TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI
KHOA TRIẾT
PGS,TS NGUYỄN THANH TUẤN
(Chủ biên)
TẬP BÀI GIẢNG
MÔN “LỊCH SỬ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN”
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2011
Tập thể tác giả
PGS,TS Nguyễn Thanh Tuấn, NCS Th.S Hoàng Văn Thắng (Bài 1)
NCS, Th.S Hoàng Văn Thắng (Bài 2)
PGS,TS Dương Văn Thịnh (Bài 3)
NCS, Th.S Phan Hoàng Mai, PGS,TS Nguyễn Thanh Tuấn (Bài 4)
TS Ngô Thị Phượng, PGS,TS Nguyễn Thanh Tuấn (Bài 5)
PGS,TS Nguyễn Thanh Tuấn (Bài 6 và 8)
NCS, Th.S Trịnh Minh Thái, PGS,TS Nguyễn Thanh Tuấn (Bài 7)
2
MỤC LỤC
Trang
Bài một: Đối tượng, phương pháp, chức năng nghiên cứu môn
Lịch sử chủ nghĩa Mác - Lênin 4
Bài hai: Khái quát quá trình hình thành, phát triển các quan điểm,
học thuyết về chủ nghĩa duy vật biện chứng 34
Bài ba: Khái quát quá trình hình thành, phát triển các quan điểm,
học thuyết về chủ nghĩa duy vật lịch sử 66
Bài bốn: Khái quát quá trình hình thành, phát triển các quan điểm,
học thuyết về kinh tế chính trị học dưới góc độ triết học
103
Bài năm: Khái quát quá trình hình thành, phát triển các quan điểm,
học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học 141
Bài sáu: Khái quát quá trình đấu tranh với các trào lưu tư tưởng
ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin 178
Bài bảy: Khái quát quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin trên thế giới 205
Bài tám: Khái quát quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam 243
3
- Nội dung ôn tập và thảo luận chung của môn 281
- Tài liệu tham khảo chính 282
BÀI MỘT
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP, CHỨC NĂNG NGHIÊN
CỨU MÔN LỊCH SỬ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
I. Đối tượng
1. Phạm trù, bản chất, tính chất, đặc điểm và sự phân kỳ chủ nghĩa Mác-
Lênin
1.1. Phạm trù “Chủ nghĩa Mác”, “chủ nghĩa Lênin”, “chủ nghĩa Mác-
Lênin”
Bản thân C.Mác (1818-1883) chưa nêu một định nghĩa nào về chủ nghĩa
của mình. Sau khi C.Mác mất, Ph. Ăngghen (1820-1895) đề xuất chủ nghĩa
Mác chỉ nên mang tên người sáng lập ra nó. Khoảng năm 1913, V.I.Lênin
(1870-1924) định nghĩa: “chủ nghĩa C.Mác là hệ thống các quan điểm về học
thuyết của Mác”
1
.
Cũng như C.Mác, bản thân V.I.Lênin chưa nêu một định nghĩa nào về chủ
nghĩa của mình. Thuật ngữ “chủ nghĩa Lênin” trước tiên được các nhà lãnh đạo
cao cấp trong Đảng Cộng sản Liên Xô sử dụng ngay sau khi Lênin qua đời.
Người đầu tiên dùng thuật ngữ “chủ nghĩa V.I.Lênin” có lẽ là G.E. Dinôviep
(1883-1936), mặc dù người đầu tiên bàn về tư tưởng của Lênin là L.Đ.Tơrốtxki
(1879-1940). Người đánh giá chủ nghĩa V.I.Lênin sâu sắc là N.I.Bukharin
(1888-1938), và đúng hơn cả là J.V. Xtalin (1879 - 1953). Trong tác phẩm Về
1
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.26, tr.59.
4
những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Xtalin quan niệm: “Chủ nghĩa V.I.Lênin
là chủ nghĩa C.Mác trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản. Nói
cho đúng hơn: chủ nghĩa V.I.Lênin là lý luận và sách lược về cách mạng vô sản
nói chung, lý luận và sách lược chuyên chính vô sản nói riêng”
1
.
Từ 1938, với việc xuất bản và phát hành rộng rãi cuốn Giáo trình sơ lược
lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô (B) do Xtalin chủ biên, phạm trù chủ nghĩa Mác
- Lênin được sử dụng phổ biến trên thế giới, trước hết trong các đảng cộng sản
và công nhân quốc tế.
Có nhiều cách định nghĩa về chủ nghĩa Mác - Lênin:
- Từ giác độ phương pháp luận có thể định nghĩa: chủ nghĩa Mác - Lênin là thế
giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử do C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin xây dựng nhằm mục đích xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa.
- Từ giác độ nội dung có thể định nghĩa: chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống
quan điểm và học thuyết của C.Mác, Ph.Ănggen và V.I.Lênin trong quá trình
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và cải biến xã hội theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
- Từ giác độ phát triển có thể định nghĩa: chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống
quan điểm và học thuyết do C.Mác, Ph.Ănggen, V.I.Lênin sáng lập và được
nhiều người, nhiều đảng cộng sản và công nhân thuộc các quốc gia khác nhau,
ở các giai đoạn lịch sử khác nhau kế thừa, phát triển hết sức phong phú trong
quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và cải biến xã hội theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên phạm vi dân tộc và quốc tế.
- Từ giác độ hệ tư tưởng có thể định nghĩa: chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới
quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử do C.Mác,
1
J.V. Xtalin: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1969, t.6, tr.85.
5
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin xây dựng; là hệ thống, quan điểm, học thuyết phổ
biến về mọi sự phát triển trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy; là hệ thống quan
điểm, học thuyết về những vấn đề có tính quy luật của quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản và quá trình chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi dân tộc và quốc tế.
1.2. Bản chất, tính chất và đặc điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Để xác định bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, trước tiên có thể hiểu:
“Bản chất là tổng hợp tất cả các mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn
định ở bên trong sự vật quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó ”
1
.
Ngoài ra còn thuật ngữ “ tính chất ”: “là toàn bộ những đặc điểm vốn có của sự
vật phụ thuộc vào cơ cấu bên trong và những mối liên hệ bên ngoài của sự
vật ”
2
. Như vậy, không được đồng nhất tính chất với bản chất. Bản chất không
phải là một cái gì trừu tượng, mà phải được thể hiện thông qua một số tính chất
(thuộc tính) căn cốt.
Từ những lập luận trên đây có thể quan niệm: Bản chất của chủ nghĩa Mác -
Lênin là tổng hòa tất cả các mặt, các mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự
vận động và phát triển của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ra bằng
những thuộc tính cơ bản; nhờ đó có thể phân biệt nó với các trào lưu tư tưởng-
lý luận khác.
Hiện nay bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ở hai thuộc tính
khoa học và cách mạng - là xuất phát từ V.I.Lênin. Còn C.Mác, trong lời bạt
viết cho quyển thứ nhất Bộ Tư bản, đã viết rằng, học thuyết của ông, “về căn
bản là có tính phê phán và cách mạng”
2
. Tính phê phán về sau được V.I.Lênin
giải thích là tính khoa học.
Xét toàn diện, bản chất của chủ nghĩa Mác- Lênin không chỉ thể hiện ở hai
1
, 2
Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng: Từ điển triết học giản yếu, Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr.461 và 33.
2
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.36.
6
tính chất căn cốt: phê phán (khoa học) và cách mạng, mà còn thể hiện ở tính
nhân văn, giai cấp công nhân, và thực tiễn. Chủ nghĩa Mác- Lênin xuất phát từ
con người hiện thực và hướng đến con người phát triển tự do, toàn diện, tức là
xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn; chính vì thế nó tập trung xuất phát vào giai
cấp công nhân với tư cách là “lực lượng sản xuất quan trọng nhất” (V.I.Lênin)
và là lực lượng cách mạng nhất nhằm không chỉ giải thích, mà quan trọng là cải
biến thế giới, tức là hướng vào hoạt động thực tiễn.
Tính phê phán tất nhiên diễn ra trên cơ sở khoa học, thực tiễn và nhắm vào
thực tiễn đồng thời không xa lạ với thuộc tính nhân văn. Tính cách mạng, là
công khai xác nhận nhiệm vụ phê phán để vạch trần tất cả các mâu thuẫn xã hội
và tất cả các hình thức áp bức, bóc lột con người, trên lập trường giai cấp công
nhân; là quan sát các diễn biến, chứng minh tính chất tạm thời của chúng và
tính tất yếu của sự chuyển biến sang một hình thức khác bằng con đường phủ
định và xây dựng. Cho nên, từ hai tính chất phê phán một cách khoa học và
tính cách mạng có thể mở rộng thành các tính chất nhân văn, giai cấp công
nhân, phê phán - khoa học, cách mạng và thực tiễn trong bản chất của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tổng hòa năm thuộc tính nhân văn, giai cấp công nhân,
khoa học - phê phán, cách mạng và thực tiễn thông qua thế giới quan, phương
pháp luận duy vật biện chứng thì tạo thành bản chất của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Chủ nghĩa C.Mác, chủ nghĩa Mác – Lênin, tính từ giữa thập niên 1840, vận
động, phát triển cho đến nay đã hơn 160 năm với 3 giai đoạn ( 1840 - 1890; từ
đầu thế kỷ XX đến cuối thập niên 1980; từ đầu thập niên 1990 đến nay ). Qua
ba giai đoạn phát triển đó, nổi lên 4 đặc điểm sau đây của nó:
- Là cuộc vận động, phát triển biện chứng giữa hệ thống lý luận và hoạt động
thực tiễn giải thích – cải biến thực tế xã hội, nhằm mục đích xã hội chủ nghĩa,
7
cộng sản chủ nghĩa, trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận duy vật
biện chứng.
- Vận động, phát triển thông qua phê phán và đấu tranh với các trào lưu tư
tưởng - lý luận phi macxit.
- Vận động, phát triển thông qua sự đa dạng có tính toàn cầu với nhiều trào lưu
macxit khác nhau ở phương Tây và phương Đông.
- Vận động, phát triển thông qua việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
lý luận và phương pháp trong mỗi thời kỳ lịch sử.
1.3. Sự phân kỳ các giai đoạn hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác và chủ
nghĩa Mác-Lênin
Lênin, trong công trình Vận mệnh lịch sử của học thuyết Mác, xuất bản
năm 1913, đã phân kỳ chủ nghĩa C.Mác thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất: từ cách mạng năm 1848 đến Công xã Pari (1871). Theo
Lênin, ở thời kỳ này, về cơ bản quan điểm, học thuyết của C.Mác không chiếm
được địa vị thống trị. Nó chỉ là một trong rất nhiều phái hay trào lưu khác của
chủ nghĩa xã hội. Những hình thức xã hội chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị là
những hình thức về cơ bản giống chủ nghĩa dân túy ở nước Nga. Cách mạng
năm 1848 đã giáng một đòn chí mạng vào tất cả những hình thức ầm ĩ, sặc sỡ
và ồn ào đó của chủ nghĩa xã hội trước C.Mác. Đến cuối thời kỳ này, “chủ
nghĩa xã hội trước C.Mác không còn nữa”
1
.
- Thời kỳ thứ hai: từ Công xã Pari (1871) đến cách mạng Nga (1905). Trong
phong trào công nhân Tây Âu thời kỳ này, quan điểm, học thuyết C.Mác đã thu
được thắng lợi hoàn toàn và đang phát triển về bề rộng. Thắng lợi của chủ
nghĩa C.Mác về mặt lý luận buộc kẻ thù của nó phải hóa trang thành những
người mácxít. Biện chứng của lịch sử là như thế. Chủ nghĩa tự do tư sản bên
1
V.I. Lênin: Toàn tập, sđd, t.23, tr.2.
8
trong đã thối nát, tìm cách sống lại dưới hình thức cơ hội xã hội chủ nghĩa
1
.
- Thời kỳ thứ ba: từ cách mạng Nga (1905) đến khi V.I.Lênin viết tác phẩm
Vận mệnh lịch sử của học thuyết Mác (1913); và theo V.I.Lênin (vào đầu năm
1913) thời kỳ này còn đang tiếp diễn.
Sau này, vào thập niên 1920, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng
sản Liên Xô, như Dinôviep, Bukharin, khi phân tích, đánh giá về chủ nghĩa
Lênin, mặc dù có sự khác nhau nhất định nhưng đều phân kỳ chủ nghĩa
C.Mác thành ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: từ thập niên 1840 đến thập niên 1890; do C.Mác và
Ph.Ăngghen xác lập và xây dựng một cách hệ thống.
- Giai đoạn thứ hai: từ thập niên 1890 đến 1914; chủ nghĩa C.Mác bị những
lãnh tụ cơ hội của Quốc tế II xét lại hoặc giải thích theo kiểu cơ hội chủ nghĩa
và chiết trung.
- Giai đoạn thứ ba: từ khoảng 1915 trở đi; đây là giai đoạn chủ nghĩa Lênin, và
từ đầu thập niên 1930 được xác định là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Gần đây, các nhà nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, đã phân
kỳ chủ nghĩa Mác thành 4 thời kỳ
2
:
- Thời kỳ từ những năm 1840 đến cuối thế kỷ XIX: hình thành chủ nghĩa
C.Mác.
- Thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Mười Nga: thai nghén và
chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa vĩ đại.
- Thời kỳ từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến giữa thập kỷ 1950: sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội trước tiên ở Nga, tiếp theo là một loạt các nước Đông Âu
và châu Á, đặc biệt tại Trung Quốc.
- Thời kỳ từ giữa thập niên 1950 đến nay: xuất hiện làn sóng cải cách trong các
1
V.I. Lênin: Toàn tập, sđd, t.23, tr.3.
2
Xem Lịch sử chủ nghĩa Mác, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.1, tr.52-58.
9
nước xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa Mác - Lênin phải trăn trở tư duy sau sự phê
phán tệ sùng bái cá nhân Xtalin; sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô, các nước Đông Âu và chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào.
Việc phân kỳ lịch sử chủ nghĩa C.Mác của các học giả Trung Quốc, dĩ nhiên
là dựa vào thành tựu phân kỳ lịch sử chủ nghĩa C.Mác của các nhà mácxít thế
giới, đặc biệt quan điểm phân kỳ của V.I.Lênin. Nhưng theo chúng tôi, giai đoạn
từ cuối thế kỷ XIX đến cuối thập niên 1980 thực sự có nhiều điểm chung, để có
thể gắn kết ba thời kỳ (từ cuối thế kỷ XIX - Cách mạng Tháng Mười; Cách
mạng Tháng Mười - giữa thập kỷ 1950; giữa thập kỷ 1950 đến nay). Các điểm
chung đó là: sự thai nghén, hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác
- Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực với cải
tổ và đổ vỡ ở Liên Xô, Đông Âu và cải cách, đổi mới ở Trung Quốc, Việt Nam,
v.v Vì thế có thể gộp 3 thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến cuối thập niên 1980 là
một thời kỳ.
Từ đầu thập niên 1990 đến nay, đang thực sự mở đầu cho một thời kỳ
mới của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tác động
của chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa và lũng đoạn toàn cầu.
Do đó, sự phân kỳ chủ nghĩa Mác - Lênin có thể được thực hiện như
sau:
- Thời kỳ thứ nhất: từ những năm 1840 đến những năm 1890; thời kỳ này gồm
2 giai đoạn: từ những năm 1840 đến Công xã Pari (1871); từ Công xã Pari đến
những năm 1890. Đây là thời kỳ hình thành, truyền bá chủ nghĩa Mác, phát
triển phong trào công nhân với thử nghiệm thiết lập chính quyền công nhân đầu
tiên ở Pari (Pháp) vào năm 1871 trong điều kiện tác động chủ yếu của chủ
nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
- Thời kỳ thứ hai: từ đầu thế kỷ XX đến cuối thập niên 1980; thời kỳ này gồm 3
giai đoạn: từ đầu thế kỷ XX đến khi V.I.Lênin mất (1924); từ giữa thập niên
10
1920 đến giữa thập niên 1950, tức là đến Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản
Liên Xô (1956); và từ giữa thập niên 1950 đến sự tan rã của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô, các nước Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên
1990. Đây là thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển chủ nghĩa
Mác -Lênin; phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó có cách mạng dân
chủ - tư sản kiểu mới; xây dựng, phát triển, cải tổ - cải cách mô hình xã hội chủ
nghĩa hiện thực trong điều kiện tác động của chủ nghĩa tư bản độc quyền - lũng
đoạn nhà nước và quốc tế.
- Thời kỳ thứ ba: từ đầu thập niên 1990 đến nay. Sau sự thoái trào vào những
năm đầu thập niên 1990, chủ nghĩa C.Mác lại được quan tâm và phát triển.
Nhiều đảng cộng sản không sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa Mác - Lênin; diễn ra
sự phát triển đa dạng chủ nghĩa mác, ví dụ dưới hình thức “Trung Quốc hóa
chủ nghĩa Mác” ở Trung Quốc; xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế
thị trường, Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế; sự hình thành con đường
xã hội chủ nghĩa thế kỷ XXI ở Mỹ latinh; - trong điều kiện tác động của chủ
nghĩa tư bản toàn cầu hóa và lũng đoạn toàn cầu.
Ba thời kỳ phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn thể hiện là một
cuộc vận động giải thích - cải biến thế giới trên lập trường duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử nhằm mục đích xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa C.Mác, và sau đó hình thành chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thế giới hiện đại, nhưng vẫn có không ít đảng cộng sản và
công nhân chỉ thừa nhận chủ nghĩa C.Mác là nền tảng tư tưởng.
2. Điều kiện cho việc hình thành, phát triển chủ nghĩa C.Mác, chủ nghĩa
Mác - Lênin
2.1. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và mâu thuẫn xã hội ở Tây Âu từ
nửa đầu thế kỷ XIX đến nay
11
2.1.1. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua
các cuộc cách mạng công nghiệp
Đánh giá chung: Dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, và với sự tác động của
các cuộc cách mạng công nghiệp, sức sản xuất được tạo nên đã lớn hơn và
nhiều hơn sức sản xuất của tất cả các thời đại trước gộp lại; từ đó mở rộng thế
lực của tư bản ra toàn thế giới. Khác với các thời cổ đại và trung đại, dưới chủ
nghĩa tư bản, không phải các yếu tố tinh thần - tôn giáo, mà yếu tố vật chất mới
ngày càng thể hiện rõ nét và đầy đủ tác động chi phối đối với đời sống xã hội.
Đồng thời mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố trong hình thái xã hội ngày
càng rõ rệt, đặc biệt mối quan hệ tương hỗ giữa các lợi ích vật chất bộc lộ ra
ngày càng đầy đủ. Thực tế này tạo điều kiện phân tích, khái quát một cách khoa
học cơ sở vật chất của các hình thái xã hội và động lực phát triển của chúng.
Thực tiễn phát triển công nghiệp, đặc biệt công nghiệp thông tin-tri thức hiện
đại, đã bóc trần tính hoang đường của chủ nghĩa duy tâm, tính trực quan máy
móc của chủ nghĩa duy vật cổ đại.
Một là, về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
- Ba yếu tố thúc đẩy chuyển từ công trường thủ công sang nền đại công nghiệp
cơ khí: a) Sự hình thành và phát triển quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Tây
Âu từ thế kỷ XVI-XVIII. b) Phát kiến địa lý lớn từ cuối thế kỷ XV- đầu thế kỷ
XVI; từ đó tạo nên nhu cầu buôn bán và thúc đẩy hình thành thị trường thế
giới. c) Nhà nước tư bản “quét sạch” chướng ngại của xã hội phong kiến để
thiết lập thể chế nhà nước pháp quyền.
- Tiến trình: bắt đầu ở Anh từ những năm 60 thế kỷ XVIII với việc phát hiện
máy hơi nước của J.Wat (1760), máy kéo sợi trong nghề dệt ( 1860 ); xuất hiện
công nghiệp chế tạo máy từ đầu thế kỷ XIX . Sau đó cuộc cách mạng này diễn
ra ở Pháp từ đầu thế kỷ XIX; ở Đức vào những năm 1830; v.v
12
- Đặc điểm chủ yếu:
+ Về lực lượng sản xuất xã hội, sản xuất đại cơ khí thay thế lao động thủ công
quy mô nhỏ, phân tán với ba đặc trưng: a) Nền sản xuất được tiến hành thông
qua việc đổi mới kỹ thuật. Tức là nó dựa vào tri thức khoa học, chứ không phải
dựa vào kinh nghiệm, dựa vào máy cơ khí chứ không phải dựa vào lao động cơ
bắp của con người. b) Nền sản xuất được xã hội hóa khá nhanh ở châu Âu, Bắc
Mỹ, được biểu hiện ở phân công và hiệp tác lao động, tập trung và tích tụ sản
xuất; từ đó sáp nhập nhiều thị trường địa phương nhỏ hẹp, phân tán thành thị
trườn thống nhất tại một số quốc gia tiên tiến; hình thành một số trung tâm
công nghiệp và đô thị lớn. Con người có thể phát huy tới mức cao năng lực
nhận thức và cải biến thế giới. c) Chế độ công xưởng với đặc trưng hệ thống cơ
khí, chế độ tư hữu, lao động làm thuê và cạnh tranh tự do, đã giành được địa vị
thống trị.
+ Về quan hệ sản xuất, làm tiêu tan các quan hệ đẳng cấp, thiêng liêng, trì trệ;
con người rốt cuộc đều buộc phải nhìn nhận những điều kiện sinh hoạt và
những quan hệ giữa họ với nhau bằng con mắt tỉnh táo. Sự thay đổi nhanh
chóng trong quan hệ xã hội đã đem lại cơ sở khách quan cho việc phê phán
quan niệm duy tâm siêu hình; từ đó hình thành quan điểm phát triển biện chứng
duy vật.
Hai là, về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
- Các yếu tố thúc đẩy chuyển từ nền đại công nghiệp cơ khí sang nền kinh tế tri
thức: a) Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại thúc đẩy thông tin, tri
thức trở thành tư liệu sản xuất đặc biệt. b) Khu vực kinh tế dịch vụ chiếm tỷ
trọng ngang bằng và ngày càng cao hơn khu vực sản xuất công nghiệp. c) Các
quá trình toàn cầu hóa, trước tiên trong sản xuất kinh tế, diễn ra ngày càng
mạnh và sâu.
13
-Tiến trình: Bắt đầu từ Mỹ với việc chế tạo máy tính điện tử đầu tiên vào cuối
những năm 1940 và phát minh internet vào những năm 1970.
- Đặc điểm chủ yếu:
+ Về lực lượng sản xuất xã hội, hình thành các tổ chức khu vực và quốc tế
(Liên hợp quốc, G8, G20, EU, ASEAN, IMF, WB, ), kể cả một số hình thức
sở hữu quốc tế, như đồng EURO, các công ty xuyên quốc gia, Thông tin tri
thức trở thành dạng tư liệu sản xuất đặc biệt rất khó bị hạn chế bởi biên giới
quốc gia; và nổi lên vai trò ngày càng lớn của các sản phẩm phi vật thể trong
quá trình “ba hóa” - số hóa, tin hóa, mạng hóa. Nền sản xuất trước đây chỉ
gồm hai nhánh: sản xuất tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng; còn ngày nay
thêm nhánh thứ ba là tái sản xuất các chủ thể lao động chất xám, nhánh này
ngày càng giữ vai trò động lực cho cả nền sản xuất xã hội. Sự chuyển biến từ
quốc tế hóa trong lĩnh vực trao đổi sang quốc tế hóa sản xuất. Rất nhiều sản
phẩm công nghiệp chủ yếu mà các linh kiện, bộ phận hợp thành của nó được
sản xuất tại nhiều quốc gia khác nhau trước khi được lắp ráp tổng thành tại
một quốc gia và được tiêu thụ trên thị trường thế giới.
+ Về quan hệ sản xuất: tầng lớp công nhân (làm công ăn lương) có tri thức, tức
“công nhân tri thức” (Ph.Ăngghen, 1893), hay tầng lớp trung lưu, chiếm tỷ lệ
ngày càng đông đảo tại các nước tư bản phát triển. Cơ chế tái sản xuất giai cấp
tư sản với tư cách là giai cấp bóc lột cha truyền con nối không ổn định, bị biến
động trước sự phát triển của thông tin, tri thức, và sở hữu cổ phần, kinh tế hợp
tác của người lao động. Hình thành, phát triển mâu thuẫn quốc tế giữa thiểu số
ngày càng nhỏ các nhà tư bản tài chính-quân sự với đại đa số người lao động
tại các nước tư bản phát triển, các nước kém và đang phát triển trên toàn thế
giới.
2.1.2. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản
14
Những khảo sát cụ thể của từng quá trình phát triển nền kinh tế tư bản
cho thấy nó diễn ra theo chu kỳ: phồn vinh, khủng hoảng, tiêu điều và hồi
phục. Nguyên nhân chung là: mâu thuẫn giữa xã hội hóa ngày càng cao của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa với 2 biểu hiện: a) Mâu thuẫn giữa tính tổ chức của
sản xuất trong nội bộ doanh nghệp tư bản và tình trạng sản xuất vô chính phủ
trong toàn xã hội; b) Mâu thuẫn giữa xu thế mở rộng vô hạn của nền sản xuất
tư bản với nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán rất hạn chế của quảng đại
quần chúng lao động. Sản xuất tư bản không đếm xỉa đến sự nghèo khổ và sự
tiêu dùng có hạn của quần chúng mà chỉ ra sức phát trển sản xuất. Đây là
nguyên nhân trực tiếp dẫn tới khủng hoảng kinh tế.
Sự bộc lộ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại là cơ sở khách
quan để nhận thức được rằng, chủ nghĩa tư bản không phải là vĩnh hằng và hợp
lý; và qua đó có thể từ quá trình phát triển lịch sử-tự nhiên của hình thái xã hội
tư bản, dự báo khả năng của sự thay thế hình thái đó bằng hình thái xã hội
mới, cao hơn- hình thái xã hội xã hội chủ nghĩa - cộng sản chủ nghĩa.
2.2. Sự phát triển giai cấp công nhân từ giai cấp “tự nó” trở thành giai cấp
“cho nó”
Một là, sự biến đổi quan hệ giai cấp và mâu thuẫn giai cấp
- Cách mạng công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản không chỉ dẫn đến sự phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản sản xuất xã hội, mà còn dẫn tới sự thay đổi sâu
sắc trong quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp. Việc xây dựng chế độ công
xưởng, sự hình thành các trung tâm công nghiệp và các đô thị đã thúc đẩy giai
cấp vô sản tăng nhanh về số lượng. Sự phát triển của nền sản xuất lớn xã hội
hóa làm xuất hiện khả năng liên kết của giai cấp vô sản, tăng cường tinh thần
giác ngộ, tính tổ chức và tính chiến đấu của họ.
15
- Sự mở rộng nền đại công nghiệp cơ khí đã khiến người công nhân ngày càng
phụ thuộc vào máy móc. Cùng với sự phát triển kinh tế tri thức là sự gia tăng tỷ
xuất bóc lột giá trị thặng dư của lao động chất xám. Các biện pháp hạ tiền
công, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động, mở rộng việc sử
dụng lao động nữ và trẻ em nhằm theo đuổi lợi nhuận cao, đã đẩy công nhân
vào tình trạng bị áp bức và nghèo khổ cùng cực. Khủng hoảng kinh tế tư bản
càng làm gia tăng mâu thuẫn gữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Hai là, giai cấp vô sản- giai cấp công nhân hiện đại trở thành lực lượng chính
trị độc lập
- Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, do đó từng bước
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Các hình thức đấu tranh gồm: a) Phá
hoại máy móc, đốt phá công xưởng (đến mức, năm 1812 ở Anh đã ban bố luật
xử tử hình những người phá hoại máy móc). b) Đấu tranh kinh tế dưới hình
thức bãi công để đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động là
sự phát triển hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản. Đến những năm 20 thế kỷ
XIX, đấu tranh của công nhân vẫn chưa có mục tiêu và khẩu hiệu chính trị rõ
rệt, vẫn mạng tính tự phát và phân tán.
- Từ cuộc cách mạng tháng 7.1830 ở Pháp nhằm chống lại sự phục hồi của thế
lực phong kiến đã có một bước ngoặt lớn trong quan hệ giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Nguyên nhân cơ bản là giai cấp tư sản độc chiếm thành quả
cách mạng. Trong những năm 1830 - đầu những năm 1840 ở Tây Âu diễn ra 3
phong trào cách mạng với quy mô lớn: Công nhân dệt ở Lyông và thợ thủ công
các nơi khác ở Pháp tiến hành bãi công (21.11.1831). Phong trào “Hiến chương
nhân dân” của Hội liên hiếp công nhân Luân Đôn (Anh) từ 6.1836 đến 1848
với 3 cao trào lớn (1836, 1842, 1848) để đòi phổ thông đầu phiếu. Phong trào
này chứng tỏ: toàn bộ giai cấp vô sản bắt đầu đoàn kết chống lại giai cấp tư
sản, và từ đó đã hình thành chính đảng độc lập đầu tiên là Đảng hiến chương.
16
Cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Xiledi (Đức) vào 6.1844 thể hiện rõ ý
thức chính trị của giai cấp vô sản. Các phong trào đều có một kết quả quan
trọng là thành lập được tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân. Đặc biệt ở
Đức công nhân đã thành lập Liên đoàn những người chính nghĩa từ 1836-1847
với khẩu hiệu “Tất cả mọi người đều là anh em”; đến năm 1847-1848 được cải
tổ thành Liên đoàn những người cộng sản với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các
nước, đoàn kết lại” và với “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
- Từ giữa thế kỷ XIX và trong suốt thế kỷ XX, từ “giai cấp tự nó” với đặc
điểm đấu tranh tự phát và nhận thức cảm tính về từng mặt riêng lẻ của xã hội tư
bản, giai cấp vô sản đã trưởng thành thông qua đấu tranh kinh tế và chính trị,
có ý thức, có tổ chức chính trị và có lý luận chỉ dẫn để trở thành “giai cấp cho
nó” với đặc điểm là hiểu rõ về bản chất của xã hội tư bản, và về nhiệm vụ lịch
sử của mình.
- Ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, phong trào công nhân hòa nhập với các
phong trào xã hội, nhằm tiến tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội thống nhất với cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội.
3. Tiến đề cho việc hình thành chủ nghĩa Mác-Lênin
3.1. Sự phát triển và suy thoái của hệ tư tưởng tư sản
Chủ nghĩa Mác có nguồn gốc sâu sa trong cơ sở vật chất của xã hội; đồng
thời nó cùng phải xuất phát từ chất liệu tư tưởng-văn hóa đã có trong xã hội,
trước hết ở Đức, Anh và Pháp. Biểu hiện cụ thể của nó là:
Một là, triết học cổ điển Đức (từ khoảng giữa TK XVIII - giữa TK XIX)
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lich sử tương đối ngắn, nhưng nó
đã tạo ra thành quả lớn trong lịch sử triết học. C.Mác kế thừa trực tiếp và phát
triển các nhân tố biện chứng và duy vật của nó, cụ thể là kế thừa phép biện
chứng của G.W.F.Hêgghen (1770-1831) và cải tạo nó trên cơ sở chủ nghĩa duy
17
vật; đồng thời phê phán những khuyết điểm trực quan, siêu hình, duy tâm về
xã hội của Phoiơbắc, và dựa vào thành tựu mới của khoa học để xây dựng chủ
nghĩa duy vật triệt để. Kết quả là hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
Hai là, kinh tế chính trị học cổ điển Anh (từ cuối TK XVII - đầu TK XIX)
Các đại biểu quan trọng là: U. Petty (1623-1687), A.Xmit (1723-1790),
Đ.Ricacđô (1772-1823). Ba đóng góp quan trọng của họ là:
- Hình thành được học thuyết về giá trị lao động. U.Petty lần đầu tiên đề xuất
quan điểm cơ bản về lý luận giá trị lao động. Ông cho rằng, đất là mẹ của của
cải, còn lao động là cha và là nhân tố năng động của của cải.
- Đã có những phán đoán về tính chất và nguồn gốc của giá trị thặng dư; đã
khảo sát các hình thức cụ thể của giá trị thặng dư như địa tô, lợi nhuận, lợi tức.
- Đã phân tích về mặt kinh tế quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội tư bản, ví
dụ A.Xmit đã mô tả các nhà tư bản với tư cách là một giai cấp xã hội độc lập.
Xixmonđi (người hoàn thành kinh tế học cổ điển Pháp) đã phân tích sự phân
hóa thành 2 cực của các giai cấp trong xã hội tư bản và sự hình thành giai cấp
vô sản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Ba là, sự phá sản của nhiều phương án giải quyết mâu thuẫn trong xã hội tư
bản
- Trong rất nhiều trào lưu tư tưởng chính trị - xã hội ở nửa đầu thế kỷ XIX, nổi
bật là ba học thuyết về CNXH không tưởng lớn nhất ở Pháp và Anh: Xanh
Ximông (1760-1825), S.Phurie (1772-1837) và R.Ôoen (1771-1858).
Nhìn chung, có thể đánh giá giá trị lịch sử của các tư tưởng ngoài chủ
nghĩa xã hội khoa học như sau:
18
- Phê phán tất cả các chế độ xã hội tồn tại trên cơ sở chế độ tư hữu, nhất là chế
độ chiếm hữu tư bản tư nhân. Cố gắng chứng minh sự diệt vong tất yếu của
chế độ tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội mới - xã hội cộng sản.
- Dự đoán về mô hình của xã hội mới, những con đường và giải pháp để xây
dựng xã hội mới.
- Góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng lao khổ.
- Đề cao những giá trị nhân văn như bình đẳng, tự do, giải phóng phụ nữ.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng, đặc biệt chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp,
Anh thế kỷ XIX, không chỉ dựa vào đầu óc con người, mà ở mức độ nhất định
đã dự đoán xã hội tương lai trên cơ sở phê phán thực tế xã hội tư bản.
Và giới hạn lịch sử của các tư tưởng ngoài chủ nghĩa xã hội khoa học là:
- Chưa có nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngoài chủ nghĩa xã hội khoa học nào
phát hiện được quy luật vận động chung của xã hội loài người, đặc biệt quy
luật vận động của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ “chủ nghĩa xã hội là biểu hiện
của chân lý tuyệt đối, và chính nghĩa tuyệt đối”, tức là sản phẩm của đầu óc
con người, chứ không phải là sản phẩm của hiện thực xã hội.
- Chưa có nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng nào phát hiện đúng lực lượng xã
hội có khả năng cải biến xã hội tư bản thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Họ không
coi mình là đại biểu của giai cấp công nhân, thậm chí có người còn trông mong
vào sự giúp đỡ của chính giai cấp thống trị đương thời. Họ không tán thành tiến
hành cách mạng xã hội.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là: sự chưa chín muồi của các quan
hệ xã hội, sự chưa phát triển của giai cấp công nhân và lập trường tư tưởng
không dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử. “Những lý luận chưa
chín muồi chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi” (Ph.Ăngghen).
19
3.2. Những thành tựu mới của khoa học tự nhiên và những tìm tòi mới của
khoa học xã hội
Trên cơ sở phát triển công nghiệp, từ thế kỷ XIX đã có nhiều phát kiến
quan trọng về khoa học. Các học thuyết khoa học đều phát hiện ra bản chất của
các hiện tượng tự nhiên tùy thuộc vào sự biến đổi. Nói cách khác, quy luật vận
động, phát tiển là phổ biến trong các hiện tượng tự nhiên. Các phát kiến khoa
học nở rộ trên nhiều lĩnh vực nhằm bác bỏ quan điểm siêu hình về tự nhiên.
Thí dụ “Thuyết tinh vân” của E.Cantơ (1724-1804) về nguồn gốc của hệ mặt
trời giải thích sự phát sinh tự nhiên của vũ trụ, chứ không phải do sự sáng tạo
của Thượng đế; “Nguyên lý địa chất học” của Railơ (Anh) giải thích sự biến
đổi dần dần của trái đất; v.v Thành tựu cao nhất là: quy luật bảo tồn và
chuyển hóa năng lượng của Lơmalôxôp (Nga); thuyết tế bào của M.Slaiđen và
T.Svannơ (Đức); thuyết tiến hóa sinh vật của Đac Uyn.
Những phát minh về khoa học tự nhiên đã tạo ra khả năng khái quát mới
về xã hội. Từ những năm 30-40 thế kỷ XIX dến nay, diễn ra sự chuyển biến lớn
trong lịch sử tư tưởng nhân loại; hệ tư tưởng tư sản đã bắt đầu chuyển từ cực
thịnh sang suy thoái. Các phương án giải quyết mâu thuẫn xã hội nối tiếp nhau
phá sản. Lý luận mới đang được thai nghén; trong đó chủ nghĩa Mác đã và
đang là một lý luận được quan tâm hàng đầu trong việc nghiên cứu đồng thời
vận dụng, phát triển sáng tạo trên thực tế, ở cả phương Đông và phương Tây.
3.3. Sự chuyển biến tư tưởng và vai trò của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin
C.Mác và Ph.Ăngghen (1820-1895) thời trẻ gần gũi về tư tưởng và đều
tham gia phong trào Heghen trẻ. Các ông xuất phát từ thế giới quan duy tâm,
tiếp thu tư tưởng thống nhất biện chứng trong triết học Heghen để lý giải triết
học trên lập trường dân chủ - cách mạng.
20
- C.Mác, trong 2 năm 1843-1844 đã thể hiện bước tiến quyết định trên con
đường sáng tạo toàn diện chủ nghĩa C.Mác. Đó là:
+ Xuất phát từ sự phê phán Heghen để khẳng định chủ nghĩa tự nhiên và chủ
nghĩa nhân bản của L. Phoiơbăc.
+ Vượt lên giới hạn của triết học pháp quyền, đi sâu phê phán phương pháp
biện chứng của Hêghen và cải tạo nó theo hướng chủ nghĩa duy vật.
+ Phê phán và giải thích kinh tế chính trị học tư sản theo quan điểm duy vật,
coi kinh tế chính trị học là sự phản ánh quá trình phát triển của quan hệ kinh tế
hiện thực.
+ Xuất phát từ lợi ích kinh tế để làm rõ sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản, và về cuộc đấu tranh giữa 2 giai cấp đó.
+ Vận dụng tư tưởng về tha hóa con người nói chung và tha hóa lao động nói
riêng, để tìm ra mối liên hệ, quy luật nội tại và bản chất của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
- Ph. Ăngghen, thể hiện sự chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cấp tiến sang chủ nghĩa cộng sản ở các
phương diện sau:
+ Phê phán tôn giáo một cách triệt để; chủ trương luận chứng nghiêm túc về
những sự thực nội tại khách quan trong vũ trụ, trả lại cho lịch sử những nội
dung của lịch sử.
+ Lần đầu tiên phân tích xã hội công dân từ góc độ kinh tế chính trị học; và chỉ
rõ: trong quy luật cạnh tranh tư bản chủ nghĩa đã manh nha quy luật cách
mạng, trong sự phát triển tự thân của chủ nghĩa tư bản đã manh nha tính tất yếu
của chủ nghĩa xã hội.
21
+ Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức; chỉ rõ sự phát
triển của sản xuất và lợi ích vật chất mới là lực lượng quyết định sự phát triển
của xã hội, còn những thiên tài là thức tỉnh những người khác và đi trước họ.
(Từ năm 1844, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày tương đối
hệ thống tư tưởng của các ông về kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học và về
triết học.)
- V.I. Lênin vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa C.Mác:
1
+ Về triết học, V.I.Lênin đã phát triển lý luận duy vật và phép biện chứng của
chủ nghĩa Mác.
+ Về kinh tế học, V.I.Lênin đã phân tích sâu sắc quá trình phát triển từ chủ nghĩa
tư bản cạnh tranh tự do đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vạch rõ đặc
trưng và quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
+ Về chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin chỉ rõ quy luật phát triển không đồng
đều của chủ nghĩa đế quốc, đưa ra kết luận khoa học về chủ nghĩa xã hội có thể
giành được thắng lợi trước hết ở một nước, về cách mạng vô sản, chuyên chính
vô sản, vấn đề nông dân, vấn đề dân tộc, chiến lược và sách lược cách mạng,
chính đảng vô sản v.v Đặc biệt, V.I.Lênin đã đóng góp xuất sắc vào lý luận về
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sau khi cách mạng vô
sản thắng lợi, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội (kế thừa thành tựu của chủ
nghĩa tư bản, chính sách kinh tế mới, ). Nội dung lý luận cách mạng vô sản và
chuyên chính vô sản gắn với lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Phương pháp của V.I.Lênin là không chỉ khôi phục phương pháp biện chứng
duy vật của C.Mác, mà còn cụ thể hóa và phát triển các phương pháp đó bằng
cách gắn lý luận với thực tiễn, dùng thực tiễn kiểm nghiệm lý luận, kết hợp
thực tiễn nước Nga với chủ nghĩa C.Mác.
4. Giá trị và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
1
Xem Nguyễn Thanh Tuấn: C.Mác, V.I.Lênin với chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.25-29.
22
4.1. Giá trị bền vững
Cho đến nay chúng ta thường xác định các giá trị bền vững ở cấp độ chung
nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin gồm: 1) chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch
sử; 2) giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản; 3) sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Theo chúng tôi, ngày nay ở cấp độ tác động thực tiễn, nên quy giá
trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin về 3 nhóm giá trị sau:
Một là, thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng
“Chủ nghĩa C.Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng ” (Hồ
Chí Minh). Nhờ đó nó có khả năng kế thừa, phát triển “tổng số tri thức của
nhân loại“ ( Lênin ); và nuôi dưỡng, làm giàu tâm hồn, trí tuệ con người theo
các giá trị: lợi ích, chân, thiện, mỹ, và hướng thượng bằng niềm lạc quan trong
sáng.
Hai là, giá trị phê phán đối với chủ nghĩa tư bản; thức tỉnh tinh thần nhân
văn, đấu tranh giải phóng, phát triển con người và xã hội
Trong đó nổi bật giá trị ''vì con người và giải phóng nhân loại'' . Quan niệm
"xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho một
cá nhân riêng biệt " - là điểm xuất phát của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong cách đặt vấn đề xây dựng một chế độ xã hội công bằng,
không có áp bức, bóc lột, mọi người đều bình đẳng, đều có quyền tham gia lao
động và các hoạt động xã hội, và đều có quyền thụ hưởng các thành quả sáng
tạo của mình. Giải phóng, phát triển con người và xã hội là sự nghiệp của bản
thân nhân dân, là kết quả sáng tạo của bản thân nhân dân, chứ không phải bằng
hành động “đột kích“ nào của một lực lượng dù hùng hậu đến đâu.
Ba là, giá trị dự báo khoa học và gợi mở lý luận cho các mô hình thực tiễn
của chủ nghĩa xã hội
Các “mô hình“ Công xã Pari (2-5.1871), Chủ nghĩa cộng sản thời chiến
23
(1918-1920) và Chính sách kinh tế mới - NEP (1921-1924) ở nước Nga, và cả
“mô hình xô viết“, hay “mô hình Xtalin“ (1928-1991) ở Liên Xô, với những
giá trị và hạn chế lịch sử của chúng, thực sự là những gợi mở lý luận cho các
mô hình thực tiễn về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đương đại, trong đó có Việt
Nam.
4.2. Hạn chế lịch sử nhìn từ thực tiễn ngày nay
Một là, học thuyết hình thái xã hội với năm hình thái xã hội kế tiếp nhau,
chủ yếu dựa trên cơ sở dân tộc học và lịch sử đấu tranh giai cấp ở Tây Âu, dẫn
đến cách hiểu đơn giản về con đường phát triển chung của các dân tộc khác
nhau trên thế giới.
Nhận thức được hạn chế này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
đã bổ sung, phát triển cơ sở dân tộc học và cách tiếp cận văn hóa - văn minh
bằng lý luận “xã hội phương Đông“ mà hạt nhân là “phương thức sản xuất
châu Á”. Đó là lý luận về quá trình "chuyển biến lịch sử theo kịp lịch sử thế
giới” ở các nước lạc hậu về kinh tế thuộc Đông Âu, và đông đảo các nước
châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, trên con đường phát triển không phải theo
mô hình xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây.
Hai là, hạn chế lịch sử trong việc tập trung tiếp cận phương thức sản xuất;
coi phương thức sản xuất là biểu hiện tập trung của quá trình phát triển các
hình thái xã hội
Vào lúc cuối đời, Ph.Ănghen có lưu ý rằng, sự sản xuất và tái sản xuất vật
chất ra đời sống xã hội, xét đến cùng là nhân tố quyết định đối với lịch sử. Vấn
đề là ở chỗ: mối quan hệ nhân quả đó luôn luôn phải được đặt trong điều kiện
xét đến cùng. Sự giải thích đó của Ph.Ănghen cho thấy C.Mác và Ph.Ănghen,
do những lý do khác nhau, thường thiên về cách tiếp cận phương thức sản xuất
để xem xét quá trình phát triển của đời sống xã hội loài người.
24
Các ông tập trung vạch ra những đặc trưng thể hiện trình độ phát triển cao
hơn, tốt đẹp hơn của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa so với phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng một số đặc trưng cơ bản mà các ông dự
báo ngày nay đã bị thực tiễn vượt qua. Chẳng hạn đó là nền công nghiệp đại cơ
khí và điện khí hóa, thì vào đầu thế kỷ XXI đã không còn thể hiện được trình
độ phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản; hay chế độ công hữu thì ngày
nay, đã xuất hiện sở hữu nhà nước, sở hữu hợp tác, sở hữu cổ phần và sở hữu
công cộng. Nền sản xuất hàng hóa đã và vẫn sẽ tồn tại lâu hơn là các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tiên liệu.
Ba là, hạn chế lịch sử trong việc dự báo về năng lực điều chỉnh, phát triển
của chủ nghĩa tư bản; và về khả năng đến nhanh của chủ nghĩa xã hội
- Về năng lực điều chỉnh, phát triển của chủ nghĩa tư bản
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thế giới từ giữa thế kỷ XIX đến nay, và
phần lớn các quan niệm liên quan đến nó đều không vượt quá lý luận của
C.Mác về chủ nghĩa tư bản. Nhưng sự phát triển trong hơn một thế kỷ rưỡi qua
của chủ nghĩa tư bản cũng không theo dự báo của C.Mác, là đưa nó vào nấm
mồ. Những dự đoán của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về tính tất yếu tan rã
của chủ nghĩa tư bản là có vấn đề.
Ngày nay nhìn lại mâu thuẫn tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ lịch sử mà C.Mác
và V.I.Lênin sống, phần nhiều đều mang hình thức xã hội công nghiệp hóa ở
giai đoạn đầu. Từ nửa cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã và đang chuyển
dịch từ chủ nghĩa tư bản tư nhân sang ''chủ nghĩa tư bản có tổ chức '' và ''chủ
nghĩa tư bản xã hội ''. Khả năng phát triển lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư
bản thông qua cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng tăng. Mức độ
đấu tranh giai cấp ngày càng giảm bớt; khả năng cải cách, điều chỉnh mâu
thuẫn nội bộ chủ nghĩa tư bản để tiệm tiến hòa bình lên chủ nghĩa xã hội thì
ngày càng tăng. Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời gian dài hơn một thế kỷ rưỡi
25