Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.65 KB, 72 trang )

Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tín dụng được coi là một trong rất nhiều điều kiện cần thiết nhằm phân bổ
nguồn lực cho phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng được xem là sự tập
trung huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để đầu tư phát triển kinh tế, tạo điều kiện
tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là đòn bẩy kinh tế kích thích các
ngành kinh tế mũi nhọn phát triển cũng như mở rộng thương mại dịch vụ ở cả thành
thị và nông thôn. Với vai trò to lớn như vậy, chất lượng tín dụng luôn là mối quan
tâm hàng đầu của Nhà nước, các doanh nghiệp và đặc biệt là bản thân các ngân hàng
thương mại, định chế tài chính chủ yếu cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Cải thiện
chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo hiệu quả kinh doanh cũng như mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến
động phức tạp, cộng với những dự đoán về mức suy thoái toàn cầu trong các năm
tiếp theo, Việt Nam lo ngại chất lượng tín dụng của các ngân hàng sẽ giảm sút. Trước
bối cảnh đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín không tránh khỏi
những ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế, đã thể hiện nhiều điểm bất cập trong hoạt động
tín dụng, khiến cho chất lượng tín dụng của ngân hàng này có chiều hướng đi xuống,
tỷ lệ nợ xấu tăng, thu nhập từ tín dụng giảm sút,...
Vì lý do trên, đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín” được lựa chọn bới tính thực tiễn và cấp thiết của nó
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa lại cơ sở lý thuyết về vấn đề chất lượng tín dụng trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng.
- Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng và đưa ra giải pháp nâng cao tại một
ngân hàng TMCP ở Việt Nam.
1
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín
giai đoạn 2006-2008.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê, so sánh, dự báo, phân tích tổng hợp, phân tích kinh tế,
hệ thống hóa lý luận,...
5. Kết cấu của Chuyên đề:
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được
chia làm ba chương:
Chương 1 . Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM
Chương 2 . Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín
Chương 3 . Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Sài Gòn Thương Tín
2
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là “quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc
hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo một thời gian nhất định giữa một bên là ngân hàng
- một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các đơn vị
kinh tế, các tổ chức xã hội, và dân cư trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng
vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay ”.
Ra đời từ thế kỷ XVI, tín dụng được xem là hoạt động truyền thống chủ
yếu và quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Thống kê cho thấy tỷ
trọng các khoản cho vay chiếm tới 60% tài sản của ngân hàng và đem lại 55 -

70% lợi nhuận cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ
cho vay tập chung qua Ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho
các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng Ngân hàng không những chỉ đáp ứng
nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá
nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới
kỹ thuật công nghệ sản xuất. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn đáp ứng một
phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như vậy, tín dụng Ngân hàng là
hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu
về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời.
1.1.2. Các loại hình tín dụng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của Ngân hàng Thương mại mà có cách phân loại tín
dụng như sau:
3
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn
Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành các loại sau đây:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: có thời gian từ 1 năm đến 5 năm (có nơi quy định
là 7 năm).
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm trở nên (có nơi quy định là 7
năm).
Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày,
tháng, năm. Hay thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc
đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi
cuối cùng phải thu về.
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp
để bổ sung vào tài sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng quay
trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy trong một năm doanh nghiệp có thể

hoàn trả được số tiền vay ở Ngân hàng.
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một
số cây trồng vật nuôi ... các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn
vốn từ 1 năm đến 5 năm.
Ngược lại, những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô
như: máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường... có nhu cầu
nguồn vốn từ 5 năm đến 10 năm có khi tới 20 năm.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự
án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh
nghiệp khó có thể tính được hết khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy mức
độ rủi ro của các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với Ngân hàng sẽ tăng
nên. Điều này một phần lý giải tại sao lãi suất các khoản cho vay dài hạn
4
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
thường cao hơn các khoản các khoản cho vay ngắn hạn.
Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân
hàng Thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh
hưởng trực tiếp đến tính an toàn và sinh lợi của một Ngân hàng Thương mại.
1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức cho vay
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu là việc Ngân hàng Thương mại ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần
thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
Về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải là nhà cho vay với chủ sở
hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên
đối với Ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một
khoản tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất ấn định trước được coi
như là hoạt động tín dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu
tư của Ngân hàng hơn là một hoạt động tín dụng.
- Cho vay được hiểu là việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng

với sự cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời
gian xác định với mức lãi suất cam kết. Cho vay được gọi là một
trong các nghiệp truyền thống của Ngân hàng Thương mại, nó được
hình thành ngay từ buổi sơ khai của các Ngân hàng, và được đánh giá
là hoạt động sinh lời cao nhất cho các Ngân hàng Thương mại.
- Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
thay khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả
năng trả nợ. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song Ngân hàng vẫn thu
được lợi từ khách hàng nhờ uy tín của mình. Nghiệp vụ này được đưa
vào tài khoản ngoại bảng của Ngân hàng. Tuy nhiên nếu có nghiệp vụ
phát sinh tức là Ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
5
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
- Cho thuê đó là việc Ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho
khách hàng thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó
khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng. Đây là hoạt động
khá mới mẻ với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá
cao, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về
công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có
chuyên môn về nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về
công nghệ.
1.1.2.3. Căn cứ vào tài sản bảo đảm
Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây:
- Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc
dùng tài sản đảm bảo thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với Ngân hàng trong trường hợp không trả được nợ. Trong
trường hợp này khi khách hàng không trả được nợ, hoặc vì sử dụng
sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không thanh toán được thì Ngân
hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dụng đảm bảo được

áp dụng đối với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới
hay những khách hàng có tình hình tài chính không tốt...
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình tín dụng mà khách
hàng có nhu cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần
tài sản đảm bảo. Loại tín dụng này thường được cấp cho các khách
hàng có uy tín cao, những khách hàng có mối quan hệ tốt và lâu dàI
đối với Ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh, có mối quan
hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay thực
hiên theo chỉ thị của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không cần tài
sản đảm bảo.
6
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
1.1.2.4. Căn cứ vào mức độ rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi
ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao
gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân lại này
giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín
dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,..
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn,...
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ỳ trong việc trả nợ,...
Cũng có thể phân loại hình thức tín dụng theo những tiêu chí khác như
theo ngành kinh tế ( tín dụng nông nghiệp, tín dụng công nghiệp,...) hay theo

đối tượng tín dụng như tài sản lưu động, tài sản cố định,...hoặc theo mục đích
ví dụ như tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng.
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng và chuyên môn hóa trong
cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở
rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có
lợi thế. Ví dụ, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam bên
cạnh việc đa dạng hóa các ngành tài trợ, vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực
7
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi
rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất,
bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1. Đối với ngân hàng
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính với hoạt động
chuyển tiết kiệm thành đầu tư chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng. Tín
dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng từ
các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ
lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết
kiệm để cung cấp cho các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu bổ sung vốn,
góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhờ hoạt động tín dụng, vị thế của ngân hàng đối với các tổ chức, cá nhân
trong xã hội ngày càng được nâng cao, trở thành quỹ tập trung tích tụ và phân
bổ vốn lớn nhất trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động,
Ngân hàng thu được lợi nhuận từ các khoản vay,cho thuê là doanh thu chính
duy trì và phát triển hoạt động của chính Ngân hàng (chiếm từ 55-70% lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh)
1.1.3.2. Đối với khách hàng
Khách hàng của hoạt động tín dụng ngân hàng là các cá nhân và tổ chức
tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu

nhập, do đó họ là những người cần bổ sung vốn. Đối với những đối tượng
này, tín dụng ngân hàng là cách tốt nhất để họ tiếp cận được với nguồn vốn
một cách nhanh chóng, hiệu quả, kịp thời với chi phí hợp lý. Quan hệ tín dụng
gián tiếp (thông qua ngân hàng là trung gian tài chính) khắc phục được những
nhược điểm của tín dụng trực tiếp như sự không phù hợp về quy mô khoản
tiền giữa người cho vay và người đi vay, khoảng cách về địa lý, thời gian và
8
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
cả chi phí giao dịch. Như vậy, tín dụng ngân hàng có thể làm giảm phí tổn tín
dụng cho người đầu tư, đồng nghĩa với việc tăng thu nhập cho người đầu tư từ
đó mà khuyến khích đầu tư.
Có thể nói hiện nay, các khoản tín dụng từ ngân hàng được xem là
những khoản vay an toàn, chất lượng, chi phí sử dụng vốn hợp lý. Cùng với
sự đa dạng hóa các hình thức cho vay, tín dụng ngân hàng không chỉ mang lại
cho doanh nghiệp và cá nhân những cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh
mang lại lợi nhuận mà còn đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho mọi mặt đời sống của
xã hội thông qua những sản phẩm cho vay tiêu dùng cá nhân.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình
vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã
hội và góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Tín dụng Ngân
hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong đó tỷ
trọng ngành dịch vụ ngày càng cao. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh
và dịch vụ tái mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu từ tiền và kết
thúc bằng tiền. Để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải
tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị
trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có nhiều vốn và phải kịp
thời. Tín dụng Ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó.
Tín dụng góp phần làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển ngày một
cao. Vốn Ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với

điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Do đó, các nhà
doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng
nhanh vòng quay của vốn, trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Thực hiện việc
này trong nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, vì thế
làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
9
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ
giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của
một quốc gia luôn phải gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Sự
hợp tác hoá bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu
vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông
dụng và phổ biến nhất giữa các nước. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho
việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh
tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng có đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư
cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ
thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Tuy vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao
nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu
hồi vốn có đúng hạn không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động
tín dụng của Ngân hàng. Bởi vì nếu đầu tư tín dụng không có hiệu quả, không
thu hồi được nợ thì Ngân hàng sẽ lỗ và đi đến phá sản. Do vậy, mỗi Ngân
hàng trong môi trường cạnh tranh phải có chiến lược mang tính dài hạn trong
kinh doanh, sử dụng mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn
tiềm tàng với chi phí rẻ trong nền kinh tế để kinh doanh tín dụng có hiệu quả.
Tín dụng ngân hàng góp phần vào sự phát triển của các thị trường tài
chính khác như thị trường vàng, chứng khoán, bất động sản...Hiện nay, cùng
với sự ra đời và phát triển của nhiều loại hình thị trường tài chính như thị
trường vàng, thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại đã và đang

triển khai những dịch vụ như cho vay đầu tư chứng khoán, đầu tư vàng...với
điều kiện cho vay
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối
với Ngân hàng mà còn với cả xã hội. Tuy nhiên để tín dụng Ngân hàng phát
10
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý Ngân hàng cũng như các cơ
quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt
chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và người cho vay.
1.2. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
trên thị trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá
cả và chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là : "Mức độ đáp ứng yêu cầu vốn
vay của khách hàng (cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các
điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện đặc thù của bản thân ngân hàng, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng “
Chất lượng tín dụng được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Một khoản tín dụng có chất lượng tốt phải phù
hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất kỳ, hạn nợ hợp lý, thủ
tục đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc
tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng
trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết
tốt các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trởng kinh tế.
- Đối với Ngân hàng thương mại: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng
phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh
tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.

Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua
các chỉ tiêu tính toán được như tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn...) vừa trừu tượng
(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). Chất
11
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý,
trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài).
Khuynh hướng phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị tưrờng
cũng như môi trường pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lợng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện
sức mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng tốt được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được
nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín
dụng, chi phí về tổng thể lãi suất, chi phí nghiệp vụ. Để có chất lượng tín
dụng tốt cần có sự tổ chức và quản lý đồng bộ trong một Ngân hàng, vì điều
đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng, mà còn nhằm cải tiến tính
hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh nhằm thoả mãn ngày càng
đầy đủ yêu cầu của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng nh bên
ngoài. Để làm được điều đó mỗi thành viên trong một tổ chức Ngân hàng phải
hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất lượng.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một khái niệm rộng lớn. Để có được
chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín
dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói
một cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong
hoạt động tín dụng.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế
Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ tín dụng cho ta thấy vai trò
quan trọng của nó trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá ngày

càng phát triển. Cùng với sự sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngày
càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng
12
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó, nâng cao chất lượng tín
dụng là vấn đề ngày càng được quan tâm vì:
- Nâng cao chất lượng tín dụng để đa hoạt động tín dụng thích nghi với
điều kiện kinh tế thị trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường.
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức
năng trung gian thanh toán, vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng
vòng quay vốn tín dụng. Nó tạo điều kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng
trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân là cầu nối giữa tiết kiệm và
đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng vòng quay vốn, huy
động tới mức tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội để phục vụ quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa
trong lưu thông. Nó góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình đầu tư vốn
phát huy tác dụng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại
vào hoạt động Ngân hàng theo xu hướng của thế giới, phương thức sản xuất
áp dụng những thành tựu của những nền công nghệ cao như công nghệ sinh
học, thông tin, vật liệu, năng lượng mới để nhanh chóng nâng cao chất lượng
tín dụng thúc đẩy sản xuất ở trong nước và hội nhập với hệ thống tài chính
tiền tệ quốc gia.
- Nâng cao chất lượng tín dụng để có khả năng hợp tác cạnh tranh. Khi
sản xuất cùng phát triển, nhu cầu vốn để phục vụ phát triển kinh tế xã hội là
rất lớn mà mỗi Ngân hàng riêng lẻ không thể đáp ứng được, đòi hỏi phải có
sự hợp tác giữa các Ngân hàng trong việc tài trợ cho khách hàng (đồng tài trợ

hay tín dụng hợp vốn).
13
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
Tín dụng là một trong những công cụ để thực hiện các chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực.
Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm
bảo phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả nước, ổn định và
phát triển nền kinh tế.
Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội. Để có chất l-
ượng tín dụng, ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM, đòi hỏi nền kinh tế
phải ổn định và phải có một cơ chế, chính sách phù hợp, sự kết hợp nhịp
nhàng có hiệu quả giữa các cấp, các ngành tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động tín dụng.
1.2.2.2. Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của
NHTM
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM
do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút
thêm nhiều khách hàng thông qua các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra
một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch
vụ Ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí
quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay. Từ đó cải
thiện tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho Ngân hàng trong
quá trình cạnh tranh.
Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của Ngân hàng,
bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng trung
thành và những khoản lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư.
Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của Ngân hàng, điều đó
cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động Ngân
hàng.

14
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
Với những ưu thế trên, việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng của
NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của
NHTM. Cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn phải được cải tiến.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng
• Hiệu suất sử dụng vốn
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = ——————— * 100%
Vốn huy động
Chỉ tiêu sử dụng vốn cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng. Chỉ tiêu này cho thấy Ngân hàng có thể sử dụng nguồn
vốn trung- dài hạn và một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung- dài
hạn. Hiệu suất sử dụng vốn cao thì chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng một cách
hiệu quả nguồn vốn huy động được. Ngược lại, hiệu suất sử dụng vốn thấp
cho thấy ngân hàng chưa tận dụng được hết nguồn lực huy động, lãng phí chi
phí vốn bỏ ra.
• Chỉ tiêu nợ qúa hạn
Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH = —————————————— * 100%
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho thấy trong 100% dư nợ tín dụng thì có bao nhiêu % là
nợ quá hạn.
Thể hiện tỷ lệ nợ không thanh toán đúng hạn trên tổng dư nợ. Các
Ngân hàng có chỉ số này thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao. Ở các nước
có nền tài chính phát triển người ta quy định các Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá
hạn trên tổng dư nợ ≤ 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại
nếu vượt quá 5% thì có dấu hiệu xấu, hoạt động của Ngân hàng đó không an
15

Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
toàn và có nguy cơ rủi ro cao.
• Chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận từ tín dụng
Chỉ tiêu lợi nhuận = ———————————————— * 100%
Tổng dư nợ

Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả các khoản tín dụng
bởi xét cho cùng mục đích của NHTM là lợi nhuận, hay ít nhất cũng thu đủ để
bù đắp chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Chỉ tiêu đó càng
lớn thì càng có lợi cho Ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh chất lượng tín
dụng tốt. Đặc biệt với những Ngân hàng chưa phát triển các dịch vụ thì hoạt
động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng. Ngược lại chỉ tiêu này
thấp cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa cao và nguồn thu từ
hoạt động tín dụng cũng thấp.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Doanh số thu nợ tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng = ———————————————
Dư nợ bình quân

Vòng quay vốn tín dụng là một chỉ tiêu thường được các NHTM tính
toán hàng năm để đánh giá khả năng quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín
dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Hệ số này
16
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
ngày càng tăng phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng càng
tốt, có tình hình tài chính vững chắc, đây là cơ sở để khách hàng thực hiện
những cam kết trên hợp đồng tín dụng.

Về phía Ngân hàng vòng quay của vốn tín dụng thể hiện khả năng tổ
chức quản lý vốn tín dụng, chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu
của khách hàng giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích : Nền kinh tế, khách hàng và
Ngân hàng.
Để nhận xét chính xác tình hình chất lượng tín dụng, các tiêu thức tính
toán cần phải đồng nhất, vì vậy vòng quay vốn tín dụng phải tính cho từng
loại cho vay với thời hạn cho vay cụ thể (ví dụ tính riêng cho vay ngắn hạn,
cho vay dài hạn trong đó vay ngắn hạn tính riêng theo từng thời hạn 6 tháng,
9 tháng...) bởi vậy để có kết luận chính xác, cần phải tiến hành công nghệ hoá
để giảm bớt tính phức tạp của việc tính toán.
Kỳ luân chuyển vốn tín dụng nhanh nhiều thể hiện chất lượng tín dụng
tốt, tổng số dư nợ trong thời kỳ lớn. Ngược lại thể hiện chất lượng tín dụng
không tốt, thu nợ trong kỳ kém, vốn tín dụng bị đóng băng.
Ngoài ra còn có thể áp dụng một số chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng
tín dụng như: Dư nợ cho vay/ Tổng tài sản , Hoặc chỉ tiêu thu nhập từ tín
dụng/Tổng thu nhập hoạt động
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu định tính
Để đánh giá chất lượng tín dụng, đứng trên giác độ là một nhà Ngân
hàng chúng ta phải xem xét cả những chỉ tiêu về mặt định tính và mặt định
lượng. Về mặt định tính, các chỉ tiêu được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
- Chất lượng tín dụng được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng,
kịp thời, an toàn, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh
doanh của khách hàng.
17
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
- Những Ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, cơ sở vật chất trang
thiết bị tốt, đồng thời Ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn,
đa dạng hoá và không ngừng ứng dụng các dịch vụ Ngân hàng mới. Ngân
hàng có tổng nguồn vốn huy động lớn, ổn định, có lượng khách hàng vay

đông đảo chứng tỏ Ngân hàng có uy tín.
- Chỉ tiêu định tính được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế quốc dân, các dự án vay vốn sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế
cao. Không những thế chất lượng tín dụng còn được thể hiện ở tình trạng
xoá đói giảm nghèo, sự lành mạnh của nền kinh tế, sự an toàn của hệ thống
Ngân hàng.
- Ngoài ra chất lượng tín dụng còn được xem xét thông qua tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng, tình hình khai thác tiềm năng
của Ngân hàng trên địa bàn hoạt động.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.3.1. Những nhân tố khách quan
1.3.1.1. Từ phía khách hàng
• Tiềm lực tài chính của khách hàng: Thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn
tự có, hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi hàng năm...
Có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp vay vốn sẽ dễ dàng hơn
trong việc thoả thuận với ngân hàng về các khoản vay và dịch vụ tài
chính khác cũng như uy tín của doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân
hàng
• Triển vọng kinh doanh: Thông thường khi doanh nghiệp đưa vốn của
ngân hàng vào kinh doanh, một doanh nghiệp đang trong tình trạng
thị phần của mình bị thu hẹp, nhà cung cấp không ổn định, hoạt động
kinh doanh gặp nhiều khó khăn thì tất nhiên khả năng hoàn trả vốn tín
18
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
dụng cho ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Ngược lại một triển
vọng kinh doanh sáng sủa đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ mạnh
dạn trong việc tài trợ cho doanh nghiệp các nhu cầu về vốn do ngân
hàng có thể xác định được các khoản tín dụng cấp cho khách hàng là
có chất lượng hay không.
• Mức độ bảo đảm tín dụng: Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương

mại luôn đề cập đến vấn đề tài sản đảm bảo cho khoản vay đặc biệt là
đối với các khoản tín dụng trung dài hạn.
Xét trên góc độ tài sản cầm cố thế chấp: ngân hàng sẽ cho vay theo một
tỷ lệ phần trăm nhất định trên số tài sản cầm cố thế chấp. Loại trừ sự vi phạm
đạo đức kinh doanh, nếu doanh nghiệp có đủ tài sản để thế đảm bảo cho các
khoản vay thì khoản cho vay này có thể đợc xem là ít rủi ro, từ đó chất lượng
khoản cho vay này cũng được đảm bảo.
Xét trên góc độ bảo lãnh: Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có
uy tín, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác của mình có thể nhận đ-
ược sự bảo lãnh để vay vốn ngân hàng. Nếu bên bảo lãnh thường xuyên đảm
bảo được năng lực tài chính và năng lực pháp lý tham gia vào hoạt động kinh
doanh thì chất lượng cho vay có thể được đảm bảo.
• Đạo đức kinh doanh: nếu khách hàng trung thực sử dụng vốn vay
đúng mục đích thì rủi ro xảy ra đối với ngân hàng sẽ giảm đi. Trong
thời gian qua một tỷ lệ rủi ro tín dụng tương đối cao xuất phát từ nguyên
nhân sử dụng vốn sai mục đích. Đặc biệt một số doanh nghiệp tư nhân
làm ăn theo kiều lừa đảo khiến cho các ngân hàng không dám cho vay
nhiều đối với thành phần kinh tế này.
• Năng lực quản lý và trình độ của doanh nghiệp vay vốn: Xem xét
triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp cần xuất phát từ yếu tố con
ngời. Thiếu năng động trong kinh doanh, không kịp thay đổi chiến lư-
19
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
ợc khi môi trường kinh doanh thay đổi, đội ngũ nhân viên không có
trình độ, thiếu kỷ luật... sẽ làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng,
chất lượng khoản vay không được đảm bảo.
1.3.1.2. Từ phía môi trường
• Môi trường kinh tế
Các điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ có ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng đặc biệt là tín dụng trung dài hạn. Chẳng hạn trong một nền kinh tế

phát triển quá nóng, Chính phủ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững
đề ra một số biện pháp nhằm hạn chế đầu tư. Định hướng này của chính phủ
sẽ tác động đến hệ thông ngân hàng thông qua chính sách tiền tệ. Các ngân
hàng sẽ phải thắt chặt chính sách tín dụng, các khoản tài trợ cho nền kinh tế
sẽ được xem xét một cách kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định đầu tư , từ đó
khả năng xảy ra rủi ro cho ngân hàng sẽ ít hơn. Hơn nữa để đáp ứng nhu cầu
tín dụng cho một nền kinh tế đang phát triển, đòi hỏi bản thân ngân hàng
cũng phải đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Sự đổi mới này diễn ra ở
tất cả các khâu bao gồm công tác tổ chức, trang thiết bị, trình độ nhân sự...
chất lượng tín dụng do đó cũng được nâng lên.
Giới hạn của mở rộng qui mô tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng. Nếu mở rộng tín dụng quá giới hạn cho phép sẽ làm cho giá cả tăng
quá mức, xảy ra lạm phát tốc độ cao, các NHTM sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng
tiền mất giá, chất lượng tín dụng bị giảm thấp. Ngoài ra, chính sách kinh tế
của nhà nước điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành,
một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng
tới chất lượng tín dụng.
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng.
Trong thời kỳ đình trệ sản xuất - kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng
gặp nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu vốn tín dụng giảm trong
20
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
thời kỳ này và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng
có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ hưng
thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng rủi ro tín dụng có ít đi, nhưng cũng không
loại trừ trường hợp do chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích
trữ, làm cho nhu cầu vốn tín dụng lên quá cao và có nhiều khoản tín dụng đư-
ợc thực hiện. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát
triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch nói trên dẫn đến suy thoái và
khủng hoảng kinh tế.

Chính sách lãi suất cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân
hàng. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất luôn biến động. Những năm gần
đây, để khống chế tình hình lạm phát, Chính phủ đã liên tục điều chỉnh mức
lãi suất cơ bản. Mức lãi suất được điều chỉnh tăng trong những tháng đầu năm
2008 khiến cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp giảm sút.
Việc giảm lãi suất vào cuối năm 2008 có thể khiến cho chênh lệch đầu ra và
đầu vào tăng dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn chi phí sử dụng vốn không bù
đắp nổi. Đồng thời mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với lợi nhuận của
các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Lợi tức Ngân hàng
thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay Ngân hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao
hơn mức lợi nhuận các doanh nghiệp vay vốn thu được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng, ảnh
hưởng tới quá trình sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và tình hình phát
triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung (trừ các doanh nghiệp có lợi nhuận
siêu ngạch hoặc lợi nhuận độc quyền) hoạt động tín dụng này không còn là
đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị
ảnh hưởng.
• Môi trường chính trị - xã hội
21
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
Môi trường chính trị xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan
trọng trong việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
đầu t dài hạn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh. Một môi trường chính
trị - xã hội ổn định sẽ là cơ sở rất tốt cho hoạt động tín dụng trung dài hạn
của ngân hàng, vì chỉ khi có nhu cầu đầu tư dài hạn trong nền kinh tế mới
xuất hiện nhu cầu vay vốn trung dài hạn ngân hàng. Hơn nữa sự mất ổn
định về chính trị - xã hội sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các
doanh nghiệp và nếu doanh nghiệp này đang vay vốn ngân hàng thì rõ
ràng việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Chất lượng

tín dụng đặc biệt là trung dài hạn của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.
• Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý không chặt chẽ hoặc thiếu chặt chẽ hay thay đổi
cũng gây ra ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Môi tr-
ường pháp lý ở Việt Nam ta còn đang là một vấn đề gây tranh cãi. Ngay
trong lĩnh vực ngân hàng, hiện nay không có một cơ quan nào chứng thực
về tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản thế chấp để khi
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ có sơ sở pháp lý để phát mại; việc thế chấp
đất của thành phần kinh tế quốc doanh phải có giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhưng phần lớn là đi thuê của nhà nước; các chính sách thay đổi
trong quá trình chuyển đổi cơ chế như việc sắp xếp lại các doanh nghiệp
nhà nước không đồng bộ với việc giải quyết các khoản nợ ngân hàng cũng
như làm cho hoạt động thu hồi vốn kinh doanh của các ngân hàng cũng bị
ảnh hưởng; các chính sách thường hay thay đổi là một bất lợi lớn vì các
doanh nghiệp không dự đoán được cơ hội kinh doanh nên không thực hiện
được các dự án, hoặc việc thực hiện các dự án không diễn ra theo đúng kế
hoạch ảnh hưởng đến quá trình thu hồi nợ của ngân hàng.
Bên cạnh các yếu tố trên còn một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến
22
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
chất lượng tín dụng của ngân hàng chẳng hạn môi trường tự nhiên: thiên
tai làm cho hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ thậm chí phá sản dẫn
tới không trả nợ được cho ngân hàng. Tuy nhiên đây là một yếu tố bất khả
kháng, trong trường hợp này các ngân hàng vẫn có thể tiếp tục tài trợ cho
khách hàng để tiếp tục kinh doanh từ đó có thể thu hồi được cả nợ cũ lẫn
nợ mới.
1.3.2. Những nhân tố chủ quan
• Chính sách tín dụng:
Với chính sách tín dụng do ngân hàng nhà nước ban hành và các ngân
hàng thương mại dựa vào đó để đề ra các chính sách cho phù hợp với ngân

hàng của mình. Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, chính sách tín
dụng là văn bản thể hiện chiến lược và đường lối của ngân hàng thương mại
trong việc thực thi các giao dịch cho vay đơn lẻ cũng như chiến lược cho vay
trong từng thời kỳ. Trong đó có quy trình về nghiệp vụ cho vay chuẩn, trình
tự các bước tiến hành trong quá trình xét duyệt cho vay, thu nợ, quy định về
tài sản đảm bảo, trích lập dự phòng nhằm đảm bảo cho các khoản vay, tạo ra
các khoản vay có chất lượng tốt.
• Chất lượng nhân sự:
Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong công việc.
Hoạt động ngân hàng càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày
càng cao. Để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì cán bộ tín dụng phải tiến
hành thẩm định dự án. Nếu trình độ hạn chế do không được đào tạo chính
quy, chuyên sâu hoặc thiếu kinh nghiệm sẽ không đánh giá được tính khả
thi của dự án, không phân tích chính xác báo cáo tài chính, khả năng quản
lý của khách hàng... nên thường không có quyết định chính xác về việc cho
vay dự án. Bên cạnh đó, đặc biệt cán bộ ngân hàng cần phải có lương tâm
23
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
và đạo đức nghề nghiệp. Một công việc có liên quan đến tiền bạc, phải là
người có lòng trung thực, có lương tâm và đạo đức tốt, ý chí cao thì cán bộ
tín dụng mới tránh khỏi những cám dỗ của đồng tiền. Trên thực tế đã có
không ít những món vay không đảm bảo an toàn cho ngân hàng nhưng vẫn
được cán bộ tín dụng cho phép, điều đó sẽ gây ra những tổn thất không
tránh khỏi cho bản thân ngân hàng và thậm chí cả nền kinh tế.
• Qui trình tín dụng:
Qui trình tín dụng bao gồm những qui định phải thực hiện trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ
khi chuẩn bị cho vay, giải ngân tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến
khi thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc
thực hiện tốt các qui định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng

giữa các bước. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển
bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo chất lượng tín
dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng lập hồ sơ
xin vay và Ngân hàng đánh giá hồ sơ xin vay để quyết định cho vay hay
không) rất quan trọng, nó là cơ sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho
vay. Trong bước này, chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào công tác thẩm định
đối tượng được vay vốn cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho
vay của từng NHTM.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp Ngân hàng nắm được diễn biến của
khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp
khi cần thiết, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra.
Thu nợ và khâu thanh lý nợ là khâu quan trọng có tính quyết định tới sự
tồn tại của Ngân hàng do đó Ngân hàng phải tích cực trong công tác thu nợ.
Sự nhạy bén kịp thời của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều
24
Vũ Thanh Thủy Lớp NH47B ĐHKTQD
kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác,
đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích
cực đối với chất lượng tín dụng.
• Công tác thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan toàn diện
các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án trước khi ra
quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Mục đích của việc thẩm định dự án là
giúp cho ngân hàng rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi của dự án,
bao gồm hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ ngân hàng từ đó ngân hàng có
thể ra các quyết định cho vay hoặc từ chối. Cũng từ quá trình thẩm định ,
ngân hàng có thể tham gia tư vấn, góp ý cho chủ đầu tư đồng thời căn cứ vào
đó để xác định số tiền cho vay, thời hạn cho vay cũng như hình thức trả gốc
và lãi tạo điều kiện cho khách hàng hoạt động có hiệu quả. Nếu việc thẩm

định không được thực hiện đúng với trình tự, nội dung không đầy đủ, chính
xác thì khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng là rất lớn. Tuy nhiên, nếu quá
trình thẩm định diễn ra quá thận trọng, tốn nhiều gian, quá trình cho vay có
nhiều thủ tục rườm rà thì ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu tư, làm giảm tính hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tất nhiên chất lượng tín dụng
của ngân hàng sẽ giảm sút.
• Công tác tổ chức của ngân hàng
Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác
động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng, thì việc tổ chức thiếu khoa học sẽ tạo sự chồng chéo trong
việc phối hợp công việc giữa các bộ phận trong ngân hàng, ảnh hưởng tới thời
gian ra quyết định đối với một món vay. Tổ chức thiếu khoa học cũng có thể
tạo ra sự thiếu chặt chẽ giữa các khâu, gây ra tính ỷ lại, thiếu trách nhiệm của
các cán bộ tín dụng đối với công việc. Vì vậy, công tác tổ chức trong ngân
25

×