CIDCA
là cải thiện sự hợp tác và phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến viện trợ quốc tế. Tuy
nhiên, tính đến nay CIDCA vẫn chưa thực hiện đúng vai trị của mình đối với các dự án
ODA nói chung và các chương trình viện trợ ở Việt Nam nói riêng . Về phía Việt Nam, Bộ
Tài chính đã áp dụng một số chương trình như Chương trình Hỗ trợ Tư vấn và Phân tích
Quản lý tài chính cơng tại Việt Nam (Advisory Assistance Program – Chương trình AAA),
qua đó đã cải thiện đáng kể việc lập kế hoạch ngân sách trong trung và dài
13

TIEU LUAN MOI download :



hạn; hay Chương trình Hiện đại hóa tài chính cơng của EU tại Việt Nam (gọi tắt là Dự án
Hợp phần 2 Chương trình EU-PFMO) để góp phần hỗ trợ khung pháp lý, tổ chức và quy
định cho việc lập kế hoạch và thực hiện ngân sách nhà nước ở cấp trung ương và địa
phương. Mặc dù vậy, những chương trình này chưa đóng góp nhiều cho cơng tác minh
bạch hóa dữ liệu về viện trợ ODA từ Trung Quốc.
Thứ hai, quy trình tuyển chọn, xét duyệt, triển khai và thẩm tra dự án tương đối đơn
giản và nhanh chóng . Chính phủ Trung Quốc sẵn sàng ký hợp đồng mà không kiểm tra
chặt chẽ căn cứ, điều kiện để hình thành hồ sơ dự án, xem tính khả thi, giải ngân tiền mặt.
Trung Quốc cũng không yêu cầu Việt Nam phải chứng minh năng lực tài chính hay kê
khai minh bạch như khi đi vay các tổ chức quốc tế. Điều đó đã và đang làm ảnh hưởng
trực tiếp chất lượng của các nguồn viện trợ, gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực ODA và
tạo kẽ hở cho các hành vi tham nhũng…
Thứ ba, , với điều kiện ràng buộc về đơn vị thực thi dự , hay nói cách khác là điều
kiện chỉ định thầu. Hệ lụy của “điều kiện chỉ định thầu” đó là:
i) Khơng đảm bảo được chất lượng nhà thầu. Một số nhà thầu của Trung Quốc

chưa có kinh nghiệm, coi các dự án ở Việt Nam là cơ hội để thử nghiệm, học hỏi hoặc một
số nhà thầu được lựa chọn không đủ năng lực, khơng phù hợp với tính chất và u cầu của
dự án;
ii) Ràng buộc về trang thiết bị, công nghệ, tiến độ (hầu hết hàng hóa, thiết bị phải

mua sắm từ Trung Quốc). Trong khi, việc điều phối hợp tác kỹ thuật, công nghệ giữa
Trung Quốc và Việt Nam hầu như khơng có, dẫn tới cơng nghệ nhập khẩu từ Trung Quốc
đa phần là công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, thậm chí cơng nghệ phế thải.
iii) Đội chi phí: Chỉ định thầu khiến chi phí thực tế cao hơn nhiều so với đấu thầu

cạnh tranh do kê khống giá, móc ngoặc với nhà thầu phụ, tham nhũng, vận động hành
lang…
Thứ tư, Căn cứ vào lĩnh vực viện trợ của Trung Quốc vào Việt Nam, có thể nhận
định, các dự án ODA của Trung Quốc chưa thực sự phù hợp với những lĩnh vực mà Việt

Nam ưu tiên thu hút viện trợ. Mặc dù có tới 35,57% vốn ODA được sử dụng cho ngành
cơng nghiệp – khai khống và xây dựng, song những dự án này không đầu tư xây dựng
14

TIEU LUAN MOI download :


và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho quốc gia mà chỉ tập trung xây dựng các
nhà máy phân đạm, thép và nhiệt điện. 55,27% vốn ODA cho lĩnh vực năng lượng nhưng
cũng khơng có sự xuất hiện của một dự án năng lượng sạch nào để phù hợp với lĩnh vực
ưu tiên về “bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên”, thay vào đó là xây
dựng các nhà máy điện than gây ô nhiễm môi trường.
2.2.3. Về động cơ viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam
Viện trợ từ Trung Quốc là nguồn lực cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam, song
đằng sau đó cũng là những lợi ích thiết thực đối với Trung Quốc cả về mặt kinh tế, chính
trị và hệ tư tưởng. Đây cũng có thể được coi là những động cơ mà Trung Quốc quyết định
rót vốn ODA cho Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, về động cơ kinh tế, Sau khi trở thành nền kinh tế thế hai thế giới, nhu cầu
tiêu thụ năng lượng khơng ngừng gia tăng,do đó, Trung Quốc ln tìm cách để khai thác
năng lượng và tài nguyên thiên nhiên ở các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam . Bên
cạnh đó, khống sản, Việt Nam cũng là thị trường xuất khẩu nông sản quan trọng của
Trung Quốc và thị trường nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp, công nghệ, máy móc,
nguyên vật liệu đầu vào và hàng hóa tiêu dùng giá rẻ. Vì vậy, viện trợ ODA cho Việt Nam
cũng là cách giúp Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
sang thị trường này.
Thứ hai, về động cơ chính trị, Trung Quốc ln muốn gia tăng tầm ảnh hưởng và
thiết lập mối quan hệ chiến lược ở cấp độ khu vực và thế giới, đặc biệt ở những nước đang
phát triển. Không chỉ Trung Quốc mà nhiều quốc gia viện trợ truyền thống trước đây cũng
đã sử dụng ODA như một công cụ chính trị để lơi kéo sự ủng hộ và sẽ là công cụ để Việt
Nam ngày càng phụ thuộc về kinh tế, hay cịn gọi là “sự lệ thuộc vì nợ” sau đó là lệ thuộc

về chính trị. Thậm chí một số cảnh báo còn đưa ra lo ngại rằng Trung Quốc đang “nỗ lực
biến vốn thành vũ khí” .
Thứ ba, về động cơ hệ tư tưởng, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các dịng viện trợ
nước ngồi của Trung Quốc đang được sử dụng như một công cụ để quốc gia này củng cố
và lan tỏa sức mạnh mềm . Trung Quốc đang triển khai tất cả các cơng cụ ngoại giao phổ
biến (trong đó có ODA) mà các cường quốc phương Tây và Nhật Bản trước đây đã sử
15

TIEU LUAN MOI download :


dụng. Trên thực tế, Trung Quốc trong nhiều năm qua đã tích cực truyền bá các giá trị văn
hóa của mình trên tồn thế giới nhằm gia tăng sức mạnh mềm, trong đó có Việt Nam. Ví
dụ như Trung Quốc đã tiến hành xây dựng Cung hữu nghị Việt Trung (Mỹ Đình) hay sự
xuất hiện của “Phố Tàu” – China Town - những khu vực tập trung lao động và kỹ sư người
Trung Quốc làm việc tại các dự án của 124 Trung Quốc ở Việt Nam như ở xung quanh nhà
máy xi măng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng, ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Tây
Nguyên...
2.3. Về tác động của vốn viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam
2.3.1. Tác động tích cực
ODA của Trung Quốc đã mang lại một số tác động tích cực đối với kinh tế - xã hội của
Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, ODA của Trung Quốc là một nguồn tài chính đáng kể, hỗ trợ tích cực cho
Việt Nam trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Các dự án viện trợ của Trung Quốc đa
phần tập trung ở một khu vực địa lý cụ thể nên đã tạo ra các cụm công nghiệp liên kết với
nhau, nuôi dưỡng sự phát triển của thị trường địa phương, khuếch tán hoạt động kinh tế tại
địa phương, tạo ra quá trình kết tụ kinh tế năng động. Cụ thể, các dự án viện trợ quy mô
lớn của Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Bắc của Việt Nam, do đó đã tạo
được sự liên kết giữa các ngành, liên kết giữa các tỉnh ở miền Bắc.
Thứ hai, các dự án ODA của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cung ứng

và sản xuất năng lượng, đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện. Do đó, ODA của Trung Quốc
đã góp phần vào việc cung cấp nguồn điện ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt của người dân. Bên cạnh đó, đảm bảo nguồn điện, các dự án nhiệt điện
cũng tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Ví dụ, nhà máy nhiệt điện
Cẩm Phả 1 và 2 sau khi được Cơng ty TNHH Cơng trình điện quốc tế Cáp Nhĩ Tân (Trung
Quốc) bàn giao vào ngày 15/09/2011 đã đi vào vận hành ổn định, công suất 600MW, mỗi
năm phát lên lưới điện quốc gia trên 3,68 tỷ kWh điện thương phẩm . Nhà máy Nhiệt điện
Cẩm Phả 1 và 2 cũng tạo một số lượng việc làm lớn, thu nhập tương đối cao (tiền lương
bình quân 9 triệu đồng/người/tháng) và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân địa
phương . Một nhà máy nhiệt điện lớn khác cũng xây bằng vốn ODA
16

TIEU LUAN MOI download :


của Trung Quốc là nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2. Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 có
cơng suất 1.244MW, 125 sản lượng điện trung bình hàng năm đạt khoảng 7,2 tỷ kWh, và
đóng vai trị quan trọng trong đảm bảo điện cho miền Nam, đặc biệt là vào mùa khơ.
Ngồi ra, nhà máy ưu tiên sử dụng lao động địa phương với tỷ lệ lao động của địa phương
chiếm khoảng 56,38% toàn bộ lực lượng lao động của nhà máy. Hàng năm Vĩnh Tân 2
cũng đóng góp, hỗ trợ nguồn kinh phí khá lớn để xây trường, làm đường, xây nhà tình
thương, hỗ trợ các quỹ khuyến học/an sinh… với tổng chi phí 15 tỷ đồng.
2.3.2. Về tác động tiêu cực
Bên cạnh những dự án trọng điểm mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho Việt nam, thì
nhiều dự án ODA của Trung Quốc cũng đang là nảy sinh những hệ lụy nghiêm trọng về
kinh tế - môi trường – xã hội.
Thứ nhất, nhiều dự án ODA của Trung Quốc làm nảy sinh những hệ lụy nghiêm
trọng về mơi trường như ơ nhiễm đất, nước, khơng khí và cả những thiệt hại về người và
của.Chẳng hạn như, Tác động môi trường – xã hội của dự án nhiệt điệt Cao Ngạn (Thái
Nguyên)

Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điệt Cao Ngạn (Thái Nguyên) sử dụng viện trợ ODA
của Trung Quốc là ví dụ. Nhà máy điện Cao Ngạn được xây dựng vào tháng 11 năm 2002
và tháng 2 năm 2006 bắt đầu được vận hành thương mại với tổng số tiền Trung Quốc cho
vay lên tới 85,5 triệu USD, chiếm 85% tổng vốn xây dựng (123,9 triệu USD), 15% là vốn
tự có của Tổng cơng ty cổ phần xây dựng công nghiệp Việt Nam. Đây là một dự án được
xây dựng đúng tiến độ, quy mô lớn và hiệu quả kinh tế cao với công suất 100 MW với sản
lượng hàng năm 600 triệu kWh và góp phần đảm bảo an ninh điện quốc gia. Tuy nhiên, dự
án gây ra những hệ lụy không nhỏ về môi trường – xã hội.
Nhà máy Cao Ngạn tiêu thụ khoảng 500.000 tấn than mỗi năm và hai mỏ than
Khánh Hòa (xã Phúc Hà) và Núi Hồng (xã Yên Lang) hiện là nguồn cung cấp nguyên liệu
chính cho nhà máy. Thải tro của nhà máy điện Cao Ngân lên tới gần 200.000 tấn mỗi năm
và được tập trung tại một bãi thải với tổng diện tích khoảng 126 3,4 ha (chiếm gần 50%
diện tích xã Phúc Hà), cao hàng chục mét cho đến hơn 250m. Những núi tro nhân tạo này
ngày càng mở rộng và nguy cơ sạt lở, vùi lấp nhà người dân xung quanh bất cứ
17

TIEU LUAN MOI download :


lúc nào. Cụ thể, mưa lớn đã gây ra sạt lở đất tại mỏ than Phan Mễ (Thái Nguyên) vào
tháng 4 năm 2012 khiến cho 7 công nhân và 10 ngơi nhà bị chơn vùi trong đống đổ nát.
Ơ nhiễm đất và nước: Xung quanh bãi thải tro của tỉnh Thái Nguyên, hàm lượng

chất độc hại ghi nhận ở mức cảnh báo rất cao do các loại kim loại nặng. Nguồn nước này
chảy vào lưu vực sông Cầu và gây ảnh hưởng đến nước sinh hoạt của người dân. Tuy
nhiên, hiện nay nhà máy vẫn chưa có một quy trình xử lý nước tiêu chuẩn, hoặc cách thực
kiểm soát các chất gây ô nhiễm nguồn nước. Chủ tịch Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim
phát biểu: "Nếu Việt Nam tiến hành lắp đặt 40 GW nhiệt điện than và toàn bộ khu vực
thực thi các kế hoạch nhiệt điện than, tôi nghĩ cuộc sống sẽ kết thúc. Đây sẽ là một thảm
họa cho hành tinh của chúng ta".

Ơ nhiễm khơng khí: Tác động của bụi và tiếng ồn phát sinh trong quá trình sản

xuất, vận chuyển và nghiền các vật liệu như than đá đối với môi trường xung quanh được
đánh giá và sức khỏe của nhân viên trong nhà máy, như cũng như người dân địa phương
xung quanh nhà máy là đáng kể
Thứ hai, bên cạnh những hệ lụy về kỹ thuật, vận hành, môi trường… các hợp đồng
EPC do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận có thể trở thành mối đe dọa đối với an ninh năng
lượng của Việt Nam.
Một trong những đặc trưng của các dự án ODA Trung Quốc ở Việt Nam đó là sự
xuất hiện của hợp đồng EPC - hợp đồng trọn gói, thực hiện dự án theo phương thức chìa
khố trao tay. Các dự án ODA được triển khai theo hình thức hợp đồng EPC sẽ do nhà
thầu Trung Quốc đảm nhận gần như 100% quá trình thực thi dự án từ khâu thiết kế - cung
ứng vật tư, trang thiết bị cho tới triển khai xây dựng. Theo báo cáo Viện nghiên cứu cơ khí
- Bộ Cơng thương (2014), số lượng các dự án năng lượng Trung Quốc làm tổng thầu
ở Việt Nam hiện nay khá lớn, trong đó bao gồm hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite,

3/3 nhà máy tuyển than, 15/20 dự 127 án nhiệt điện, 23/24 nhà máy xi măng đều do Trung
Quốc làm tổng thầu. Theo đó, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã nắm quyền sở hữu một
số dự án điện quan trọng của Việt Nam như Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 và 3, Dự án nhiệt điện
Cao Ngạn, Dự án Nhiệt điện Vũng Áng 2… Trong đó, Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (Bình
Thuận) hiện thuộc sở hữu của Công ty Lưới điện Phương Nam Trung Quốc (chiếm
18

TIEU LUAN MOI download :


55% vốn), Công ty TNHH Điện lực Quốc tế Trung Quốc với 45% cổ phần, trong khi Tổng
công ty Điện lực - Vinacomin chỉ nắm giữ 5%. Dự án nhiệt điện Cao Ngạn do Trung Quốc
cho vay 85% tổng vốn xây dựng. Dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 3 (Bình Thuận), Cơng ty One
Energy cũng rót 55% vốn để kiểm sốt, cịn EVN nắm 29% và Tập đồn Thái Bình Dương

nắm 16% vốn. Các doanh nghiệp Trung Quốc đóng vai trò nhà thầu xây dựng ở hàng loạt
nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3, Nhiệt điện Hải Dương, Nhiệt điện Cẩm Phả, Nhiệt điện
Hải Phòng, Nhiệt điện Vĩnh Tân 2… Mới đây nhất, 3 dự án điện mặt trời Lộc Ninh 1, 2, và
3 đã lựa chọn Tập đoàn Xây dựng Điện lực Trung Quốc (China Power Construction CPC) làm nhà thầu.
Thứ ba, các dự án ODA Trung Quốc thực hiện theo hình thức EPC đang bộc lộ rất
nhiều bất cập liên quan tới tình trạng chậm tiến độ, trục trặc kỹ thuật, đội vốn cao và ưu
tiên sử dụng lao động phổ thơng người Trung Quốc. Trong khi đó, hợp đồng EPC ký kết
thường có lợi cho nhà thầu Trung Quốc và không kèm theo điều khoản về bồi thường thiệt
hại khi kéo dài tiến độ thi công, đội vốn, chất lượng thiết bị, cơng trình khơng tn thủ như
cam kết ban đầu gây ra những thiệt hại kinh tế lớn cho Việt Nam. Điển hình là Dự án
đường sắt Đô thị tuyến Cát Linh – Hà Đông đã bị đội vốn 100%, từ 8,7 nghìn tỷ đồng lên
18 nghìn tỷ đồng và đến nay vẫn chưa vận hành được Dự án sử dụng vốn ODA Trung
Quốc được thực hiện dưới hình thức EPC. Gói thầu EPC được thực hiện bởi Cơng ty Hữu
hạn Tập đồn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc I - công ty chuyên về xây lắp và lần đầu làm
tổng thầu về lĩnh vực đường sắt đô thị. Dù biết rõ năng lực của nhà thầu, nhưng do những
ràng buộc trong hiệp định vay ODA, chủ đầu tư vẫn phải chấp nhận đơn vị này. Dự án này
có tổng mức đầu tư ban đầu đã được Bộ Giao thông vận tải (Bộ GTVT) phê duyệt năm
2008 là 8.770 tỷ VNĐ (tương đương 552,86 triệu USD), trong đó vay Trung Quốc là hơn
400 triệu USD. Năm 2016, dự án được điều chỉnh lên hơn 18.002 tỷ VNĐ (868,04 triệu
USD), tăng 100% lần so với tổng mức đầu tư được duyệt ban đầu, trong đó, phần vốn vay
của Trung Quốc cũng tăng lên con số 13.867 tỷ VNĐ (tương đương trên 669,62 triệu
USD). Mục tiêu ban đầu sẽ hồn thành tồn bộ cơng trình vào tháng 6/2014, và khai thác
chính thức vào ngày 30/6/2015. Tuy nhiên, tính đến tháng 6/2020, dự án đường sắt Cát
Linh - Hà Đông đã kéo dài gần 11 năm, phải lùi tiến độ tới tám lần, chậm
19

TIEU LUAN MOI download :


tiến độ 5 năm so với mục tiêu ban đầu và đội vốn gần gấp đôi. Những lý do dẫn tới việc

chậm tiến độ liên quan tới vướng mắc về mặt bằng, ngừng thi cơng vì xảy ra tai nạn lao
động, phải xác định lại tổng mức đầu tư và đợi nguồn vốn vay, thiếu chứng nhận an toàn
hệ thống của Hội đồng nghiệm thu nhà nước, ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến đội ngũ
chuyên gia tư vấn, giám sát chưa thể thực hiện dự án... Tới thời điểm này, vẫn cịn 1% khối
lượng cơng việc và chưa có thơng tin mới về hạn chót dự án được đưa vào vận hành.
BI. T^nh h^nh giải ngân vốn ODA ở Việt

Nam 3.1 Thực trạng giải ngân
Theo báo cáo của Bộ Tài chính , số vốn ODA được giải ngân trong 8 tháng đầu
năm 2020 là 3.742 tỷ đồng, đạt 21,64% dự toán được giao, cao hơn tỷ lệ giải ngân của
cùng kỳ năm 2019, tuy nhiên, nếu so với kết quả giải ngân vốn đầu tư trong nước hiện là
40% kế hoạch thì tỉ lệ giải ngân ODA thấp hơn đáng kể.Song song với đó, có 9 bộ, ngành
đề nghị trả lại vốn ODA tổng vốn 3.700 tỷ đồng, chiếm 32% dự toán được giao.
Cụ thể, ngay sau nhận được quyết định giao vốn 3.600 tỷ đồng thực hiện 25 dự án
ODA, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nhanh chóng phân bổ vốn để thực hiện
giải ngân. Tuy nhiên, căn cứ vào hiệp định vay, thỏa ước với các nhà tài trợ, kế hoạch vốn
vay 2020 có thể giải ngân đến ngày 31/1/2021 của 25 dự án trên chỉ khoảng 1.830 tỷ đồng.
Do đó Bộ đã đề nghị điều chuyển số vốn hơn 1.800 tỷ đồng kế hoạch vốn nước ngoài đã
giao sang các bộ, ngành và địa phương khác.
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng kế hoạch vốn vay được giao trong năm
là 619 tỷ đồng. Mặc dù đã thực hiện phân bổ 100% kế hoạch vụ được giao cho các dự án
ngay từ đầu năm 2020, song đến 20/8/2020, Bộ mới chỉ giải ngân ở mức rất khiêm tốn là
90 tỷ đồng, tương đương 13% tổng vốn được giao. Trước thực tế này, Bộ xin được hoàn
trả 330 tỷ đồng vốn vay của nước ngoài.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng gặp khơng ít khó khăn trong việc giải ngân
vốn vay ODA. Tổng dự toán đầu năm Bộ được giao là 341 tỷ đồng và vốn chuyển sang từ
năm 2019 là 95 tỷ đồng. Song theo báo cáo của các ban quản lý dự án tại địa phương, tính
đến tháng 8/2020 mới giải ngân được 79 tỷ đồng (trong đó chủ yếu là vốn của năm

20


TIEU LUAN MOI download :


2019 là 61 tỷ đồng và năm 2020 chỉ là 18 tỷ đồng). Với tiến độ giải ngân như hiện nay, bộ
cũng đã có văn bản đề nghị trả lại 87 tỷ đồng vốn được giao năm 2020.
Bên cạnh đó, Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam đề nghị hủy số tiền
300 tỷ đồng/400 tỷ đồng dự kiến bố trí cho Dự án Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội
do Dự án giải ngân quá chậm; Ban quản lý Khu cơng nghệ cao Hịa Lạc đề nghị giảm 50
tỷ đồng vốn nước ngoài đã giao cho Dự án Phát triển hạ tầng Khu công nghệ cao Hòa Lạc
để bổ sung cho các dự án khác cần vốn.
Có thể nói, khi các khoản ODA khơng được sử dụng hiệu quả mà đã đến thời hạn
thanh toán sẽ tạo áp lực cho tài chính ngân sách và nợ công của Việt Nam. Hiện tại, khoản
vay ODA dài nhất của Việt Nam có thời hạn đến năm 2055, bình quân thời gian các khoản
nợ vay là 12,5 năm, có nghĩa là ít nhất 35 năm nữa Việt Nam vẫn phải ít nhiều phụ thuộc
vào nguồn vốn này.Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với áp lực tăng cao của việc trả nợ.
Bình quân ngân sách nhà nước trả nợ ODA khoảng một tỷ USD mỗi năm, thời điểm phải
trả nhiều nhất sẽ vào năm 2022 - 2025… Nâng cao hiệu quả của các khoản vay ODA, bao
gồm cả việc cân nhắc lựa chọn nguồn vốn này, cũng như đàm phán các điều kiện vay trả… đang trở thành đòi hỏi bức thiết hơn bao giờ hết. Về lâu, về dài, một kế hoạch chi tiết
để “tốt nghiệp” ODA cần được tích cực chuẩn bị, xúc tiến
3.2 Nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong giải ngân
Theo phân tích, chậm giải ngân vốn vay ODA xuất phát từ cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan.
Đánh giá từ góc độ khách quan cho thấy, một trong những nguyên nhân chủ yếu
khiến tình hình giải ngân vốn ODA ở các bộ và địa phương chậm là bởi các dự án sử dụng
vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài bị chậm tiến độ do chịu tác động của đại dịch
Covid-19, các chuyên gia nước ngoài, nhà thầu giám sát nước ngồi khơng thể sang để
làm việc. Bên cạnh đó, một số dự án hiện đang phụ thuộc vào nguyên vật liệu, thiết bị
nhập từ nước ngồi trong khi tình hình nhập khẩu gặp nhiều khó khăn.
Tiếp nữa, là do hiện nay tình trạng cơng tác tổ chức thực hiện một số dự án cịn bất

cập, đặc biệt trong cơng tác đấu thầu, đền bù giải phóng mặt bằng. Một số chủ đầu tư, Ban
quản lý dự án còn bị động trong quá trình chuẩn bị, thực hiện dự án và tiếp nhận
21

TIEU LUAN MOI download :


nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi; năng lực cán bộ làm cơng tác quản lý ODA cịn hạn chế
về chun mơn mua sắm, đấu thầu, quản lý tài chính; nhất là về ngoại ngữ nên khả năng
trao đổi, đàm phán trực tiếp với nhà tài trợ cịn khó khăn. Trong đó, các bộ, cơ quan trung
ương và địa phương chưa ưu tiên bố trí đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA,
dẫn đến công tác giải phóng mặt bằng khơng thực hiện được, một số gói thầu đã triển khai
nhưng khơng có mặt bằng thi cơng cơng trình.
Thứ ba, là do vướng mắc trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật mới
ban hành hoặc các chủ trương chính sách mới, buộc các dự án phải có những điều chỉnh,
thay đổi như thay đổi thiết kế dự án, tổng mức và cơ cấu vốn đầu tư,... làm ảnh hưởng đến
tiến độ thực hiện dự án.
Cuối cùng, là do bên cạnh việc thực hiện giải ngân theo kế hoạch vốn năm 2020,
các bộ, ngành, địa phương cịn phải tập trung giải ngân dự tốn đã được giao của năm
2019. Trong 8 tháng đầu năm 2020, các bộ, ngành đã giải ngân phần vốn được kéo dài,
chuyển nguồn của năm 2019 lên tới 2.420 tỷ đồng. Ngoài ra, một số dự án mới được phê
duyệt chưa thể giải ngân, do việc chậm hoàn chứng từ đối với các khoản Chính phủ Việt
Nam đã nhận nợ với nhà tài trợ nước ngoài, thủ tục thanh quyết toán hay thủ tục điều
chỉnh các dự án và thủ tục pháp lý khác; Chậm giải phóng mặt bằng, vướng mắc trong tái
định cư, giải quyết tranh chấp giữa chủ đầu tư và nhà thầu, các vướng mắc trong việc thực
hiện các cơ chế chính sách mới cũng ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân.
3.3 Quyết định cho vay lại vốn của Chính Phủ
Trước đây, vốn ODA sau khi chính phủ vay về thì thường sẽ cấp phát lại cho các
địa phương, các bộ ngành. Tuy nhiên với cách cấp phát vốn ODA như vậy đã tạo ra tâm lý
ỷ lại rất lớn đối với các bộ ngành, các địa phương. Bởi vì khi chính phủ vay về thì trách

nhiệm trả nợ đầu tiên là của chính phủ với những cam kết trả nợ cho các nhà tài trợ. Chính
vì thế mà các địa phương, bộ ngành mang tâm lý rằng đây là vốn ngân sách cấp cho mình
nên chỉ việc phân bổ và sử dụng, nên hầu như việc cấp phát trước đây khơng ràng buộc về
việc hồn trả nợ lại cho chính phủ hoặc ràng buộc rất lỏng lẻo dẫn đến việc sử dụng vốn
không thực sự hiệu quả, khơng có khả năng thu hồi. Với thực trạng như thế thì chính phủ
đã quyết định chuyển sang cho vay lại thay vì cấp phát.
22

TIEU LUAN MOI download :


Quyết định nDy một mặt cũng đem lại những ưu điểm như :
-

Góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng ODA
giải ngân trong GDP bình quân giai đoạn 2011-2017 đạt 2,95%, trong đó, ODA cho
vay lại giải ngân bằng khoảng 0,35% GDP. Nguồn vốn ODA cho vay lại chủ yếu
được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, cung ứng các khoản hỗ trợ kỹ
thuật, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường…

-

Giảm tâm lý ỷ lại trong việc sử dụng vốn ngân sách của chính quyền địa phương,
bộ ngành

-

Ngồi ra, cũng góp phần chia sẻ rủi ro giữa NSNN và cơ quan cho vay lại

Một mặt, chính sách nDy cũng tồn tại những nhược điểm, đó lD:

-

Vướng mắc trong thực hiện thủ tục cho vay lại. Hiện nay, cịn 26 hợp đồng chưa
hồn tất thủ tục ký hợp đồng cho vay lại, có 12 hợp đồng Bộ Tài chính đã hồn
thành thủ tục gửi các địa phương; 8 hợp đồng các địa phương đang hoàn thiện hồ
sơ; 6 trường hợp địa phương chưa gửi hồ sơ để thẩm định ký hợp đồng vay lại...

-

Phát sinh một số dự án cho vay lại quá hạn, không trả được nợ phải chuyển thành
nợ trực tiếp của Chính phủ. Nhiều khoản vay do VDB thực hiện chưa đem lại hiệu
quả cao; Tình trạng nợ xấu đã xuất hiên” ở một số chương trình, dự án.

-

Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay lại nguồn vốn ODA, cũng như
hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn ODA vay lại chưa được thiết lập đầy đủ,
nên trong quá trình thực hiện vẫn khó đánh giá…

IV. GIẢI PHÁP CHUNG
Để khắc phục những thách thức nói trên, và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
vốn ODA của Trung Quốc, đồng thời hạn chế các gánh nặng tài chính khổng lồ do việc
vay vốn từ Trung Quốc, Việt Nam cần tập trung cải thiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, dù trong bối cảnh khát vốn đầu tư nhưng Việt Nam cũng cần phải tôn
trọng và đặt lên hàng đầu những quy tắc liên quan tới việc tiếp nhận viện trợ - “đảm bảo

23

TIEU LUAN MOI download :



hiệu quả kinh tế và năng lực trả nợ” đối với các khoản viện trợ ODA nước ngồi nói chung
và ODA từ Trung Quốc nói riêng.
Về hiệu quả kinh tế của dự án, Việt Nam cần đầu tư đúng trọng điểm, đúng định
hướng (lĩnh vực tiếp nhận vốn phù hợp, dự án đem lại tác động tích cực đối với phát triển
kinh tế - xã hội), tránh tình trạng “vận động hành lang ODA” để được triển khai các dự án
không thực sự cần thiết hoặc buông lỏng công tác giám sát, kiểm tra trong triển khai thực
hiện dự án, dẫn đến những “dự án ODA đắt đỏ”, lãng phí nguồn lực, ít phát huy tác dụng
trong thúc đẩy tăng trưởng. Việt Nam rất có thể rơi vào bẫy "ODA và vay ưu đãi" khi lãi
suất và các khoản phí cộng lại thì gần bằng mức lãi suất vay thương mại trên thị trường
vốn trong nước. Ngoài ra, rủi ro do tác động bất lợi của biến động tỷ giá cũng có thể làm
tăng nghĩa vụ trả nợ và tăng nợ cơng. Trong khi đó, năng lực hấp thụ viện trợ nước ngoài
của quốc gia, ngành, địa phương và những dự án cụ thể còn hạn chế. Nhiều dự án ODA
của Trung Quốc phải gia hạn, kéo dài thời gian thực hiện, chậm phát huy hiệu quả do tư
tưởng “của cho không”. Việt Nam cần xác định và nhận thức rõ quan điểm về ODA theo
hướng đây chỉ nguồn vốn bổ sung có tính chất là “chất xúc tác cho phát triển”, do đó
khơng nên lệ thuộc mà chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn nội sinh.
Về năng lực trả nợ, trong điều kiện nợ công của Việt Nam đang ở mức cao như
hiện nay, Việt Nam cần có kế hoạch trong việc sắp xếp mức độ ưu tiên của các dự135 án,
đảm bảo thực hiện nguyên tắc “ODA chỉ dành cho đầu tư phát triển”, tập trung đầu tư vào
các dự án cơ sở hạ tầng, tránh việc trở thành con nợ chung thân của Trung Quốc với các
điều khoản vay nặng nề, tránh tình trạng vay rẻ nhưng trả lãi đắt, đặc biệt là các khoản vay
Trung Quốc thường không hề rẻ. Việc phê duyệt và giao danh mục, phân bổ cho từng dự
án cần tuân thủ đúng quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước, không
chuyển nguồn vốn này thành vốn cấp phát cho các mục tiêu khác. Các dự án ODA được
lựa chọn phải là dự án thật sự cần thiết và ngân sách trong nước không huy động được.
Thứ hai, chú trọng tới chất lượng các dự án ODA. Với động thái Trung Quốc dành
được hầu hết các dự án trọng điểm làm tổng thầu EPC, một lần nữa cho thấy vấn đề an
tồn, chất lượng các cơng trình trọng điểm của Việt Nam cần được đặt ra cấp thiết. Trong
24


TIEU LUAN MOI download :


×