Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Người lái đò sông đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.3 KB, 19 trang )

Người lái đò sơng Đa

Người lái đị Sơng Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của
một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của
thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm cịn cho thấy cơng phu
lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để
tái tạo những kì cơng của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.
A

TIÊ ̉ U DÂ ̃ N

I.

Tác giả Nguyễn Tuân

-

-

A.
Ông quan niệm “đời là một trường du hí”, “sống là chơi mà viết cũng là chơi”. Vì vậy nghề viết với
Nguyễn là một cuộc dạo chơi nhưng là chơi ở đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật. Là người tự do,
phóng túng và yêu thích sự mới mẻ trong những cuộc phiêu lưu, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham
thích du lịch thành lý thuyết - “chủ nghĩa xê dịch”.
Con người rất mực tài hoa và un bác. Ơng có vốn sống phong phú và am hiểu nhiều ngành văn
hóa, nhiều bộ mơn nghệ thuật khác ngoài văn chương như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện
ảnh… Nhờ vậy, Nguyễn Tuân luôn biết vận dụng con mắt của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật
khác để tăng cường khả năng quan sát và biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngơn từ.

"Ơng là một trong mấy nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình
Thi).



B.
Phong cách nghệ thuật:
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh : “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói
gọn trong một chữ ngông”.
-

-

-

Nguyễn Tuân là một cây bút rất tài hoa và uyên bác vào hàng bậc nhất của văn học hiện đại Việt
Nam. Chất tài hoa của nhà văn được thể hiện trong việc dựng người, dựng cảnh; trong việc biến
hóa các ngôn từ nghệ thuật; trong những trường so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị với hình ảnh
sống động, gợi cảm.
Song hành với chất tài hoa, vẻ uyên bác luôn hiện hữu trên từng áng văn cụ Nguyễn. Nhà văn luôn
biết vận dụng những tri thức của các lĩnh vực, các ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau như lịch
sử, địa lí, hội họa, điện ảnh… để làm sống dậy hiện thực qua trang viết của mình. Văn Nguyễn Tn
khơng chỉ có tính thẩm mĩ cao mà nội dung thông tin cũng vô cùng phong phú.
Sở trường về thể loại tùy bút: vừa đậm chất kí sự vùa thể hiện cái tơi phóng túng, tài hoa.
Bậc thầy về ngơn ngữ tiếng Việt với kho từ vựng phong phú mới mẻ, câu văn giàu chất tạo hình,
giàu tính nhạc, biết co duỗi nhịp nhàng
Biện pháp tu từ đặc sắc tài hoa như nhân hóa, so sánh, liên tưởng, đặc biệt so sánh kép, nhiều
tầng bậc.
Cuộc đời sáng tác của ông là hành trình đi tìm cái đẹp nên trong con mắt của nhà văn mọi hình
ảnh, mọi đối tượng từ thiên nhiên đến con người đều được miêu tả sóng đôi cùng chuẩn mực của
cái đẹp. Văn nhân chủ yếu khám phá thiên nhiên và sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ và
phác họa con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đam
mê với cái đẹp của quá khứ còn vang bóng lại, say sưa khám phá và thể hiện vẻ đẹp cội nguồn của
văn học sùng cổ, đi sâu vào lớp người đặc tuyển của xã hội, những hình tượng siêu phàm như đao

phủ nghệ sĩ, viết chữ nghệ sĩ… Sau năm 1945, Nguyễn Tuân dần tìm thấy cây cầu nối giữa cái đẹp
ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Cùng với nhiều nhà văn chiến sĩ, Nguyễn hăm hở tham gia kháng
chiến và sáng tác văn chương để phục vụ kháng chiến. Ơng khơng lấy văn chương làm cơng cụ
tun truyền một cách máy móc mà thể hiện nhiệt huyết và tình yêu đất nước ở một phương diện
khác. Đó là sự ngây nhất trước vẻ đẹp thiên nhiên của non sông, đất nước; niềm ngợi ca vẻ đẹp
người lao động bình dị mà phi thường, trong đó nổi bật là dịng sơng Đà và người lái đị sơng Đà.

Nguyễn Đình Thi gọi Nguyễn Tn là “người suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật”. Ơng cũng tự
nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”.
- Nguyễn Tuân ưa mạo hiểm, thích khác biệt. Ơng là nhà văn của những tính cách độc đáo, những
tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ với núi cao, rừng thiêng, gió bão và thác
ghềnh dữ dội. Ơng chán ghét mọi sự nhợt nhạt, bằng phẳng của văn chương.

1|Page


Người lái đò sơng Đa

- Ơng có cả một kho từ vựng mới lạ, ấn tượng, giàu sức biểu cảm. Từng câu văn xuôi ông viết như
thể biết co duỗi nhịp nhàng màng đầy nhạc điệu. Đọc văn ông người ta khơng chỉ thấy hình tượng văn học
như nhảy múa, cựa quậy trước mắt người đọc mà còn thấy chữ nghĩa tiếng Việt giàu đẹp, biết bao.
Tố Hữu ưu ái gọi là “người thợ kim hoàn của chữ”.

II.

Tác phẩm Người lái đị sơng Đà

A.

Vị trí

“Sơng Đà” là một mốc son trong lộ trình nửa thế kỉ sáng tác, đánh dấu bước chuyển quan trọng
của nhà vănNguyễn Tuân đi từ thế giới của cái “tôi” đến thế giới của cái “ta”. Hay nói như nhà thơ Pháp
Êluya “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”. “Người lái đị Sơng Đà” là một trong những thiên tùy
bút xuất sắc, thêm một lần nữa khẳng định phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân và là một
minh chứng tiêu biểu cho q trình “ngịi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật”.

B.
Xuất xứ và hồn cảnh sáng tác
- “Người lái đị Sơng Đà” là bài tùy bút được in trong tập" Sông Đà" xuất bản năm 1960.
- “Sông Đà” ra đời là nhờ sự thai nghén của chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa
xôi, rộng lớn của Nguyễn Tn. Hành trình mới ấy khơng chỉ thỏa mãn khát khao “xê dịch” của nhà thám
hiểm tới những miền đất lạ là mà còn gieo vào lòng Nguyễn ấn tượng về vùng trời của cái đẹp: “Đời sống
Tây Bắc ngày nay là một tấm lịng tin tưởng khơng bờ bến, tin mình tin người, mấy chục dân tộc miền cao
và đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao mãi lên
trên chỡ cao ngun tiềm tàng sức sống này”. Trong miền đất chở những cái đẹp, Nguyễn Tuân tìm thấy
chất vàng của thiên nhiên và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những người lao động nơi đây. Vì
vậy ơng đã khai sinh ra tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” nói riêng và tập “Sơng Đà” nói chung.

C.
-

Chủ đề và cảm hứng chủ đạo
Chủ đề: Khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng thơng qua hình tượng con
sông Đà; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp con người Tây Bắc mà Nguyễn Tuân gọi là “ chất vàng mười”
của tâm hồn thơng qua hình tượng người lái đị sơng Đà.
Cảm hứng chủ đạo: Tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” là áng văn nhiệt tình ca ngợi non sông, đất
nước và nhân dân của một trái tim tràn đầy hứng khởi khi đứng giữa Tổ quốc mình nhưng khơng
cịn thấy “thiếu q hương”.

D.

-

-

-

-

Thể loại: tùy bút
Mang tính chất tự do vốn có của thể loại. Trong văn Nguyễn, mạch cảm xúc cứ chảy tràn, miên
man, bất tận, nhởn nhở trên con đường cảm thụ cái đẹp, hết ngã rẽ này lại đến ngã rã khác, đi hết
con đường này, văn nhân lại tìm về con đường khác nhưng khơng bao giờ ơng để mình sa đà vào
rẽ vào con đường ngoài cái độc đáo của nghệ thuật.
Nhiều yếu tố truyện. Trước khi gặp gỡ tùy bút tại giao lộ văn chương, Nguyễn Tuân đã bước những
bước đầu với thể loại truyện. Đọc truyện ngắn hay truyện dài của ơng, người ta thường thấy có sự
đan xen của tuỳ bút, và ngược lại, đọc tuỳ bút của ông người ta lại thấy có pha chất truyện. Nhà
văn dùng nhiều đến trí tưởng tượng để dựng cảnh, dựng truyện và có mơ tả tâm lí, khắc hoạ tính
cách nhân vật đến một chừng mực nào đấy.
Đậm tính chất ký, nghĩa là ghi chép sự thật và thông tin thời sự chính xác. Cũng bởi vốn xuất thân
là một nhà báo, một thơng tín viên và cũng từng viết nhiều du ký, phóng sự đặc sắc, thêm tác
phong khảo cứu đào sâu đã giúp cho tuỳ bút Nguyễn Tuân có lượng thơng tin đáng tin cậy và có
nhiều giá trị tư liệu.
Giàu tính trữ tình. Những dịng văn nóng hổi cảm xúc thông qua cái tôi chủ quan mà phản ánh hiện
thực trong tùy bút Nguyễn Tuân lặng lẽ len vào lịng người đọc.

E.

Tóm tắt tác phẩm

Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Sơng Đà có lúc dịu dàng

như người phụ nữ kiều diễm. Nước sông Đà thay đổi theo mùa, phản chiếu trời xuân nắng thu: “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Dọc theo sơng Đà, có
lắm thác nhiều ghềnh, có đá dựng vách thành, có đá tảng, đá hịn bày thế thạch trận, tạo nên cửa sinh, cửa
tử. Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ơng lái đị sơng Đà. Đó là một

2|Page


Người lái đò sông Đa

người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với thân hình cao to, nước da rám
nắng. Ơng làm nghề lái đị đã nhiều năm, từng gắn bó với dịng sơng Đà, hiểu được tính khí của nó. Ơng
thuộc nằm lịng từng con thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh, cửa tử do thế thạch
trận tạo nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa con thuyền vượt thác
nước sơng Đà đầy nguy hiểm. Ơng đã đưa nhiều chuyến hàng về xi an tồn để góp phần vào cuộc sống.
Sau khi vượt sơng Đà, ơng lái đị trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình, ơng neo thuyền chỡ
khúc sơng bình lặng, nấu ống cơm lam và bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh.
B

PHÂN TI ́CH

I

Lời đề tư
Người yêu văn chắc hẳn không xa lạ gì với những lời đề từ trong các tiểu thuyết kinh điển trên thế giới như
“Chạng vạng”: “Những cây hiểu thiện biết ác thì chớ ăn, vì bất cứ ngày nào người ăn vào người sẽ phải
chết” đến các truyện dài như “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán: “Trừ giặc, ba tuổi vẫn còn là muộn” hay
những áng thơ trữ tình như “Ngày gặp gỡ” của Hồ Dzếnh “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình cịn
tưởng tiếng ai gọi đị”. Những điều tưởng chừng nhỏ nhặt và khơng có chủ đích như lời đề từ nhưng thật
ra lại có ý nghĩa như một chiếc chìa khóa quan trọng để mở cánh của ngôn từ rộng lớn là tác phẩm. Theo

cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” lời đề từ “là thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được
viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ
thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm”.

F.
Đẹp vậy thay tiếng hát trên dịng sơng!
Nguyễn Tuân chắc hẳn phải mê đắm lắm những thi hứng trên sơng nước của Broniewski vì ơng sẽ cịn
mượn tiếp ý thơ của nhà thơ người Ba Lan khi miêu tả dịng sơng tuyến. Câu thơ mượn cấu trúc cảm thán
để bộc lộ cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng trong lịng. Điều gì đã khiến thi sĩ sửng sốt mà cất lên “đẹp
vậy thay”, vế thơ sau đã giãi bày nguyên do của lời ngợi ca ấy: “tiếng hát trên dịng sơng”.
Sơng nước mênh mơng nên thơ hữu tình đã làm say đắm bao trái tim nghệ sĩ để rồi trở thành một địa chỉ
lớn của nhạc họa văn thơ. Xưa Broniewski mượn thơ để bày tỏ tiếng ca ngưỡng mộ của mình trước dịng
sơng say đắm lịng người. Nay Nguyễn Tn mượn chính ý thơ đó để cất tiếng hát say mê, lời hoan ca,
phấn khích khi đứng trước vẻ đẹp của Đà giang. Broniewski tha thiết trước thiên nhiên và văn nhân họ
Nguyễn cũng vậy.
Tuy nhiên ý thơ của tác giả Ba Lan phải chăng còn gợi cách cảm khác. Lời ngợi ca của thi nhân phải chăng
là dành cho âm thanh vang ra từ “tiếng hát trên dịng sơng” mà ơng nghe thấy. Đó là tiếng hát của những
người lao động lạc quan, yêu đời trên sơng nước: của người chèo đị “mê say em hát”, của người chài lưới
đang vui mừng trước thành quả lao động của mình, của người vượt thác hị vang trước những đợt sóng
to… Trong tùy bút này, ơng lái đị là một trong hai hình tượng nghệ thuật chính. Tiếng hát kia phải chăng
cũng là tiếng hát của người anh hùng lao động sông nước, của nghệ sĩ ba lê giữa muôn trùng thác đá. Đặt
ý thơ vào tác phẩm của mình, cụ Nguyễn muốn ngợi ca nhân vật chính của bản hùng ca ấy. Đồng thời tác
giả cũng sung sướng reo lên quan niệm nghệ thuật mới của mình sau Cách mạng: những con người dù
lặng thầm, bình dị, dù ở bất kể nơi đâu, trong bất kể địa vị và nghề nghiệp nào, chỉ cần sống trọn với sứ
mệnh, trách nhiệm của mình đều đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh.

G.
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
“Mọi dịng sơng đều chảy về phía Đơng, duy chỉ có sơng Đà chảy theo hướng Bắc”. Hai câu thơ của
Nguyễn Quang Bích tương đối hiển ngơn giúp cho chúng ta ngay lần đầu tiên đọc tới có thể phần nào hiểu

được nét tính cách độc đáo, riêng biệt, những tương quan đối cực của một hiện tượng địa lí của miền Tây
Bắc Tổ quốc. Chính hướng chảy độc đáo kia của sông Đà đã khơi gợi hứng thú của cái tôi ngông nghênh
với đời như Nguyễn Tuân. Một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật, ham mê xê dịch để thay đổi thực
đơn cho tâm hồn mình như Nguyễn Tuân đã mê mẩn ngay với sự khác biệt đó của sơng Đà. Vì thế sơng Đà
dưới ngịi bút Nguyễn Tn khơng phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà hiện lên như một sinh thể phức
tạp, đa dạng có cuộc sống riêng, có đặc điểm riêng không thể trộn lẫn với hai nét tính cách cơ bản đối lập
nhau: hung bạo và trữ tình. Đơi dịng đề từ thứ hai gợi cho độc giả nhiều suy tư, người ta nghĩ rằng
Nguyễn Tuân cũng giống như chính dịng Đà giang ấy. Trên hành trình đến với thiên nhiên kì thú, nhà văn
đồng thời muốn khẳng định dịng sơng văn học độc đáo của mình – một dịng sơng cá tính của cái tơi
un bác và tài hoa. Maxim Gorki từng nói “Cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật”, vì vậy Nguyễn
Tn ln muốn “Đã là nhà văn, mỗi người phải có cái vision riêng. Mất cái riêng đó cũng đồng nghĩa với
việc từ bỏ thiên chức nghệ sĩ của mình”. Giống như ơng lái đị đang cố gắng tìm đúng luồng sinh giữa vô
3|Page


Người lái đò sông Đa

vàn cửa tử trên chiến trường sơng Đà, văn nhân cũng muốn tìm cho kì được nguồn cảm hứng “sống” giữa
dịng thác ngơn từ ngổn ngang. Và ơng đã tìm được sơng Đà. Tờ hoa về sơng Đà chính là luồng sinh, góp
phần khẳng định cái bản chính Nguyễn Tn giữa thế giới mênh mơng biển người.

III.

Hình tượng con sơng Đà
Nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn từng chia sẻ: “Mục đích đầu tiên và sau cùng của Nghệ thuật và Văn học theo tôi
là mang đến cái hay, cái đẹp cho đời. Mầm mống của nó khơng có bất cứ một sự mưu toan nào cả. Hãy
cho nó mãi mãi thanh thản tự do và mãi mãi là hiện thân của điều thiện, của cái đẹp.” Dường như đẹp là
chức năng hàng đầu, là ưu tiên số một của văn chương nghệ thuật. Lúc sinh thời, cái đẹp cũng trở thành
mục tiêu tìm kiếm trong suốt cuộc đời cầm bút của Nguyễn Tuân.
Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành cơng đặc sắc của ơng. Chỉ có

Nguyễn Tn mới khơng nhọc cơng dị đến ngọn nguồn lạch sơng, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh
ra sơng Đà, để biết chỡ phát ngun của nó thuộc huyện Cảnh Đơng và thoạt kì thủy, dịng sơng mang
những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn
Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến
chợ Bờ. Cũng khơng có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba câu về màu sắc nước sơng Đà đã
phải có mấy lần bay ngang qua miền sơng ấy. Dịng sơng Đà trong cảm nhận của nhà văn như một sinh
thể có hai nét tính cách tưởng như đối lập nhưng lại nhất quán: hung bạo, dữ dằn và trữ tình, thơ mộng.

A.
Sơng Đà hung bạo
Sông Đà hung bạo, lắm thác, nhiều ghềnh đã từng bước vào ca dao xưa:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
Với một nhà văn ưa thích những cảm giác mạnh mẽ, những phong cảnh tuyệt mĩ, những dữ dội
phải dữ dội tới tận cùng, những lần xê dịch phải thử trò chơi mạo hiểm cho kì được để tránh sự tầm
thường, mờ nhạt mà ông hằng chán ghét thì “cưỡi” lên sông Đà hung bạo là trị chơi mà ơng khơng thể bỏ
qua. Sự dữ dằn của sông Đà không chỉ hiện ra ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ
huyền bí, hoang sơ của dịng sơng chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão
luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán
giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này.

1.
Cảnh đá bờ sông dựng vách thành.
Tất cả đã đem đến hình dung ban đầu về dịng sơng, quy tụ tất cả tính từ đo lường nguy hiểm nhất: cao
thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến khơng thở nổi và bất thình lình rơi vào tăm tối như muốn nuốt chửng
con người.
a)

-


-

-

“Hùng vĩ của sơng Đà khơng phải chỉ có thác đá. Mà nó cịn là những
cảnh đá bờ sơng dựng vách thành”
Đập vào mắt độc giả, sừng sững án ngữ đầu tiên là hình ảnh đá bờ sơng dựng vách thành
“vách thành”.
 Hình ảnh ẩn dụ
 tưởng tượng là người khách từ ngoài thành nhìn vào với hàng vạn điều bí ẩn.
“thành”
 một khối kiến trúc quân sự vô cùng kiên cố. Các bậc anh minh xưa thường cho đắp thành như
một công trình phịng ngữ, một pháo đài hiểm. Thành qch là nơi bên ngồi qn địch khó mà
xâm nhập vào nhưng bên trong quân ta lại nắm rõ nội tình khi nhìn ra để rồi dễ dàng tác chiến.
 Chỉ với hai chữ “vách thành” nhà ảo thuật ngôn từ đã dựng lên trước mắt người đọc vách đá
sông Đà sao kiên cố, thâm nghiêm. Không chỉ vậy những đợt hỗn chiến, tấn cơng bí hiểm cử
đang rình rập đâu đây trên sông Đà như một sự đe dọa đầu tiên với con người.
Liên tưởng “thành cao hào sâu”.
 Từ đó người chiêm ngưỡng cảm nhận được vách đá hiện lên như thành cao, sông Đà với vực
thẳm như hào sâu hun hút. Tất cả bước đầu dần kéo người đọc vào trùng vây liên tưởng choáng
ngợp, hãi hùng.

b)
Đúng ngọ mới có mặt trời
Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút.
4|Page


Người lái đò sông Đa


-

(1)
“Đúng ngọ”
Thời điểm giữa trưa.
Đây là lúc bề mặt trái đất nhận được nhiệt lượng lớn nhất từ mặt trời.
 Nắng chói soi vạn vật nhưng chỉ lên thiên đỉnh, nắng nơi đây mới le lói.
 Vách đá quá cao, vực sông quá sâu đến độ nắng khơng thể chiếu xiên ngang mà chỉ có thể hắt
xuống từng giọt hiếm hoi như vậy.
Ta đã bắt gặp ánh nắng tinh nghịch trong bao vần thơ về sông nước “nắng chiếu sông Lô” như
trong thơ Tố Hữu hay “nắng xuống” trong thơ Huy Cận.
c)

-

“Có vách đá thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng
bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ
đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Bờ sơng xích lại gần nhau

(1)
Có vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu
liên tưởng cảm nhận qua chính xúc giác của người đọc.
 Độ hẹp lịng sơng bị vách đá chèn ép tới mức nghẹt thở.
“chẹt”
 Vách thành đã lấn át hết cả bờ sông ghê rợn, hãi hùng.
(2)

-


Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia
Chỉ hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của con người lại là thước đo tài tình hơn
bất cứ con số chuẩn xác nào.
 Sự nguy hiểm của dịng sơng gợi ra ngày một đậm, một nơi hẹp như thế, lưu tốc dòng nước vốn
nhanh giờ lại xiết hơn. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến khơng
được, lùi cũng khơng xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thơi.

d)

-

-

“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà... ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Nhà văn chẳng những sử dụng thị
giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo.
Đang giữa mùa hè mà văn nhân lại có cảm nhận như trong mùa băng giá
 Ân tượng phi lý của xúc giác ngày giữa mùa hè.
 Phải chăng đó không phải là cái lạnh da thịt do thời tiết mang đến mà là cái lạnh ở trong lịng,
rợn tóc gáy, sởn gai ốc do sông Đà mang tới.
Cảm giác hãi hùng về độ cao rợn ngợp của vách đá sông Đà
 qua từ ngữ không xác định “nào, mấy”, qua độ hẹp của hè phố và sự phụt tắt bất thình lình của
đèn điện làm thót tim người quan sát khi đi vào khúc sông tối tăm này.

2.

Mặt ghềnh Hát Lng.


“dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm”.
- Chỉ với hai câu văn nhưng bằng sự biến ảo của ngôn từ trong các thủ pháp nghệ thuật.
- Đội qn sóng, nước, gió trên sơng Đà đang bắt tay nhau tạo trận địa uy hiếp con người.
- Nhịp văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập như đang muốn tạo cơn cuồng phong bão tố.
- Hình ảnh điệp nối tiếp ln chuyển nhau, sóng gió sơng Đà cứ thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp
con người.
- Đặt vào ba vế câu ba điệp từ “xô”
 cộng hưởng cho những đợt đánh liên hồn dữ dội của sóng nước thác đá.
- “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
 Nó sẵn sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất cứ tay lái khinh suất nào.

(1)

-

Gùn ghè
Đe dọa con người như thói quen
 Đà giang như con thủy quái đầm lầy đang cuồng nộ, bẳn tính, gắt gỏng vô cớ giận dỗi với con
người.
Kết hợp giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở qng này: Luồng gió “gùn ghè” lại nằm
đúng vị trí mặt ghềnh Hát Loóng.

5|Page


Người lái đò sông Đa
 Cái tên địa danh đọc đã phải tốn sức nén hơi, uốn lưỡi như chính khó khăn mà Nguyễn Tn vừa
đi qua chỡ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sơng Đà.


3.

-

Cái hút nước khủng khiếp ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.
Hình ảnh “cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu”
Âm thanh ghê rợn của “cửa cống cái bị sặc”
Sự cộng hưởng đến đáng sợ giữa cả hình ảnh và âm thanh “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào

Miêu tả cảnh những cái hút nước trên sông, Nguyễn Tuân đã sử dụng đến độ thành thạo các biện pháp tu
từ nghệ thuật. Biện pháp nhân hóa khiến nước biết ‘thở” và “kêu” khiến người ta sợ đến rùng mình nhưng
như thế là chưa đủ với một người ưa thích chơi mãnh liệt đến tột đỉnh như Nguyễn Tuân. Người khổng lồ
trên dịng thác ngơn từ tiếp tục bẩy thêm nghệ thuật so sánh vào miêu tả khiến người đọc thêm khiếp vía.
Độc giả như được đeo chiếc kính xem phim thực tế ảo bây chỉ muốn nhắm tịt mắt, bịt chặt tai vì kinh sợ.
Phân cảnh phim nối tiếp nhau chiếu lên cái hút nước ở độ sâu “xốy tít đáy” – như cái giếng sâu mà dòng
nước đang cuộn trào, xiết lại khơng có dấu hiệu ngừng đến độ dày trong “giếng bê tơng” khơng gì cơng
phá nổi hay độ rộng ở “cánh quạ đàn”. Hiểm nguy đang rình rập khắp ba chiều không gian cùng âm thanh
dữ dội đầy bí ẩn. Đứng trước sức hút ngơn từ ở Nguyễn, khơng chỉ độc giả, đồng nghiệp văn chương mà
chính cả những nhà phê bình nhiều khi cũng thấy bật lực khi phát hiện ra vốn từ của mình sao nghèo nàn,
chẳng thể nghĩ tới sự miêu tả lạ lùng, kì thú như Nguyễn và cũng chẳng biết dùng chữ nghĩa nào để bình
về độ chính xác và tinh tế của ngòi bút Nguyễn. Người ta chỉ biết gật đầu mà bảo nhau rằng: sông Đà quả
thực là một con quái vật đang trong một cơn cuồng nộ đầy ghê sợ.
Thế nhưng tài liên tưởng của Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó, bộ phim hành động do ơng đạo diễn tiếp
tục đưa người đọc vào môn thể thao tốc độ mạo hiểm. Đi thuyền qua quãng sông này, nhà thám hiểm
cảm nhận “y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.
Chưa bao giờ người đọc lại tưởng tượng thấy cảm giác đáng sợ của đường sông rõ ràng như vậy qua cái
hình dung về đường bộ. Chèo thuyền men gần hút nước này chắc chỉ người thích phiêu lưu như Nguyễn
Tuân hay dũng cảm như ông lái đò mới dám thử. Còn người đọc chỉ mới mường tượng ra viễn cảnh tương
lai qua sự miêu tả cụ thể, rõ ràng ấy của văn nhân thôi đã thấy hãi hùng rồi.

Ghê sợ là vậy nhưng Tuấn Thừa Sắc vẫn muốn tô đậm thêm sự nguy hiểm cho cái hút nước sông Đà. Phối
hợp giữa “tả” và “kể” ông muốn cùng người đọc đi tới cái hung bạo đến tột cùng của Đà. Đi hết những câu
văn miêu tả ông tìm đến những câu văn thiên về kể: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái
giếng ấy nó lơi tuột xuống… thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi… tan xác ở khuỷnh sơng
dưới”. Nhà văn như muốn đưa người đọc thốt li thực tế để tìm tới vùng đất mênh mơng của trí tưởng
tượng bằng những hình ảnh đầy chất hiện thực mà ai cũng có thể hình dung được. Sơng Đà như cái động
không đáy lúc nào cũng nhăm nhe nuốt chửng tất cả mọi thứ. Có một dịng sơng từng cuốn đi nhiều thứ
như thế trong tác phẩm “Thời xa vắng” của Lê Lựu. Dịng sơng về mùa lũ khiến dân làng từng thiết hại
nhiều “nước sông đã ăn lên lem lém nuốt chửng cả cánh bãi xanh non mênh mơng lúa lốc và vừng”. Đó là
điều khơng thể tránh được nhưng chỉ trong mỗi mùa lụt về ở ngôi làng Hạ Vi. Tự nhiên bất ngờ ập tới khi
người ta còn “bừa bộn ngổn ngang”. Thế nhưng khi mùa lụt qua đi, mọi thứ lại trở về bình thường. Sơng lũ
trong “Thời xa vắng” vì vậy phần nào vẫn mang vẻ hiền hịa của sơng q chứ khơng ranh mãnh như
sông Đà. Con thủy quái ấy đặt những cái bẫy chết người mà chỉ cần người lái đò lơ là tay chèo, lập tức sẽ
bị hút xuống. Nó tàn nhẫn chẳng chịu bng tha cho bất cứ thứ gì qua đó.
Tuy nhiên kẻ săn tìm cái đẹp muốn khai thác cho kì hết cái nguồn thẩm mĩ vốn có của sông Đà. Nhà sáng
tạo đã vận dụng triệt để kiến thức liên ngành trong bộ môn nghệ thuật thứ bảy – điện ảnh để tha hồ lật
xoay ngắm nghía sơng Đà từ mọi góc độ. Ơng đột ngột tung ra giả tưởng li kì kéo người đọc xuống tận đáy
hút nước xốy tít. Cảm giác chân thật đến từng mi-li-mét hiện ra cùng đợt sóng hãi hùng ập tới. Nhà văn
biến mình thành anh thợ quay phim táo tợn tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi
vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình, thuyền và máy quay văng xuống cái hút nước sông Đà. Lia
ngược máy lên thành hút nước là hình ảnh “thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thủy
tinh khối đúc dày” như “sắp vỡ tan ụp vào” cả người quay lẫn người xem. Chiếc cốc khổng lồ được khuấy
lên là hình ảnh gợi người ta cái liên tưởng rõ ràng nhất. Vì vậy người xem phim kí sự của nhà đạo diễn tài
ba Nguyễn Tuân cứ run lên vì sợ hãi. Người ta phải bám lấy mép một chiếc lá rừng vừa vứt vào trong cốc
để trấn tĩnh bản thân và tạo điểm bám vững chắc cho cơ thể mình khỏi bị văng ra, bị cuốn vào làn nước
dữ dội kia. Sự uyên bác về các lĩnh vực đời sống như giao thông hay các ngành nghệ thuật như điện ảnh
khiến trang văn của Nguyễn bung nở. Để tận hưởng hết vẻ đẹp kì thù của tờ hoa ấy người đọc khơng cách
nào khác ngồi tưởng tượng bởi sự thưởng lãm trong tâm tưởng nhiều khi cịn kì thú hơn cả sự miêu tả lại
bằng ngơn từ.


6|Page


Người lái đò sông Đa

4.
Những thác đá dữ dội trên sông Đà.
Sông Đà đang dần lộ ra tâm địa của “thứ kẻ thù số một” của con người. Con thủy quái không lồ
dùng hết tất cả những siêu năng lực của mình để dẫn dụ và rồi chặn bắt thuyền bè qua lại ở đây.
a)

Thác đá khi ở xa

(1)

-

“Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.”
n trách, van xin, khiêu khích
 Mn vàn trạng thái của con người: kích thích tị mị, văng lời mời gọi, thách thức
 Một kẻ lắm mưu nhiều kế khiêu khích người lái đị.
Khác với cái “tiếng nước ầm ầm rung chuyển như bom” trong “Thời xa vắng” của Lê Lựu hay
“nước sông cuồn cuộn sôi lên sùng sục” trong “Bến khơng chồng” của Dương Hướng.

(2)

-

“Thế rồi nó rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn

giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Vào gần bên trong, nó phóng dàn loa của mình lên hết cỡ
 Thiên nhiên như đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích mạnh mẽ.
Lấy rừng để tả nước, vật hóa âm thanh thác nước thành tiếng gầm của đàn trâu.

Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh
tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại ln tương khắc với
nhau, có nước thì khơng có lửa, ngược lại, có lửa thì khơng có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã tìm ra sự
tương giao giữa chúng như một nghệ sĩ bậc thầy. Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng
ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy
lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng bỏng
khiến chúng lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thốt thân. Khi chạy đàn trâu va đập mạnh vào những cây
tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang não bạt, kinh thiên động địa. Ai
không biết lại tưởng rằng nơi đây đang diễn ra một trận động đất rừng thời tiền sử. Tất cả tác động mạnh
mẽ lên thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất về âm thanh thác nước
sông Đà khi ở xa.

b)
-

-

Thác đá khi tới gần

“ Tới cái thác rồi.”
 Cất lời reo vui khi được tiếp cận nó.
Cái dữ dằn của thác đá Đà giang khi tới gần hiện ra qua ấn tượng về hình ảnh sóng thác cùng bầy
thạch tinh hung hãn.


(1)
“sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”.
Những bọt nước đang trào sôi mãnh liệt.
Tính từ “trắng xóa”
 Sự mênh mơng khơng biết đâu là bờ của sóng thác. Mặt sơng dường như chẳng lúc nào chẳng
chỗ nào tại khúc sông này yên lặng. Chúng không thôi gào thét cùng bạt ngạt những đá.
(2)

-

“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng. Mặt hịn đá
nào trơng cũng ngỡ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỡ này”.
Lộ ra dưới những con sóng kia là chống ngợp những đá.
Sơng Đà đã giao việc cho mỡi hịn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm.

Trùng vi thứ nhất:
Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng.
Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trị dụ chiếc
thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trị chính để tiêu diệt chiếc thuyền.
Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hị la vang dậy quanh mình, ùa vào mà
bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái
mà thúc gối vào bụng và hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đơ vật
túm thắt lưng ơng đị địi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh
đến miếng địn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận

7|Page


Người lái đò sơng Đa


chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đị. Chúng chẳng nề hà gì để
ra những địn hiểm ác, quyết liệt ngay từ những miếng võ đầu tiên.
Trùng vi thứ hai:

“Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Dịng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận
chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ơng lái đị. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn
sóng nước cửa tử “vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất. Chúng
giống như mụ phù thủy ln tìm cách tiêu diệt con người.
Trùng vi thứ ba:
“Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa
bọn đá hậu vệ của con thác.” Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh
tan cái thuyền. Để rồi một trận đấu bóng quyết liệt đã diễn ra.
Con Sơng Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng
tiêu diệt thuyền bè trên dịng nước. Nó khơng chỉ mang tâm địa nham hiểm mà cịn có bộ mặt dữ tợn
“mặt hịn nào trơng cũng ngỡ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỡ này”.
Sự tạo hình ngẫu nhiên của tạo hóa dưới bàn tay của Nguyễn Tuân đã trở thành thế trận được sắp đặt đầy
toan tính. Chúng phân sẵn có vị trí cao thấp có tướng và võ sĩ, có cả địa bàn ẩn nấp trên và dưới, khi
chúng ẩn giấu tâm địa để đánh lừa con người, lúc lại vênh váo thách thức kiểu du côn “anh chị”. Sự hung
bạo chưa bao giờ rõ ràng như lúc này. Chúng không chỉ là âm thanh mà nổi hẳn thành hình khối. Trong
những khúc đại giang của văn học cũng có khơng ít những hiểm trở, gập ghềnh nhưng được đặt trong thế
tĩnh. Sự chuyển động hóa những hiểm nguy ở Đà giang chắc chỉ có ở văn chương bậc tài nhân như cụ
Nguyễn.

 Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sơng Đà đã
hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con
người chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta.
 Nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai

trị, vị trí của sơng Đà trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa đất nước.
“Ngày mai
Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên
Sông Đà gửi ánh sáng đi muôn ngả
Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên”

B.

Sơng Đà trữ tình
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về Nguyễn Tuân như sau: “mỡi khi cầm bút dường như
lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ được cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình. Ơng có thói quen
nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của nó, cố tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ. Đồng thời mỗi đối
tượng quan sát của ông là một đối tượng khảo sát đến kì cùng”. Vì vậy cơng trình mĩ thuật sơng Đà đâu
chỉ có nét tính cách hung bạo, đây cịn là một dịng sơng tuyệt vời thơ mộng. Khi mái chèo của ơng đị vừa
ngừng, dịng sơng “vặn mình vào một bến các có cái hang lạnh” và bỗng nhiên đổi vẻ. Từ mạn Thác Bờ về
xuôi, Đà giâng mang vẻ dịu dàng, đằm thắm như bất kì một dịng sơng nào ở vùng đồng bằng. Vốn văn
hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn
văn mượt mà như những bài thơ.

1.
Hình dáng Đà giang
Tơi có bay tạt ngang qua Sơng Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con sơng Tây Bắc hung bạo và trữ tình. … đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn.
a)

-

Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sơng Đà, không ai trong tàu bay nghĩ

rằng cái dây thừng ngoằn nghèo … Năm năm báo oắn đời đời đánh ghen.”
“ cái dây thừng ngoằn nghèo”
 Ca dao xưa ví cong cong uốn lượn như hình con long trên núi.

8|Page


Người lái đò sơng Đa
 Dịng sơng bỡng mềm đi, uyển chuyển, nhẹ nhàng thả mình trơi quanh những dãy núi, triền đê.
-

Tất cả sự dữ dằn của con thủy qi cuồng nộ với ơng đị, con sơng dữ dội trong câu đồng dao “Núi
cao sơng hãy cịn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” dần biến mất.
 Văn phong Nguyễn Tuân cứ bồng bềnh trôi theo từng nhánh sông lững lờ “từng nét sông tãi ra
trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”.

b)

-

-

-

“Con Sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt mương xuân.”
Cả câu văn dài chỉ có 1 dấu ngắt câu
 vẻ miên man, bất tận, nối liền, khơng dứt của dịng sơng dọc khắp chiều dài biên giới phía Tây
của Tổ quốc.

Một câu văn dài bốn hai âm tiết thì có tới hai chín thanh bằng, câu văn đọc ra êm ru mà dịng sơng
hiện về cùng thêm hiền hịa xiết bao. Đặc biệt trong cách miêu tả trên nhầ văn còn phú vẻ đẹp
đậm chất thơ người con gái Tây Bắc ấy.

(1)
“ tn dài tn dài”
Điệp từ
 Áng tóc mun huyền thoại “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải” thì.
Cịn nhớ trong “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” nhà cầm kí Hồng Phủ Ngọc Tường khi viết về sự
phóng khống, mam dại của Hương giang đã lấy “cô gái Digan” làm chuẩn mực.
(2)
“ áng tóc”
Nhà sáng tạo đã đem “áng thơ” đặt vào “áng tóc” – một cách chơi từ hiếm thấy trong văn học.

Phải chăng vì sơng Đà thơ mộng đến độ khiến cụ Nguyễn muốn đề thơ vào sông nước. Nhà văn đã dùng
cọ mẫu vẽ lên mấy nét khiến bức họa hiện lên xao động lòng người vừa nhuốm màu thơ, dậm tơ màu họa,
nữ tính e ấp như cơ gái đáng u. Bởi nó cịn được phủ lên tấm khăn voan mỏng của làn khói làm thi vị, hư
ảo đến lạ lùng. Sơng Đà ở góc độ này đã gom nhặt tất cả những gì là đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất, huyền
ảo nhất của mây trời Tây Bắc, những gì trẻ trung của hoa ban trắng và nét gần gũi và ấm áp của cuộc
sống đời thường.

2.
Màu nước sơng Đà
Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn
xuống dịng nước sơng Đà. … như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng
một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
-

a)
Dòng xanh ngọc bích

Trong xanh, quý phái và êm nhẹ
So ánh với màu xanh canh hến lờ đục của sông Gâm, sông Lô
 Niềm yêu, tâm hồn thích thị tài, kheo un bác.
Nếu Hồng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương niềm tự hào khi thuộc về một thành phố duy
nhất thì Nguyễn Tuân lại dành niềm thiên vị cho sông Đà.
b)

-

“lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bần đi vì rượu bữa bất mãn, bực
bội gì mỗi độ thu về”.
Xanh trong, dịu dàng vào mùa xuân nhưng vào thu Đà giang ngay lập tức chuyển sang sắc tím đỏ
giận dỡi.
 Tính khí thất thường lắm, nóng nảy.
Câu văn khơng chỉ gợi ra sắc màu, mà còn gợi ra tốc độ chậm rãi của dòng sông đỏ nặng phù sa
khi thu về.
 Nhà thơ Trần Quang Quý trong thi phẩm “Sông Đà” đã cất lời ngợi ca vẻ đẹp màu mỡ ấy:
“Sông Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ trung du
tơi ơm dịng sơng nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa
kể chuyện
gác lên sông những lườn cong nhớ
mơi phù sa khép bóng hồng hơn
mãi khuấy trong tôi nhịp những con thuyền.”
("Sông Đà", Trần Quang Quý)
Dòng phù sa nặng nề đang chảy. Phù sa ăm ắp sông Đà đã đang và sẽ đổ đi khắp ruộng lúc, bờ
dâu, bãi mía…để góp phần tơ điểm cho sự trù phú của Tổ quốc.

9|Page



Người lái đò sông Đa

c)

-

“nước sông Đà chưa bao giờ đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ta ra đổ mực tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu”.
Bực bội khi bọn thực dân cướp nước lại gọi một cách thơ bạo sơng Đà là dịng sơng Đen - sơng có
màu đen.
Luận điệu bác bỏ như một lời khẳng định, lời tố cáo luận điệu xảo trá của bọn thực dân.
 Ông muốn trả lại vẻ trữ tình vốn có cho sơng Đà khơng chỉ bởi tình u mến với Đà giang mà
cịn bởi ý thức về chủ quyền dân tộc, niềm tự hào với quê hương xứ sở.

3.
-

-

Cố nhân sông Đà

a)
“con sông Đà gợi cảm”.
Dành lời khen cho dịng sơng
Vẻ đẹp của người con gái ấy đã làm đắm say bao người nhưng mỗi người lại bị cuốn hút theo một
cách khác nhau.
b)
“ Đã có lần tơi nhìn Sơng Đà như một cố nhân”
Với Nguyễn Tn sống Đà níu kéo lịng ơng bởi nó là một “cố nhân”.
Ông đã từng sững sốt khi lần đầu đứng trước sơng Đà.

Ơng cũng đà từng tạt qua sơng Đà mấy lần.
Ông cũng từng ngồi chèo trên mặt nước ấy.
 Biết sông Đà từ trên cao hay rõ từ xa lại đều là những trải nghiệm của ông.
 Sông Đà giống như một người bạn cũ.
 Nên ông gọi sông Đà là “cố nhân” là một điều dễ hiểu, vừa quen thuộc, gần gửi lại vừa cổ kính,
trang trọng.
c)

-

Chuyến ấy đi rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thống …
qn mất là mình sắp đổ ra Sơng Đà.”
Tình huống được nhà văn miêu tả sau một chuyến đi rừng lâu ngày đã thể hiện dòng xúc cảm trào
dâng của văn nhân về người bạn cũ – sông Đà.
Cảm giác mơ hồ về sự “thèm chỗ thống”- muốn tìm một chỡ khống đạt, rộng rãi, nhà văn cứ đi
và thậm chí “qn đi mất là mình ắp đổ ra sơng Đà”.
 Mải bám gót anh liên lạc trở về, để rồi khi nhìn thấy con sơng Đà hiện ra bao nhiêu ký ức và kỷ
niệm lại ùa về và ngòi bút của Nguyễn Tuân một lần nữa thực sự thăng hoa.

d)

-

“thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy”.
dường như sơng Đà chỉ hiện ra một chút thôi
“ nghịch chiếu gương”
 Trò nghịch ngợm chiếu gương thuở còn thơ bé chắc hẳn khơng xa lạ gì với mỡi người chúng ta.
 Cái tôi độc đáo Nguyễn Tuân đã lấy thú vui u thích thời thơ ấu để hình dung về hình ảnh sơng
Đà trong giây phút gặp lại.

 Đó là cái nhìn chân thật của con người phải bộ hành trong rừng cây, đi bộ trên đèo dốc. Nhà
văn thậm chí cịn chưa đi ra ngồi cửa rừng, nên ơng chỉ nhìn thấy sơng Đà từ xa thấp thống
qua mấy hàng cây. Người nghệ sĩ ấy ắt hẳn phải say mê vẻ đẹp sơng Đà lắm mới nhanh chóng
nhận ra dịng sơng đến vậy.

e)

“Tơi nhìn thấy cái miếng sáng lóe lên như một màu nắng thắng ba
Đường thi “ yên hoa tam nguyệt há Dương Châu””

(1)

-

Miếng sáng
dịng ánh sáng chói chang từ mặt trời phản xuống lịng sơng, ánh sáng lấp lánh của dịng sơng hắt
qua từng khoảng cây, kẽ lá, đập vào mặt nhà thám hiểm.

(2)

-

-

Một màu nắng tháng ba Đường thi
Trong khoảnh khắc ấy, văn nhân ngẩn ngơ khi thấy dải nước sơng Đà “lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Nguyễn Tn u “hoa” và “thơ Đường” - một cơng trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt vời của tạo
hoá và một cơng trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt vời của con người, trở thành biểu tượng của
trạng thái nhân sinh.

 hình dung từ thường xuyên được ông sử dụng để tạo nghĩa cho hình tượng Tổ quốc tươi đẹp.
Ơng gọi con đường mới mở ở Tây Bắc là “Một bài thơ Đường”.

10 | P a g e


-

-

Người lái đò sông Đa
Và ông cũng thấy màu nước sông Đà ánh lên “màu nắng tháng ba Đường thi”.
 Câu thơ đầy gợi cảm của Lí Bạch nói về buổi tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở bên sông (Giữa tháng ba
mùa hoa khói xi (thuyền) về Dương Châu). Sự hư ảo của hoa khói cùng sắc ấm rực rỡ của
nắng xuân làm xao xuyến bao tầm hồn con người. Không gian như được đẩy về dòng thời gian
xa xăm, miên viễn. Ở đó nhà thơ phát hiện màu sắc thứ ba của sơng Đà – một sắc màu khơng
hề có trong hội họa – một sắc màu chỉ nảy sinh khi cảm xúc đặc biệt thăng hoa.

f)
“ Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bướm bướm trên sông Đà”
Niềm vui gặp lại “cố nhân” bật ra thành nhịp điệu hối hả, mau lẹ trong niềm sung sướng đang trào
dâng.
Gặp lại sông Đà văn nhân háo hức say mê, không kiềm lịng được
 cuốn vào khơng gian khống đạt, thơ mộng, ngập tràn màu sắc.
 Văn nhân không phải giấu đi những cảm xúc của mình. Ơng có q nhiều điều muốn nói nhưng
do cuống quýt tận hưởng vẻ đẹp của Đà giang mà quên mất phải thể hiện nó bằng ngơn từ.
g)

-


“vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm
bao đứt quãng”.
Thổ lộ nỡi lịng mình

(1)
“ Chiêm bao đứt qng
Chiêm bao là những mộng mơ dẹp đẽ của con người.
Mỡi người có thể có nhiều giấc chiêm báo nhưng mỡi một giấc mơ dường như là không giống nhau.
“nối lại chiêm bao đứt qng”
 Việc thật khó khăn.
 Sơng Đà với ơng phải chăng là một giấc mơ đẹp.
 Gặp lại sông Đà sau bao xa cách chính là hiện thực cho những điều hi hữu, hiếm có trong cuộc
đời. Vì vậy văn nhân mới vui mừng, sung sướng. Như vậy ít nhiều ta cũng hiểu vì sao niềm vui
gặp lại sơng Đà lại là niềm hạnh phúc khi nối lại chiêm bao.
(2)

-

“ thấy nắng giịn tan”
Khó khăn để hiểu cái hạnh phúc khi “thấy nắng giòn tan”.
Sau cơn mưa rầm rề, ẩm ướt, tối trời tối đất, việc thấy nắng là một niềm vui.
Tia nắng thật đẹp, quý giá, tuy dê vỡ nhưng lại là ao ước lớn
 Cảm nhận rõ thực thở vơ hình ấy và tưởng tượng ra nó “giịn tan”.
 Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỡi đợi chờ đã được cụ thể hóa qua những
so sánh thật độc đáo.

Sông Đà với Nguyễn Tuân như một vị “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng,
chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Thế nhưng khi được gặp lại “cố
nhân”, văn sĩ lại trào dâng một cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” của nắng xuân cứ thế thấm thía thêm niềm
hạnh phúc trong lịng mỡi người. Phải chăng bởi con sơng kia q gợi cảm và quyến rũ như một “người

tình nhân chưa quen biết”, dù rất quen nhưng cũng rất mới, khiến người ta khao khát được ngắm nhìn,
được làm thân.

4.

Cảnh vật hai bên bờ sơng
Ở hạ lưu, lịng sơng mở rộng, độ dốc khơng cịn, nước chảy hiền hịa giữa đơi bờ tiền sử. Nguyễn Tuân
dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sơng Đà. Để tơn thêm tính trữ tình của dịng sơng, nhà
văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ
để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả; lúc thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái
vắng lặng rất nên thơ của con sông này.

a)

-

“ Thuyền tôi trôi trên sông Đà.”
Câu văn mở đầu đoạn toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ.
Với điệp vần “tôi”, “trôi”
 bắt vào nhau văn nhân như đẩy con thuyền đi, khơng cần chèo chồng gì, lững lờ đi về một
miền yên ả, một cõi hoang sơ.

b)

-

“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa. cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Cảnh vừa thực vừa ảo, vừa gần gũi lại vừa xa xăm.


11 | P a g e


Người lái đò sông Đa
 Du khách đang lạc vào một bảng làng huyền ảo sương giăng. Để rồi ông đắm chìm trong thế

-

giới nguyên sơ, thuần khiết. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc
sống. Một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, cảnh vật ngập tràn, mơn mơn sức sống. Xuân ấm áp
như đang nâng niu từng nét e ấp, non tơ nhất của thiên nhiên, tạo vật.
Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “nhú”, “mấy”, “lá”, có một cái gì mềm mại trong
“đầu nhung”.
Ta chỉ nghe “ngọn cỏ”, “sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ.
 Sắc cỏ độc đáo nhuộm non cả đất trời, mở ra một khoảng xanh mênh mông, bất tận.
 Có được cái nhìn “xanh non, biếc rờn” ấy có chăng bởi vì tấm lịng đang hồi xn của tác giả và
cuộc đời lại một lần nữa nở hoa trong hành trình hồi sinh đất nước.

c)

-

“Cảnh ven sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thơi”.
Cảnh hoang sơ đến kì lạ trong dịng chảy q khứ.
 kkhoảng khơng gian ngun sơ, chưa từng có dấu vết của con người, như được đẩy về chiều dài
miên viễn của thời gian.

d)


-

“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.”
Nét cổ kính, hoang dại
Cái gần gũi, cụ thể, hữu hình lại được so sánh với cái xa xăm vơ hình.
 gợi lại cho người thưởng thức cả một bầu trời tuổi thơ - khoảng thời gian thần tiên trong hồn
người.
 Đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại và dịng sơng nào cũng là chứng
nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử trong đó có những
đổi thay của đời người.
Nhìn lại những câu văn trên, ta nhận thấy Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử,
trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh sơng. Dường như dịng sơng
lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. “Từ một cái hữu
hình nó thức dậy được những cái vơ hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được
một cái diện khơng gian thời gian”. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến
thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. “

e)

-

“Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng cịn xúp lê của
chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. … ”
Từ hiện tại văn nhân hướng khoảng không tới tương lai tươi sáng cho vùng đất già nua trẻ lại
Câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc đi lên xây dựng xã hội Chủ nghĩa ở
miền Bắc.
 Những dòng cảm xúc dạt dào đó từng hiện về trong thơ Tố Hữu:
“u biết mấy những dịng sơng bát ngát

Giữa đơi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua cơng trường mới dựng mái nhà son.”

-

(1)
Tiếng cịi sương
ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn.
Xưa Nguyễn Tuân thường mượn tiếng còi để báo hiện cuộc xê dịch, cảnh chia li. Nay ơng lấy tiếng
cịi để báo hiểu viễn cảnh về cuộc đời mới cho mảnh đất Tây Bắc tươi đẹp này.
 Với ông “Việt Nam là cái vườn đẹp trên đó nở rất nhiều hoa, ra rất nhiều trái” và đất “Tây Bắc
cũng là một cái vườn hoa trong đó mỡi dân tộc của mấy mươi dân tộc ít người là một giống hoa
đượm nhiều màu sắc. Và chế độ cộng hoà dân chủ chúng ta giống như một người làm vườn
khổng lồ vô cùng nhân ái đang ra công vun xới cho khu vườn Tây Bắc nở thêm nhiều hoa và
hoa Tây Bắc phải kết nhiều trái quả.
f)

-

“Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái
tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ơng khách sơng Đà, có phải ông cũng
vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.
Cuộc hội ngộ với con hươu chính là âm vang của tương lai va vào lịng thực tại
Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình.

12 | P a g e


g)


-

Người lái đò sông Đa

“đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi
thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến”
Tiếng đập nước của đánh thức người đang mộng.
 dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.

 Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngơn từ
đích thực, đến Nguyễn Tn, có lẽ lần đầu tiên con sơng Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với
vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả
Người lái đị sơng Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn
làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
TỔNG

KẾT

Khi miêu tả nét đẹp trữ tình của sơng Đà, Nguyễn Tn đã trực tiếp bộc lộ những trạng thái, cảm xúc,
bộc lộ cái tôi của mình trong những câu văn đầy sinh động và giàu chất thơ. Hai nét tính cách hồn
tồn đối nghịch nhưng lại đồng hiện trong một dịng sơng. Qua đó ta có thể thấy được tài hoa, vốn văn
hóa uyên bác và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân, nhờ đó đã phần nào tái hiện lên
một khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình làm ta thêm tự hào về Tổ quốc,
quê hương Việt Nam. Nhà báo Genevieve Sarah Loh của kênh News Asia đã nhận xét: “Việt Nam tuyệt
đẹp và khác biệt với thế giới, đồng thời có hẳn một bài phỏng vấn các nhân vật trong phim để lý giải
tại sao Việt Nam là địa điểm hoàn hảo của Kong”. Trong đó, bản thân đạo diễn Jordan Vogt-Roberts đã
từng chia sẻ: “Tôi đã yêu khung cảnh tại Việt Nam từ cái nhìn đầu tiên và lựa chọn nơi tuyệt đẹp này
cho bộ phim của mình. Rồi các bạn sẽ thấy, ngồi khung cảnh, bạn sẽ yêu cả ẩm thực, con người và
văn hố tại đây như cách tơi đã phải lịng”.


IV.

Hình tượng người lái đị sơng Đà
Trước cách mạng tháng 8, Nguyễn Tn đề ra cái tơi của mình thì sau cách mạng, cái tơi của nghệ
thuật ấy lại hịa quyện với cái ta chung của cộng đồng quần chúng nhân dân. Đó chính là hình tượng của
ơng lão lái đị, là đại diện cho những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra, như những bông hoa nở rực rỡ
trong vườn hoa của xã hội chủ nghĩa, đây chính là xu thế văn chương thời kỳ này chứ không phải riêng
Nguyễn Tuân thay đổi.

A.
-

Khái quát về nhân vật ông lái đị

1.
Người lao động vơ danh
Hình ảnh người lao động mới trong các sáng tác của Nguyễn Tuân thời kì đổi mới hầu hết đều là
nhân vật vô danh.
Là bạn vong niên với nhà văn nhưng ơng đị khơng được gọi bằng tên riêng.
 Đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
 Hình tượng người lái đị trở thành đại diện cho biết bao người lao động đang âm thầm, cần mẫn
trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự sống và bảo
vệ, xây dựng đất nước.
 Nâng nhân vật trở thành là một nhân vật điển hình trong văn chương mà nói như Pie-linski
“Điển hình trong văn chương là những người lạ mà ta đã từng quen biết từ rất lâu”.
 Hình tượng ơng đị trở nên lớn lao, kì vĩ mang hơi thở chung của thời đại mới nhưng cũng có
những nét rất riêng biệt.

2.

Tuổi tác và nghề nghiệp
Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ
làm nghề đơi chục năm.
3.
Ngoại hình
Trước hết, Nguyễn Tn miêu tả ngoại hình của ơng lão rất đặc biệt. Nhà văn nhận ra được dáng vẻ
riêng mà chỉ ông lão lái đị mới có.
-

Hai tay của ơng “dài lêu nghêu như hai cái sào”, “hai chân lúc nào nào cũng khuỳnh khuỳnh như
kẹp lấy cái cuống lái trong tưởng tượng”.
Dù đã bỏ nghề chục năm nay rồi nhưng lúc nào cũng cứ ngỡ mình đang chèo đị, vượt thác
 tạo nên những nét cá tính độc đáo trong người nghệ sĩ trên sông nước.

13 | P a g e


-

Người lái đò sông Đa
Tiếng gầm của sông nước dường như lúc nào cũng âm vang trong giọng nói của ông, hay như nhà
văn đã viết “tiếng nói ào ào của sông nước”. Lời của ông lão như một người ăn sóng nói gió.
Đơi mắt của ơng nửa thực nửa mơ như đang mơ về một bến bờ xa xăm trong sương mờ.
Dù đã ngồi 70 tuổi nhưng thân hình của ông lão vẫn khỏe mạnh và lực lưỡng “Gần bảy mươi tuổi,
cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất
mun...”.
 Dường như thời gian cũng phải bất lực trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của người đàn ông này.
Bởi thường khi làm một công việc nặng nhọc như vậy, người ta sẽ chóng già so với tuổi, vậy mà
người lái đò ấy từ gương mặt cho tới nụ cười đều là của tuổi trẻ nhiệt huyết, đúng với những gì
Nguyễn Tn đã viết: “Khn mặt của ơng he hé mở, nở miệng cười, tay lái của ông lão chẳng

khác nào một chàng trai”.

B.
-

-

Bối cảnh xuất hiện nhân vật
Người lái đị trong tác phẩm khơng được miêu tả chi tiết về số phận và tính cách mà phần lớn được
gợi lên, thông qua vẻ đẹp người lao động trí tuệ và tài hoa.
Xây dựng hai nhân vật đó là con sơng Đà và người lái đị trên dịng sông ấy.
 Dụng ý nghệ thuật cao tay.
 Nhà văn đưa nhân vật của mình vào trong hồn cảnh khó khăn mà ở đó, tất cả những phẩm
chất đều bộc lộ. Nói như nhà văn H. Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số
phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ “.
Bức tranh thiên nhiên dữ dội – con thủy quái hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là cái phông nên để tác
giả tô vẽ, ngợi ca, tơn vinh sức mạnh kì diệu của con người. Những thác ghềnh hiểm trở, những
sóng cuộn thét gạo và bầy thạch tinh hung hãn kia chỉ càng tôn lên hình ảnh một dung tướng tài
ba, một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đị vượt thác.
 Ở ơng lão, người đọc có thể dễ dàng thấy rằng đó thực sự là một người nghệ sĩ trên sông nước
với đầy kinh nghiệm đị giang, có bản lĩnh phi thường, lịng dũng cảm, sự gan dạ, vơ cùng mưu
trí, nhanh nhẹn và rất quyết đoán dù đã ở tuổi gần đất xa trời.

C.

Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật

1.
Ơng lái đị là một người rất mực trí dũng – người anh hùng sông nước
Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, chủ nghĩa anh hùng khơng chỉ có trên chiến trường bom đạn.

Hình tượng người anh hùng đâu chỉ xuất hiện trên chiến trường mưa bom bão đạn mà còn hiện hữu trong
cuộc sống đời thường vật lộn với thiên nhiên. Những người lao động đời thường nhưng lại đáng trân trọng
biết bao.
Nguyễn Tuân cho rằng “cuộc sống ở ta là một sự lớn lên khơng ngừng”, trái tim văn sĩ hồ cùng
nhịp đập của nhân dân lao động. Ông nhận thấy giá trị của cuộc sống là sự lao động không chỉ bằng sức
lực cơ bắp của tay chân mà còn lao động bằng trí óc tạo ra những sản phẩm tinh thần đầy nhân văn. Hình
tượng ơng lái đị Lai Châu trong tùy bút trên là một người lao động như vậy. Để có thể khuất phục và chế
ngự trước sự hung bạo của sơng Đà, ơng lão lái đị khơng chỉ có một bản lĩnh phi thường, một trí nhớ siêu
phàm mà cịn là một trí dũng song tồn. Và điều này được thể hiện rõ nhất khi ông lão vượt thác chèo đò,
vượt qua cả ba tầng trùng vi thạch trận.
Vẻ đẹp của ơng lão lái đị chính là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chèo đò vượt thác, cũng chính là
vẻ đẹp của người anh hùng trên sơng nước. Khơng chỉ đẹp về ngoại hình mà cịn đẹp về phẩm chất, tâm
hồn. Ơng ln phải đối mặt với những luồng sinh luồng tử, những trùng vi thạch trận, bởi vậy ta có thể
thấy bản lĩnh phi thường trong con người ấy. Ơng lão lái đị dám gắn bó cả mười năm đời mình với sơng
Đà, ngày nào cũng phải dành lại sự sống từ cái chết, bản lĩnh ấy được bộc lộ thông qua những hành động
của ông lão. Nếu như sông Đà được hiện lên như một con mãnh thú thì ơng lão lái đị lại gọi con sông Đà
chỉ đơn thuần là một người bạn lắm tật nhiều chứng. Nguyễn Tuân vận động kiến thức của cả hai lĩnh vực
thể thao và quân sự, ở đây, “trùng” là điệp trùng, “vi” là nhỏ, “thạch” là đá và “trận” là trận đồ. Nhà văn
gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên qng thủy chiến ở mặt trận sơng Đà. Đó là cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương chính
là kẻ thù số một của con người. Bằng cái nhìn sắc sảo của một nhà quân sự, Nguyên Tuân đã chỉ rõ sự
chênh lệch lớn về cả thế và lực giữa ơng lái đị và thác dữ. Nếu thác dữ đông đảo hùng hậu, hiếu chiến với
những “boong ke chìm”, “pháo đài nổi”, “đá tướng”, “đá quân”, “luồng ống”, “luồng chết” … đã giăng sẵn
trận địa với những vịng mai phục thì ơng lái đị đã bảy mươi tuổi, đơn độc trên con thuyền độc mộc chỉ có
mái chèo là vũ khí. Nhưng kì lạ thay, đối mặt với thác dữ, người lái đò ấy vẫn chẳng hề nao núng: “Ơng đị
hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đó cũng là bản lĩnh cứng

14 | P a g e



Người lái đò sông Đa

cỏi hiên ngang, là cái gan góc bình tĩnh của một người lao động Tây Bắc. Vẻ trí dũng của người lái đị Lai
Châu lần lượt diễn ra theo ba hiệp đấu của cuộc thủy chiến.
Hiệp đấu thứ nhất – bình tĩnh, sáng suốt, dũng cảm, can trường

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc ấn tượng trước những câu văn tả đá được nhân hóa như
một đội qn “đá tảng đá hịn”, “đá tiền vệ” bày ra thạch trận với năm cửa ải gồm một cửa sinh và bốn
cửa tử. Cửa sinh nằm ở phía tả ngạn, ở đây có hai hịn đá tiền vệ với nhiệm vụ dẫn dụ con thuyền đi vào
vùng sơ hở. Mỡi hịn đá, tảng đá nơi ải nước hiểm trở đều như có hình hài, tính cách của một tên địch
quân nham hiểm hiếu chiến. Trận cận chiến được mở đầu bằng những hành động có vẻ tràn đầy tinh thần
thượng võ “một hịn ấy trơng nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước
khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Thiên
nhiên thực sự giữ vai trị chủ động trong việc mai phục con người, như được thể lấn tới “sóng nước như thể
quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hơng thuyền”, “ùa vào bẻ gãy cán chèo
vũ khí trên cánh tay” rồi có lúc “chúng đội cả thuyền lên”. Một chiếc thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu
để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận đại sẵn.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình. Mặt nước thì hị la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ơng
lái đị. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xơng thẳng vào người lái đị tiến sát
nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước
bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt,
ơng lái đị vẫn khơng hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua
ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh địn tỉa, đánh địn âm vào chỗ hiểm”. Xin lưu ý
rằng ở đây nhà văn không dùng từ “méo xệch” mà dùng từ “méo bệch”. Thì ra cái đau đớn, tàn bạo của
dịng nước làm cho con người ta bợt bạt cả sắc mặt. Sự đau đớn cộng thêm phải ở lâu trong nước lạnh là
cơ sở để Nguyễn Tuân khoe tài dùng một từ đặt như vậy. Đồng thời sự đau đớn của ông lái đò còn được
văn nhân gợi về trong cảm nhận của cả thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lịa sáng lên như một
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu ngọn sóng”. Sóng thác dữ dội đập vào da thịt đau

rát. Vẻ đau đớn được miêu tả cụ thể như tóe lửa, bỏng cháy. Tuy nhiên ơng đị vẫn kiên cường, bản lĩnh
như một chiến binh thực thụ. Trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn
mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Ông xử lý hết sức ngắn
gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở.
Hiệp đấu thứ hai – thơng minh, mưu trí, bền bỉ
Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất, ông phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai. Trùng vi thứ hai
tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, bốn năm bọn thủy ngân khơng
ngớt khiêu khích để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham
hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Nhưng ơng lái đị đã “nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá”, khơng một chút nghỉ tay
nghỉ mắt, ơng lái đị tiếp tục cơng cuộc chinh phục thiên nhiên của mình. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc
đáo Nguyễn như thấy ông lái đị khơng phải chèo thuyền vượt thác mà là “cưỡi lên thác nước sông Đà”.
Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả địn bẩy tác giả đã ví thác sơng Đà như một con hổ hung bạo đã vào
cuộc chiến sinh tử với người lái đị. Nên ơng lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm
đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỡ bám, chỡ ghì tay. Rồi ơng đị
ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào
cửa sinh. Cái tư thế oai phong, hùng dũng, táo bạo, nhanh nhẹn gợi hình ảnh Võ Tịng đánh hổ trong tiểu
thuyết “Thủy hử” của Thi Nại Am. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó khơng để chút sơ hở cho con
thuyền có lối thốt. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỡ lũ đá đang mai phục. Khơng chỉ có thế, một
bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xơ ra để níu con thuyền vào cửa tử.
Nhưng ơng đị đã nhớ mặt từng đứa một, “đứa thì ơng tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ơng đè sấn lên,
chặt đơi ra để lấy đường tiến”. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai
tiếng reo hị của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ơng lái đị lại anh
hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sơng Đà. Cái hùng vĩ của sóng nước hùm thiêng sẽ đưa
con người dám đương đầu và chiến thắng thần đá, thần sông lên hàng của oai linh tối thượng.
Hiệp đấu thứ ba – tài hoa, điêu luyện

15 | P a g e



Người lái đò sông Đa

Không một chút nghỉ tay, người lái đò giữ vững tâm thế tiếp tục với cuộc chiến đấu của mình tiến
vào trùng vi thạch trận thứ ba. Nếu như ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai, Nguyễn Tuân cực tả về vẻ
đẹp trí dũng song tồn và phẩm chất anh hùng của ơng lái đị thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tn muốn
cho người đọc thấy được sự khéo léo của ông lái đị. Lần này, tuy ít cửa hơn nhưng “bên phải, bên trái đều
là luồng chết” khiến ơng lão lái đị phải vận dụng mọi tài năng và kinh nghiệm của mình để đương đầu.
Một ơng lái đị và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một
thiên nhiên hung dữ.

Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, ơng lão phóng thẳng thuyền trọc
thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. “Vút, vút”, cửa ngoài, cửa trong lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được.
Một loại những hành động nhanh mạnh như: “Phóng nhanh”, “phóng thẳng”, “lái miết một đường”, “chọc
thủng”, “xuyên nhanh”, “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng,
câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Không chỉ vậy, chính những
động từ mạnh độc đáo ấy đã phần nào nhấn mạnh tốc độ lái thuyền của người lái đò, cùng với nhiều phép
so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh nhưng cũng vừa thấy được sự khéo
léo qua hướng đi luồn lách, tránh đội quân đá hùng hậu của con thuyền. Hơn nữa, thủ pháp nghệ thuật
tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên
là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả
năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đị trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn
sóng thác” nhưng vẫn hiện lên như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

2.

Ơng lái đị là một người rất mực tài hoa – người nghệ sĩ trong nghệ thuật
chèo thuyền vượt thác
Là một nhà văn yêu cái đẹp, hướng tới cái phi thường để gây ấn tượng mãnh liệt, Nguyễn Tn
ln nhìn nhận con người dưới góc độ tài hoa, nghệ sĩ. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của

Nguyễn Tn có nghĩa rộng, khơng cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề
chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi
và siêu phàm. Nhà văn cũng công nhận và tự hào cái công lao của những người không làm văn nghệ trên
mặt trận văn hóa, nhưng góp mồ hơi cơng sức của mình vào cơng cuộc xây dựng đất nước.
Trong người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn đã xây dựng một hình tượng người lái đị nghệ sĩ mà nhà
văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nguyễn Tuân đã tạo ra một địch thủ xứng tầm với con người. Quy luật
ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nhưng tài năng của ơng đị là không thể xem nhẹ.
Cái tài hoa của người lái đị trước tiên được biểu hiện ở trí nhớ siêu phàm. Ngay từ trang đầu tiên
của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã viết về khoảng thời gian người lái đò đã từng gắn bó trên sơng nước. Mười
năm - đối với một ông lão bảy mươi tuổi đầy kinh nghiệm, từng trải đó vốn dĩ cũng chỉ là một chặng
đường. Nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày ngày đều phải cưỡi trên sông Đà như cưỡi hổ, ngày ngày
phải đối mặt với biết bao con thác dữ và chẳng ngày nào là không phải đương đầu với thạch trận thủy
chiến, xuyên suốt từng đấy năm tháng không ngày nào là không đối diện với cái chết, bởi vậy mười năm
ấy tưởng chừng dài như cả một đời người, dài cả trăm năm. Vì vậy ơng lão dù tuổi đã cao nhưng cịn sở
hữu một trí nhớ siêu phàm. Ơng là một linh hồn muôn thuở của sông nước. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông
ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đi én sau
chèo”. Có lẽ bao tình cảm, u quý sông Đà của Nguyễn Tuân đều được gửi gắm ở nhân vật ơng lão lái đị,
để nhân vật của mình gắn bó với sơng Đà như máu thịt, hiểu và u dịng sơng đến mức thuộc lịng hơn
một nghìn tên thác, tên ghềnh dù dễ hay khó đều hội tụ và lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim
của ơng lão hay chính là trái tim người nghệ sĩ tài ba Nguyễn Tuân. Sông Đà giống như “một trường thiên
anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Trong
cuộc chiến với bầy thạch tinh hung hãn trên sông Đà, Nguyễn Tuân một lần nữa khẳng định cái tài của
người nghệ sĩ “ông nắm chắc binh pháp của thần sơng, thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở”. Đến đây, ta băn khoăn tự hỏi, có phải chính vẻ đẹp của ơng đò trong thiên tùy bút này đã
gợi cảm hứng để nhà thơ Vũ Quần Phương viết lên những dòng thơ mộc mạc:
"Tơi thuộc ngầm thuộc đá
Tơi thuộc lũ, thuộc dịng
[...]
Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà

Nước là bầu là bạn
Tơi nhìn nước trên sơng

16 | P a g e


Gắng hiểu dịng dưới đáy"
(Với sơng Đà - Vũ Quần Phương)

Người lái đò sơng Đa

Ơng lái đị khơng có đơi cánh tay của thần Hecquyn nhưng vì làm chủ được các quy luật tất yếu của sơng
Đà nên ơng có tự do và đạt tới điểm chạm của nghệ thuật. Đó chính là cái tài của người lái đị sơng Đà mà
như Emile Zola từng nói: “Người nghệ sĩ chẳng là gì nếu thiếu tài năng, nhưng tài năng chẳng là gì nếu
khơng có lao động”.
Cái tài hoa của người lái đò Lai Châu còn hiện ra qua tay lái điêu luyện như một nghệ sĩ kéo đàn
violon trên sông. Giữa cái thế giới độc dữ, một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều
phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở “những khúc sơng khơng có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn
ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo”. Chung quy lại, nơi nào
cũng hiểm nguy. Nhưng ơng lái đị trên trận mạc, khơn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi
giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Nhà văn miêu tả cái chiến
thắng của tay lái ra hoa bằng những động từ nhuần nhuyễn và hết sức chính xác “lái miết một đường
chéo về phía cửa đá ấy… Thuyền vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài cửa trong lại
cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được.” Một sự điều khiển, luồn lạnh vừa mềm mại, vừa mạnh mẽ. Mỗi một động tác chèo thuyền của
người nghệ sĩ như một đường cọ hiện ra trên bức tranh sông nước. Sự th̀n thục trong nghề nhiệp của
ơng đị đã nâng lên thành hình ảnh của người nghệ sĩ chèo thuyền, vượt thác. Tư thế ấy đi vào trong cả
các áng thơ văn trên sơng nước:
“Con thuyền đi én lượn bay
Qua sóng, qua gió, qua ngày, qua đêm

Sơng Đà, thác dữ cũng êm
Chở chồng, chở vợ, chở dun, chở tình.”

3.
Ơng cịn là con người có phong thái ung dung, bình dị
Trong cuộc sống lao động đời thường, người lái đò hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn bình dị, khiêm
nhường. Sau những lần chèo đị vượt thác, khi sơng nước trở lại cảnh thanh bình, “dịng sơng vặn mình
vào một cái bến cát cị hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” người lái đị trở về cuộc sống
thường ngày, “nướng ống cơm lam” và kể chuyện về những loài cá quý hiếm ở Sông Đà. Tất cả họ không
bàn thêm về chiến thắng vừa dành được của mình trên Sông Đà. Bởi thế mới thấy, con người Tây Bắc là
thế, họ xem những cuộc chiến đấu như cuộc sống thường ngày của mình để rồi khi nhìn lại đó là những kỉ
niệm, những niềm vui chứ không hề là khó khăn thử thách. Với họ, cuộc chiến đấu và chiến thắng sông Đà
chỉ là một câu chuyện thường ngày. “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội,
ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những con thác, nên nó cũng khơng có gì là hồi hộp đáng nhớ.”
Ấy chính là phẩm chất đặc biệt của những anh hùng đang lặng thầm trong lao động sản xuất và ngay
trong cả cuộc sống thường ngày. Lớp lớp những con người như thế đã được trân trọng, ngợi ca trong
trường ca của Nguyễn Khoa Điềm:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

4.

Ý nghĩa hình tượng người lái đị Sơng Đà
- Là “ chất vàng mười” của tâm hồn mà Nguyễn Tuân lên Tây Bắc để tìm kiếm.
- Là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động, sản xuất: người anh hùng khơng
chỉ có trong chiến đấu mà cịn có trong lao động, ở nơi xa xơi, hẻo lánh.
- Thể hiện quan niệm mới mẻ, độc đấo của Nguyễn Tn về người nghệ sĩ: Nghệ sĩ khơng chỉ có
trong lĩnh vực nghệ thuật mà trong mọi ngành nghề, công việc khi người ta có sự đam mê, tài hoa,

điêu luyện.
 Qua hình tượng người lái đị, Nguyễn Tn bày tỏ thái độ mên yêu, cảm phục và tự hào về người
lao động vùng cao Tây Bắc nói chung - những con người bình dị mà rất phi thường đang ngày đêm
âm thầm cống hiến sức lực của mình để dựng xây đất nước – những người mà nhà văn trân trọng
gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”. Hình ảnh người lái đị khiến độc giả hồi niệm về người anh
hùng Uylixơ của thiên anh hùng ca Homerơ viết thuở nào. Cũng lại có dánh dấp của hình ảnh ơng
già nơi biển cả trong tác phẩm “Ơng già và biển cả” của nhà Noben văn học - Heminway bởi sự

17 | P a g e


Người lái đò sông Đa

chinh phục và chiến thắng sức mạnh của thiên nhiên. Và chúng ta đều hiểu rằng bài ca người lái
đị ấy chính là sự kết hợp giữa tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và thái độ biết ơn trân trọng phẩm
chất của người lao động trong quá trình xây dựng cuộc sống mới xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc.
C TÔ ̉NG KÊ ́T

I

Nghệ thuật
- Tùy bút Người lái đị Sơng Đà đã thể hiện rõ nét các đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: dịng sơng được miêu tả như một cơng trình
mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Hình tượng Sơng Đà được tác giả khắc họa rất nổi bật với hai đặc điểm:
vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Khi như con thủy quái cuồng nộ lúc lại e ấp như người
thiếu nữ. Đà giang như một nét vừa duyên dáng của bức tranh non nước, vừa hùng vĩ trên nền giang sơn,
Tổ quốc.
Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một dũng tướng tài năng mà
điêu luyện trong nghệ thuật chèo thuyền.

- Đồng thời ở thiên tùy bút này tác giả thể hiện vốn kiến thức uyên bác khi vận dụng ngôn ngữ điêu luyện
của nhiều nghành nghề khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,... huy động tri thức của
nhiều lĩnh vực như địa lý, lịch sử, võ thuật,thể thao,quân sự để xây dựng hình tượng. Nói như PSG.TS Đồn
Trọng Huy "Nguyễn Tuân như người họa sĩ tài năng có nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo anên những tuyệt
tác mỹ thuật đầy màu sắc mà lung linh huyền ảo. Có những trang viết lại giàu chất tạo hình bài trí phối
cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn điện ảnh."
- Nhà sáng tạo có những tưởng tượng độc đáo khi sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa
cùng với những hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hiện lên vô cùng sống
động và hấp dẫn.
- Văn nhân cũng cân trọng trong từng dấu chấm, dấu phảy để đem tới những câu văn giàu nhịp điệu phù
hợp với từng diễn biến, từng hình tượng ứng với từng khía cạnh. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa
cợt bơng phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xơ bồ bừa bãinhư là ném ra trong một cơn say chếnh
chống, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỡi tài hoa." Văn nhân cẩn trọng trong từng dấu chấm,
dấu phảy để đem tới những câu văn giàu nhịp điệu phù hợp với từng diễn biến, từng hình tượng ứng với
từng khía cạnh. Những câu văn dài êm ru tồn thanh bằng trong áng sơng đà trữ tình, hiền hịa. Khi lại là
những câu văn ngắn đầy khúc khuỷu, trúc trắc nơi dịng sơng hung bạo. Rồi có lúc nhịp văn ngắn, nhanh,
mạnh trong sự chiến đấu quả cảm của ơng đị. Song lại là điệu bình than sau những cuộc hỗn chiến.
- Nhà ảo thuật về ngôn từ sử dụng vốn ngơn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc, đậm chất tạo
hình, rất sắc sảo. Ơng phóng ra hơn 300 động từ mạnh khi nói về con thủy quái nhưng lại dùng nhưng từ
ngữ thật gợi cảm để nói về cơ gái sơng Đà.
- Nguyễn có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy bút là khơng có ngun tắc gì cả”. Chính
bởi ưu thế này, thể tùy bút đã giúp ông phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan của mình cùng trí
tưởng tượng phong phú, mãnh liệt và giác quan tinh nhạy. Câu văn cứ thế ùa ra theo từng đợt sóng cảm
xúc.

V.

Nội dung
“Người lái đị Sơng Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu dất nước say đắm, thiết tha của một
con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên

nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
- Một con sông" Hung bạo" và " Trữ tình".
- Một người lái đị tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Tây Bắc tài trí, dũng cảm trong lao động.

18 | P a g e



×