Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

6 bài văn cảm nhận người lái đò sông đà (toàn bộ tác phẩm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.36 KB, 19 trang )

Đề 1: con sông Đà hung bạo: “Hùng vĩ của sơng Đà khơng chỉ có thác đá… rút
lên cái gậy đánh phèn”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với 2 chữ viết
hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi sâu
vào cái nhiễu nhương, xô bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái đẹp
ẩn sâu trong con người, trong nền văn hoá ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất nước.
Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in đậm
dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong đó có tuỳ bút tiêu biểu “Người lái đị sơng Đà”,
một tác phẩm đã góp phần đưa Nguyễn Tuân lên vị trí “tùy bút gia” của văn xi hiện đại Việt Nam.
Trong thiên tùy bút xuất sắc này, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng
sơng Đà thành một tuyệt tác của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta sẽ thấy rõ
hơn nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: “Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác
đá… rút lên cái gậy đánh phèn”
Tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Được in trong
tập Sông Đà (1960), tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng 10
đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vơ danh. Tuỳ bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyên Tuân “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao
động bình dị ở Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng sơng Đà trong đoạn
trích này thuộc phần đầu tác phẩm. Đến với sông Đà, người nghệ sĩ Nguyễn Tuân không chỉ thưởng
ngoạn dịng sơng như một dịng chảy tự nhiên mà trong cái nhìn phát hiện của nhà văn, sơng Đà như một
sinh thể có hồn và 2 nét tính cách trái ngược là hung bạo và trữ tình. Ở đoạn trích này, ngịi bút tài hoa,
un bác của Nguyễn Tn đã làm sống dậy vẻ đẹp hùng vĩ và nét tính cách dữ dằn, hung bạo của Đà
giang ở khúc thượng nguồn.
Sơng Đà trong cái nhìn đắm say của nhà văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thật hùng vĩ. Sự hùng vĩ của
sông Đà trước hết là ở địa thế hiểm trở với cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Hình ảnh “đá bờ sơng dựng
vách thành” khơng chỉ thể hiện sự hùng vĩ, vững chãi thâm nghiêm mà còn hé mở sức mạnh bí ẩn đầy đe
doạ của vách núi như thành cao, vực thẳm như hào sâu ở 2 bên bờ sông Đà. Nhà văn đã khơi sâu vào


tưởng tượng và cảm giác để giúp người đọc hình dung một cách cụ thể cái hẹp của lịng sơng và cái cao
của vách đá. Không dừng lại ở một so sánh, đo độ hẹp của lịng sơng bằng bước nhảy của con nai, con hổ
“đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, nhà văn cịn đưa ra một so sánh đầy ấn tượng
“Có vách đá thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu”. Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh “cái yết
hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt về độ hẹp của lịng sơng khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.
Miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác là một nét rất quen thuộc trong phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân. Nét đặc sắc ấy được thể hiện ở phát hiện của nhà văn về sự tương phản của cảm giác khi
“ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc


biệt, cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã tạo ra ấn tượng rất mạnh khi lấy hè phố để miêu tả mặt sơng, lấy
nhà cao để gợi tả từ ngồi vào khúc sơng có đá hun hút dựng vách thành. Vẻ đẹp hùng vĩ của Đà giang
còn được Nguyễn Tuân tơ đậm thêm bằng cảnh sóng nước sơng Đà “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.
Câu văn với tiết tấu nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc và những từ ngữ điệp nối tiếp nhau đã tái
hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, của sóng, gió và đá
sơng Đà. Trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp trên mặt ghềnh. Lối
viết tăng cấp mãi của Nguyễn Tn “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” in dấu sự cơng phu của nhà
văn lên từng con chữ. Theo dòng văn Nguyễn Tuân, người đọc được chiêm ngưỡng một khung cảnh sông
nước thật hùng vĩ và tráng lệ. Nước sông Đà, đá sông Đà, sóng gió sơng Đà cùng cộng hưởng, thanh viện
cho nhau như muốn bay lên chiếm lĩnh cả bầu trời.
Không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, sông Đà trên trang viết của Nguyễn Tn cịn có tính cách thật hung bạo.
Nguyễn Tuân gọi sông Đà ở khúc thượng nguồn với thác lũ, đá ngầm và vực xốy là dịng hung bạo.
Sơng Đà, con ác quỷ, kẻ thù số một của con người, toả ra nhiều chiều hung hãn trong cái nhìn phát hiện
của nhà văn. Viết về sự dữ dội, hung bạo của Đà giang, Nguyễn Tuân đã dựng lên một bức tranh chân
thực, đã tung ra nhiều chi tiết đắt giá, đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để quyết 1 phen thi tài với tạo
hố. Tính cách hung bạo của Đà giang được hé mở ở ngay chi tiết nhà văn miêu tả cảnh sóng nước sơng
Đà “cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị sơng Đà nào
tóm được qua đấy”. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh nhân hố, so sánh “như địi nợ xt bất cứ người lái đị

sơng Đà nào tóm được qua đấy” đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dịng sơng.
“Nợ xt” là nợ khơng có vẫn địi, là địi người khơng mắc nợ với mình một cách vơ lý, khơng địi bằng
tiền, mà đòi bằng mạng sống của con người. Với từ “nợ xuýt”, Nguyễn Tuân đã đóng góp thêm vào từ
điển Tiếng Việt một từ thật mới mẻ, độc đáo.
Sự dữ dằn, hung bạo của Đà giang được thể hiện ấn tượng nhất ở những “cái hút nước” ở quãng Tà
Mường Vát. Một loạt những so sánh độc đáo khiến cái hút nước hiện lên thật sống động. Cái hút nước
hiện ra trong hình ảnh “một cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu”, trong âm thanh
“thở và kêu như cái cống bị sặc”, trong hình ảnh và âm thanh “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như
vừa rót dầu sơi vào”. Những chi tiết nghệ thuật đắt giá ấy đem đến cảm nhận những cái hút nước ở quãng
Tà Mường Vát như một con quái vật đang trong cơn giận dữ khủng khiếp. Đặc biệt, hình ảnh liên tưởng
đến “qng đường mượn cạp ra ngồi bờ vực” đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng
nếu phải đi thuyền men gần những cái hút nước đáng sợ. Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ dẫn
dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xốy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn
quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một
cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một “thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc
“nước sơng xanh ve một áng thuỷ tình khối đúc dày”, và thậm chí cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của
con người khi trong lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ tan” có thể ụp vào người bất cứ lúc nào, khi
“đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc là rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước
khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ rừng
“nghênh ngang vô ý”, đã bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay một cái thuyền nào đó “bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng…rồi tan xác


ở khuỷnh sơng dưới”. Như vậy, trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, những cái bẫy chết người cho con
thuyền nào dám mon men qua đây. Đó chính là tâm địa hiểm ác của Đà giang, là biểu hiện cho tính cách
hung bạo của dịng sơng.
Trong đoạn trích, hình tượng sơng Đà đã được Nguyễn Tuân thể hiện thành công bằng nhiều nét nghệ
thuật đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Về tính cách hung bạo của
Đà giang, từ xa xưa, ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh-Thuỷ Tinh “Núi cao sơng hãy cịn

dài-Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen”. Nhưng Nguyễn Tuân không dùng lối huyền thoại như thế. Nhà
văn đã dựng lên những bức tranh chân thực về cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của sơng Đà khiến người
đọc phải rùng mình, sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Nguyễn Tuân đã tung ra bao nhiêu liên tưởng,
nhân hoá, so sánh táo bạo, đắt giá bao nhiêu từ ngữ gân guốc, sắc cạnh, vừa mới lạ vừa giàu giá trị tạo
hình, bao nhiêu câu văn có tiết tấu gay gắt, mạnh, dồn dập và đặc biệt nhà văn đã vận dụng tri thức của rất
nhiều lĩnh vực như: địa lý, quân sự, võ thuật, điện ảnh. Bởi vậy sơng Đà sơi sục trong dịng chảy văn
chương, ào ạt trong dòng chảy chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp
phần làm bật lên vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và sự dữ dội, hung bạo của Đà giang. Miêu tả sông Đà như thế
là nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh những thử thách ghê gớm của thiên nhiên đối với con người
nhằm tôn vinh sức mạnh và tài năng của con người lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Qua hình tượng sơng Đà, ta đã thấy rõ hơn nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó địi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là
có nét riêng, mới lạ thể hiện trong sáng tác của mình. Là một nghệ sĩ lớn, Nguyễn Tuân đã in dấu ấn trên
văn bản bởi một phong cách nghệ thuật độc đáo mang đậm chất Nguyễn. Trong tuỳ bút “ Người lái đị
Sơng Đà”, qua hình tượng dịng sơng, người đọc bị lơi cuốn bởi một phong cách nghệ thuật độc đáo được
thể hiện ở sự uyên bác và tài hoa. Sự uyên bác trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể
hiện ở vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực và khả năng liên tưởng độc đáo. Nếu khi miêu tả sự hùng
vĩ, dữ dằn, hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân vận dụng rất nhiều kiến thức trong và ngoài ngành nghệ
thuật như quân sự, võ thuật, điện ảnh, âm nhạc để khiến con người phải dậy sóng, dậy gió thì khi khám
phá vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang, bao nhiêu hiểu biết về hội hoạ, lịch sử, địa lí lại ùa về trên
trang văn của Nguyễn Tuân. Sự uyên bác của cái tôi Nguyễn Tuân giúp dịng sơng hiện lên ở nhiều góc
độ và vẻ đẹp khác nhau; đồng thời khiến tuỳ bút như một công trình khảo cứu cơng phu ghi dấu sự lao
động miệt mài của nhà văn. Chất tài hoa trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện ở
cảm hứng mãnh liệt với những gì gây cảm giác mạnh, gây ấn tượng sâu đậm, độc đáo. Bởi vậy, sông Đà
trên trang viết của Nguyễn Tuân khi dữ dội thì tới mức khủng khiếp như một con ác quỷ nhưng khi trữ
tình, thơ mộng thì lại đẹp tới mức tuyệt mĩ. Tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ là một nét tài
hoa, độc đáo của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đặc biệt, NT nổi tiếng với cách hành văn cầu kỳ và độc đáo.
Nhà văn công phu đến mức khổ hạnh trong việc sáng tạo ngôn từ, kiến tạo câu văn. Đây chính là một nét
rất riêng trong phong cách nghệ thuật của NT. Ngôn ngữ tiếng việt qua ngịi bút tài hoa của NT như 1
khối vng rubic biến hóa khơn lường. Nếu khi miêu tả dịng sông Đà hung bạo với hút nước, đá ngầm và

thạch trận, NT đã tung ra bao nhiêu từ ngữ gân guốc, sắc cạnh với những câu văn mang tiết tấu gắt mạnh,
dồn dập thì khi thể hiện vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang, câu văn của Nguyễn Tuân bỗng êm ả,
nhịp nhàng, trùng điệp, căng tràn, ngôn ngữ vừa giàu chất tạo hình vừa thấm đẫm chất thơ. Đặc biệt,
Nguyễn Tuân đã có những so sánh, liên tưởng độc đáo giàu tính mĩ thuật, những hình ảnh, ngơn từ mới lạ
như “địi nợ xt”, “đánh hồi lùng”, “trùng vi thạch trận”, “áng có sương”, “con hươu thơ ngộ”,... Phong
cách nghệ thuật độc đáo đã đưa Nguyễn Tuân lên vị trí cây đại thụ trong nền văn học hiện đại Việt Nam.


Bằng những hình ảnh so sánh, nhân hố táo bạo mà kì thú, qua lối tạo hình ảnh giàu tính mĩ thuật, nhà
văn nguyễn Tuân đã khơi dậy được vẻ đẹp hùng vĩ và tính cách hung bạo của Đà giang. Trên trang văn
mang đậm chất Nguyễn, sông Đà đẹp một cách hùng vĩ, tráng lệ nhưng cx hiểm ác, hung bạo như một
con ác quỷ, một thứ kẻ thù số một của con người. Phải chăng, nhà văn đã đặt tất cả rung động của lịng
mình vào giữa dịng hung bạo để bắt con sơng phải dậy sóng, dậy gió trên trang viết của mình. Qua hình
tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta khơng chỉ thấy được nét tài hoa, uyên bác trong phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân mà cịn cảm nhận được tình u thiên nhiên, đất nước thiết tha, sâu nặng của nhà văn.
Viết một tùy bút khơng q khó nhưng để viết như một sở trường thì chỉ có Nguyễn Tn. Với tuỳ bút
“người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn xứng đáng được tơn vinh là “tùy bút gia” của văn học hiện đại Việt
Nam. Trước Nguyễn Tuân, sông Đà đã ngang ngược chảy ngược trong thơ Nguyễn Quang Bích nhưng
phải đến tuỳ bút này của Nguyễn Tuân, sông Đà mới được khám phá như một cơng trình mĩ thuật tuyệt
vời của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta càng thêm yêu thiên nhiên xứ sở, từ
đó có ý thức giữ gìn và bảo vệ non sơng gấm vóc của Tổ quốc.

Đề 2: con sơng Đà trữ tình: “Con Sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc
trữ tình…rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với 2 chữ viết
hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi sâu
vào cái nhiễu nhương, xô bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái đẹp
ẩn sâu trong con người, trong nền văn hoá ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất nước.
Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in đậm
dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong đó có tuỳ bút tiêu biểu “Người lái đị sơng Đà”,

một tác phẩm đã góp phần đưa Nguyễn Tuân lên vị trí “tùy bút gia” của văn xi hiện đại Việt Nam.
Trong thiên tùy bút xuất sắc này, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tn đã xây dựng thành cơng hình tượng
sơng Đà thành một tuyệt tác của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta sẽ thấy rõ
hơn “cái tôi” độc đáo của Nguyễn Tuân: “Con Sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình…rồi
chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”
Tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Được in trong
tập Sông Đà (1960), tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xơi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng 10
đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vơ danh. Tuỳ bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyên Tuân “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đị sơng Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động
bình dị ở Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng sơng Đà trong đoạn trích
này thuộc phần đầu tác phẩm. Đến với sông Đà, người nghệ sĩ Nguyễn Tn khơng chỉ thưởng ngoạn
dịng sơng như một dịng chảy tự nhiên mà trong cái nhìn phát hiện của nhà văn, sơng Đà như một sinh
thể có hồn và 2 nét tính cách trái ngược là hung bạo và trữ tình. Ở đoạn trích này, ngịi bút tài hoa, un
bác của Nguyễn Tuân đã làm sống dậy vẻ trữ tình, thơ mộng của Đà giang ở khúc trung lưu, hạ lưu.


Ở khúc thượng nguồn, sông Đà ác quỷ là thế, ấy vậy mà đến khúc trung lưu, hạ lưu, sông Đà bỗng rùng
mình, thốt xác. “Dịng sơng vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí
nhớ. Sơng nước lại thanh bình “. Dịng hung bạo bỗng thay đổi tâm tính để trở thành dịng thơ mộng trữ
tình. Viết về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của Đà giang, Nguyễn Tn khơng kể, khơng tả theo lời của người
khác mà chính trải nghiệm của bản thân. Mỗi lần thưởng ngoạn sông Đà, nhà văn lại phát hiện ra một nét
đẹp của dịng sơng. Khám phá sự vật dưới nhiều góc nhìn là một nét phong cách nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân.
Từ điểm nhìn trên cao, Nguyễn Tn phát hiện sơng đà mang vẻ đẹp của một mỹ nhân. Dòng chảy uốn
lượn của con sơng khiến Nguyễn Tn liên tưởng đến áng tóc của người thiếu nữ “ con sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng

hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân “. Câu văn trải dài mênh mang chỉ có một dấu
ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ “ tn dài “ và những hình ảnh giàu chất thơ vừa gợi đường nét
mềm mại giàu nữ tính, vừa cho người đọc cảm nhận được độ dài bất tận của dịng sơng. Những
thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn như nhân lên vẻ bình lặng, êm đềm của Đà giang ở khúc hạ
nguồn. Đặc biệt, hình ảnh so sánh "Con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình” vừa giàu
chất tạo hình vừa thấm đẫm chất thơ. Hình ảnh so sánh độc đáo này đã bộc lộ chất đa tình lãng mạn của
ngịi bút Nguyễn Tuân. Trong cái nhìn say đắm của nhà văn, sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân vừa
hiền dịu, xuân sắc vừa duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm. Hơn thế nữa, vẻ đẹp ấy lại được đặt “giữa mây trời
Tây Bắc”, “bung nở” sắc trắng tinh khôi của “hoa ban”, sắc đỏ rực rỡ của “hoa gạo” tháng hai, “giữa cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân,” Vẻ đẹp của Đà giang hài hòa với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời
Tây Bắc đã làm nên một bức tranh sơn thủy hữu tình. Vẻ đẹp lãng mạn, tràn căng sức sống của núi rừng
Tây Bắc đã tô điểm thêm cho nhan sắc mỹ miều của sông Đà và Đà giang cũng như một tuyệt tác của tạo
hóa làm nên linh hồn của mảnh đất này.
Câu văn Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp của sông Đà gợi liên tưởng đến hai câu thơ trong bài thơ "Dục
Thúy sơn" nổi tiếng của Nguyễn Trãi:
"Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sơng ánh tóc huyền”.
Miêu tả vẻ đẹp của sơng nước, Nguyễn Trãi dùng hình ảnh “ánh tóc huyền” cịn Nguyễn Tuân lại góp vào
từ điển Tiếng Việt một cụm từ mới lạ chưa từng có, đó là “áng tóc trữ tình”. Ngơn ngữ văn chương của
Nguyễn Tn thật phong phú và độc lạ. Chữ “áng” thường xuất hiện trong áng văn”, “áng thơ”, nhưng
Nguyễn Tuân lại dùng để nói về mái tóc đẹp của người thiếu nữ. Với hình ảnh “áng tóc trữ tình”, Nguyễn
Tn đã đóng một dấu triện riêng lên cách nhìn sơng Đà, ơng đã phổ thơ, phổ nhạc lên vóc dáng của Đà
giang, ơng đã đem đến cho dịng sơng vẻ đẹp của một áng thơ trữ tình làm say đắm lịng người.
Nhìn ngắm Sơng Đà từ nhiều thời gian khác nhau, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những sắc màu
tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nếu sông Hương trong bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”
của Hồng Phủ Ngọc Tường màu nước thay đổi trong ngày "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" thì sắc nước
Sơng Đà biến đổi theo mùa. Mỗi mùa nước Sơng Đà có một sắc diện riêng, một vẻ đẹp riêng. Để nhận ra
Đà giang thay đổi theo mùa, chắc chắn Nguyễn Tuân đâu chỉ nhìn ngắm dịng sơng ngày một ngày hai,
mà đó hắn phải là sự gắn bó dài lâu, với niềm cảm mến và sự say sưa. Nhà văn đã "làm mây mùa xuân



bay trên sông Đà, đã “xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sơng Đà" để cảm được hết sự biến ảo
của màu nước sông Đà.
Sông Đà băng qua bốn mùa nhưng ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân chỉ đậm tô màu nước Đà giang
trong hai mùa gợi cảm nhất là mùa xuân và mùa thu. Khi Tây Bắc vào xuân, cái rực rỡ của thiên nhiên đất
trời biến sơng Đà thành "dịng xanh ngọc bích" trong trẻo, tươi mới, lấp lánh đầy sức sống. Đặc biệt, nhà
văn đã phát hiện ra con sông Đà không chấp nhận màu sắc nhạt nhòa dở đục dở trong như các dịng sơng
khác “nước Sơng Đà khơng xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm sông Lô”. Lối so sánh như thế không
chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thích khoe tài hoa, un bác mà cịn là sự thiên vị của một
niềm yêu mến, tự hào dành cho Đà giang. Đến mùa thu, nước sông Đà đổi sắc "lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.
"Với lối nhân hóa, so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã trao cho Đà giang tâm trạng, tâm tính của con người.
Biện pháp tu từ này khơng chỉ làm bật lên màu sắc rất đặc trưng của sông Đà mùa thác lũ mà còn
thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa nhiều đe dọa của một dịng sơng vẫn "trăm năm báo oán, đời
đời đánh ghen". Như vậy, trong cái thơ mộng trữ tình, con sơng vẫn ẩn chứa nét hung bạo, dữ dằn.
Đặc biệt Nguyễn Tuân còn khẳng định "Chưa hề bao giờ tơi thấy dịng Sơng Đà là đen như thực dân Pháp
đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản
đồ lai chữ." Với sự khẳng định này, Nguyễn Tn khơng chỉ tơn vinh vẻ đẹp của dịng sơng mà cịn
trực tiếp bày tỏ tình cảm u mến đối với Đà giang, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sơng Tây Bắc,
con sơng xứ sở.
Từ góc nhìn bờ bãi, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sông và mang vẻ đẹp của một “cố nhân”, gợi nhớ đến
thế giới Đường thi. Để thể hiện sự gợi cảm của dòng sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo ra một tình
huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho những bồn chồn, vồ vập. Đó là "Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng
đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng.” Cho nên chưa ra tới cửa rừng, nhà văn đã thấy "loang loáng như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy", thấy dịng sơng lấp lóa ánh nắng ẩn hiện giữa những
vạt cây mà đã háo hức, đã vội vàng khao khát. Liên tưởng đến một trò chơi của trẻ con, Nguyễn Tuân
đã đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp thật hồn nhiên và trong sáng.
Đặc biệt, Nguyễn Tuân cảm nhận cái chất "đằm đằm ấm ấm" thân quen của con sống như là chất thơ
ngấm vào từng cảnh sắc thiên nhiên và màu nắng tháng ba trên Sông Đà là “màu nắng tháng ba Đường
thi". Liên tưởng này của Nguyễn Tuân đã đem đến cho Sông Đà cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung tỏa

ra từ câu thơ lãng mạn của Lí Bạch: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Mượn câu thơ ấy, Nguyễn
Tuân đã thổi phong vị Đường thi cổ kính vào dịng sơng Tây Bắc, với hoa khói mùa xn huyền ảo, mơ
màng, bình n, thơ mộng. Đó vừa là cảnh vừa là tình, cái tình của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân dành
riêng cho cảnh và người Tây Bắc.
Trong niềm vui gặp lại cố nhân, Nguyễn Tn nhìn sơng Đà như một khu vườn cổ tích thần “Bờ Sơng Đà,
bãi Sơng Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà". Vũ điệu của chuồn chuồn, bươm bướm Sông Đà
đã gợi tả thật tinh tế sự phấn khích, hân hoan của tác giả khi lạc vào thế giới thần tiên. Đặc biệt, niềm vui
của nhà văn khi gặp lại Sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: "Chao ơi, trơng con
sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt qng". Ba chữ 'nắng
giịn tan’ kì diệu đến mức, khi viết ra rồi thì khơng thể nào "đúng hơn, hay hơn, khơng để đem bất kì câu


từ nào đổi khác đi được." Ta có thể nhìn ra một ánh mắt lấp lánh say mê, một xúc cảm vui tươi chưa từng
có, như thể lần nào gặp mặt, Sông Đà cũng vẫn rất đặc biệt, rất mới mẻ. Trong cảm nhận của nhà văn
Nguyễn Tuân, Đà giang là người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tình yêu mà
Người nghệ sĩ Nguyễn Tuân dành cho Sông Đà, cho cảnh sắc quê hương xứ sở được bộc lộ, bằng một dấu
ấn riêng biệt và đầy cảm xúc.
Trong đoạn trích, hình tượng sơng Đà đã được Nguyễn Tuân thể hiện thành công bằng nhiều nét nghệ
thuật đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Nếu miêu tả tính cách hung
bạo của Đà giang, Nguyễn Tuân đã tung ra bao nhiêu từ ngữ gân guốc, sắc cạnh, bao nhiêu câu văn có tiết
tấu gắt, của Nguyễn Tuân bỗng êm ả, nhịp nhàng, ngôn ngữ vừa giàu chất tạo hình, vừa thẫm đẫm chất
thơ: và đặc biệt, nhà văn đã vận dụng tri thức của rất nhiều lĩnh vực như hội hoạ, điện ảnh, thơ ca. Tất cả
những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần làm bật lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang. Trong cái
nhìn mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân, sông Đà mang vẻ đẹp phong phú và biến ảo, được
khắc họa bằng tình yêu mãnh liệt của nhà văn dành cho thiên nhiên, xứ xở.
Mọi cách tân nghệ thuật chân chính đều bắt đầu từ ý thức khẳng định cái tôi của nhà văn. Diện mạo của
cái tôi góp phần làm nên phong cách tác giả. Là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, văn chương
Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi một cái tôi mang đậm chất Nguyễn. Trong tùy bút “người lái đị
sơng Đà”, qua hình tượng dịng sơng, người đọc bị lơi cuốn bởi một cái tôi uyên bác, tài hoa. Sự uyên bác
của cái tôi Nguyễn Tuân được thể hiện ở vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Nếu khi miêu tả sự

hùng vĩ, dữ dằn, hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân vận dụng nhiều kiến thức trong và ngoài ngành
nghệ thuật như quân sự, võ thuật, điện ảnh, âm nhạc để khiến con sơng phải dậy sóng, dậy gió thì khi
khám phá vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang, bao nhiêu hiểu biết về hội hoạ, lịch sử, địa lý lại ùa về
trên trang văn của Nguyễn Tuân. Sự uyên bác của cái tôi Nguyễn Tuân đã giúp dịng sơng hiện lên ở
nhiều góc độ và vẻ đẹp khác nhau. Cái tôi tài hoa của Nguyễn Tuân được thể hiện ở cảm hứng mãnh liệt
với những gì gây cảm giác mạnh, gây ấn tượng sâu đậm, độc đáo. Bởi vậy sông Đà trên trang viết của
Nguyễn Tuân khi dữ dội thì tới mức khủng khiếp như 1 con quỷ nhưng khi trữ tình, thơ mộng thì lại đẹp
tới mức tuyệt mĩ. Tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ là 1 nét tài hoa, độc đáo của cái tôi
Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cái tôi Nguyễn Tuân rất tài hoa trong việc sử dụng ngơn ngữ tùy bút. Ngơn ngữ
tiếng Việt qua ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân như 1 khối vuông rubic biến hóa khơn lường. Nếu khi
miêu tả dịng sơng Đà hung bạo với hút nước, đá ngầm và thạch trận, Nguyễn Tuân đã tung ra bao nhiêu
từ ngữ gân guốc, sắc cạnh với những câu văn mang tiết tấu gắt mạnh, dồn dập thì khi thể hiện vẻ đẹp trữ
tình, thơ mộng của Đà giang, câu văn của Nguyễn Tuân bỗng êm ả, nhịp nhàng, trùng điệp, căng tràn,
ngôn ngữ vừa giàu chất tạo hình vừa thấm đẫm chất thơ. Đặc biệt cái tơi Nguyễn Tn đã có những so
sánh, liên tưởng độc đáo giàu tính mĩ thuật, những hình ảnh, ngơn từ mới lạ như “áng tóc trữ tình”, “màu
đỏ giận dữ”, “màu nắng tháng ba Đường thi”, “con hươu thơ ngộ’’,... Không chỉ uyên bác, tài hoa, cái tơi
Nguyễn Tn cịn giàu tình u thiên nhiên đất nước, nặng lịng với xứ sở.
Bằng nhiều góc nhìn, điểm nhìn, Nguyễn Tuân đã khám phá gần như trọn vẹn vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
của Đà giang ở khúc hạ nguồn. Nét độc đáo của đoạn trích khơng chỉ ở chỗ Nguyễn Tuân đã phát hiện ra
vẻ đẹp nữ tính của một dịng sơng vốn nổi tiếng hung bạo mà còn chủ yếu ở việc nhà văn đã viết về
những điều ấy theo cách riêng của mình. Với những hình ảnh ngôn từ mới lạ, với những câu văn căng
tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh và nhịp điệu, với những hình ảnh nhân hóa, so sánh táo


bạo và kì thú, người nghệ sĩ Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận con sông Đà ở khúc trung lưu, hạ
lưu mang vẻ đẹp của một áng thơ trữ tình làm say đắm lịng người.
Viết một tùy bút khơng q khó nhưng để viết như một sở trường thì chỉ có Nguyễn Tn. Với tuỳ bút
“người lái đị sông Đà”, Nguyễn Tuân xứng đáng được tôn vinh là “tuỳ bút gia” của văn học hiện đại Việt
Nam. Trước Nguyễn Tuân, sông Đà đã ngang ngược chảy ngược trong thơ Nguyễn Quang Bích nhưng
phải đến tuỳ bút này của Nguyễn Tuân, sông Đà mới được khám phá như một cơng trình mĩ thuật tuyệt

vời của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta càng thêm yêu thiên nhiên xứ sở, từ
đó có ý thức giữ gìn và bảo vệ non sơng gấm vóc của Tổ quốc.

Đề 3: Cảm nhận hình tượng sơng Đà “Cịn xa lắm mới đến cái thác dưới…
thuyền có giỏi thì tiến vào”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với 2 chữ viết
hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi sâu
vào cái nhiễu nhương, xô bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái đẹp
ẩn sâu trong con người, trong nền văn hoá ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất nước.
Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in đậm
dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong đó có tuỳ bút tiêu biểu “Người lái đị sơng Đà”,
một tác phẩm đã góp phần đưa Nguyễn Tuân lên vị trí “tùy bút gia” của văn xi hiện đại Việt Nam.
Trong thiên tùy bút xuất sắc này, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tn đã xây dựng thành cơng hình tượng
sơng Đà thành một tuyệt tác của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta sẽ thấy rõ
hơn nét độc đáo trong ngôn ngữ tuỳ bút của Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới…thuyền
có giỏi thì tiến vào”
Tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Được in trong
tập Sông Đà (1960), tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xơi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng 10
đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vô danh. Tuỳ bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyên Tuân “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đị sơng Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao
động bình dị ở Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng sơng Đà trong đoạn
trích này thuộc phần đầu tác phẩm. Đến với sông Đà, người nghệ sĩ Nguyễn Tn khơng chỉ thưởng
ngoạn dịng sơng như một dịng chảy tự nhiên mà trong cái nhìn phát hiện của nhà văn, sơng Đà như một
sinh thể có hồn và 2 nét tính cách trái ngược là hung bạo và trữ tình. Ở đoạn trích này, ngịi bút tài hoa,
uyên bác của Nguyễn Tuân đã làm sống dậy vẻ đẹp hùng vĩ và nét tính cách dữ dằn, hung bạo của Đà
giang ở khúc thượng nguồn.

Tính cách hung bạo của Đà giang được nhà văn tô đậm bằng âm thanh nước thác. Khi còn xa mới tới thác
nhưng âm thanh tiếng nước thác thì đã “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng nước thác sông Đà được
nhà văn miêu tả với nhiều cung bậc cảm xúc, khi thì “ốn trách”, “van xin” lúc thì “khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo”. Ngịi bút nhân hóa tài hoa của Nguyễn Tuân đã trao cho sông Đà cảm xúc, thái độ, tâm


trạng của con người khiến thác nước Đà giang thực sự đã trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm
gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
Nhà văn đã dùng một hệ thống từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm
xúc và âm lượng. Ban đầu, sông Đà cất lên khúc nỉ non “như là van xin”. Thế rồi nó bất ngờ đổi giọng
“như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Bất ngờ, âm thanh thác nước được phóng to hết cỡ “nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân
vừa làm bật lên sự đe doạ hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan
sát với thác đá sông Đà. Mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy
hứng thú cho người đọc. Đặc sắc nhất là phép so sánh táo bạo và kì thú trong một câu văn dài đầy ắp
những hình ảnh dữ dội với “hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa” và
“rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã phô diễn
hết sự độc đáo khi đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị. Âm thanh
cuồng nộ của núi rừng, âm thanh cuồng loạn của một loài thú rừng đang điên cuồng tìm lối thốt
thân đã được nhà văn dùng để diễn tả cơn giận dữ đỉnh điểm của con thác đang ầm ầm xô vào vách
đá. Lấy rừng để tả sông, lấy lửa để tả nước, Nguyễn Tuân đã tô đậm sức mạnh man dại và cả sự hùng vĩ
của Đà giang. Cách thể hiện như thế đã cho thấy rất rõ khuynh hướng hướng tới cái đẹp phi thường
của ngịi bút Nguyễn Tn.
Tính cách hung bạo và sự hùng vĩ của Đà giang được thể hiện rõ nhất, ấn tượng nhất ở thạch trận
sông Đà. Đá và nước thác sông Đà được Nguyễn Tuân đặc tả trong một hình ảnh đặc sắc: “sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xố” gây ấn tượng mạnh về sóng, về gió, về bọt nước trào
sôi mãnh liệt trên một diện rộng mênh mông của cả một “chân trời đá”. Câu văn miêu tả của Nguyễn
Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên
khi vừa gặp mặt. Dưới ngòi bút nhân hóa tài hoa của Nguyễn Tn, sơng Đà có lịng dạ thật nham hiểm

khi “bày thạch trận trên sông” để nhằm “ăn chết” con thuyền nào dám qua đây. Trong cái nhìn của nhà
văn, sự xuất hiện của đá dưới lịng sơng khơng phải là ngẫu nhiên mà chính là sự “mai phục” của con
sông ác quỷ. Sử dụng thuật ngữ quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái
bí ẩn, hiểm ác của sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm vẫn mai phục hết trong
lịng sơng” để rồi đột ngột “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Nhà văn như một trinh sát tinh tường đã vẽ lại sơ đồ thạch trận của quân tướng Đà giang. Hàng
tiền vệ “có hai hịn canh một của đá trơng như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trị dụ cái thuyền đối
phương đi vào sâu nữa”. Ở tuyến giữa là “nước sóng luồng” với địn hiểm “đánh khp quật vu hồi hại”.
Cịn tuyến ba là “những boongke chìm và pháo đài đá nổi” với nhiệm vụ “tiêu diệt tất cả thuyền trưởng,
thuỷ thủ ngay ở chân thác”. Thạch trận sơng Đà chẳng khác gì trận đồ bát qi ngày xưa với đủ cả cửa
sinh, cửa tử. Trong cái nhìn của nhà văn, sơng Đà biết bài binh bố trận, giăng cạm bẫy để đánh lừa con
thuyền. Con sông biết đấu sức, đấu trí, tìm mọi cách tiêu diệt con người bằng mọi giá. Nó đúng là một
lồi thuỷ qi xảo quyệt, hung ác.
Trong đoạn trích, hình tượng sơng Đà đã được Nguyễn Tuân thể hiện thành công bằng nhiều nét nghệ
thuật đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Về tính cách hung bạo của
Đà giang, từ xa xưa, ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh-Thuỷ Tinh “Núi cao sơng hãy cịn


dài-Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nhưng Nguyễn Tuân không dùng lối huyền thoại như thế. Nhà
văn đã dựng lên những bức tranh chân thực về cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của sông Đà khiến người
đọc phải rùng mình, sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Nguyễn Tuân đã tung ra bao nhiêu liên tưởng,
nhân hoá, so sánh táo bạo, đắt giá bao nhiêu từ ngữ gân guốc, sắc cạnh, vừa mới lạ vừa giàu giá trị tạo
hình, bao nhiêu câu văn có tiết tấu gay gắt, mạnh, dồn dập và đặc biệt nhà văn đã vận dụng tri thức của rất
nhiều lĩnh vực như: địa lý, quân sự, võ thuật, điện ảnh. Bởi vậy sông Đà sơi sục trong dịng chảy văn
chương, ào ạt trong dòng chảy chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp
phần làm bật lên vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và sự dữ dội, hung bạo của Đà giang. Miêu tả sông Đà như thế
là nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh những thử thách ghê gớm của thiên nhiên đối với con người
nhằm tôn vinh sức mạnh và tài năng của con người lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Là nhà văn có phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tơi cá nhân nên Nguyễn Tn tìm đến
thể tuỳ bút như một điều tất yếu và ông gọi đó là “lối chơi độc tấu”. Nguyễn Tuân đã độc tấu trên trang

viết của mình bằng một thứ ngơn ngữ tùy bút đặc sắc mang đậm chất Nguyễn. Nét đặc sắc trong ngôn
ngữ tùy bút Nguyễn Tuân là ở ngôn ngữ, phong phú, điêu luyện, mới lạ, giàu giá trị tạo hình, giàu tính
thẩm mĩ. Những hình ảnh, âm thanh, sự kiện trong tác phẩm được Nguyễn Tuân mô tả bằng những từ ngữ
mới lạ chưa từng xuất hiện ở trang văn nào khác như “gùn ghè”, “đòi nợ xuýt”, “đánh hồi lùng”, “trùng vi
thạch trận”, “áng tóc trữ tình”, “màu đỏ giận dữ”, “áng tóc sương”, “con hươu thơ ngộ”. Tài hoa hơn nữa,
bao nhiêu từ ngữ thuộc các lĩnh vực khác nhau từ quân sự, lịch sử, địa lí đến âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh
đều được Nguyễn Tuân chạm tới và sử dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn. Nếu khi miêu tả dịng
sơng Đà hung bạo với hút nước, đá ngầm và thạch trận, Nguyễn Tuân tung ra bao nhiêu từ ngữ gân guốc,
sắc cạnh với những câu văn mang tiết tấu gắt, mạnh, dồn dập thì khi thể hiện vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
của Đà giang, câu văn của Nguyễn Tuân bỗng êm ả, nhịp nhàng, ngơn ngữ vừa giàu chất tạo hình vừa
thấm đẫm chất thơ. Khơng dừng lại ở đó, đặc sắc trong ngơn ngữ tùy bút của Nguyễn Tn cịn nằm ở
cách kiến tạo câu văn và sử dụng các biện pháp tu từ. Câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về
âm thanh và nhịp điệu, giàu hình ảnh, giàu nhạc tình, giọng văn thiết tha, sơi nổi, hào hứng. Các biện
pháp tu từ được sử dụng linh hoạt, đa dạng. Đặc biệt, Nguyễn Tuân đã sáng tạo được những hình ảnh so
sánh, nhân hố táo bạo mà kỳ thú, giàu tính mỹ thuật. Những đặc sắc trong ngôn ngữ đã làm nên hồn
phách riêng cho tuỳ bút Nguyễn Tuân và đưa Nguyễn Tuân lên vị trí “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại
Việt Nam.
Bằng những hình ảnh so sánh, nhân hố táo bạo mà kỳ thú, qua lối tạo hình ảnh giàu tính mĩ thuật, nhà
văn Nguyễn Tuân đã khơi dậy được vẻ đẹp hùng vĩ và tính cách hung bạo của Đà giang. Trên trang văn
mang đậm chất Nguyễn, sông Đà đẹp một cách hùng vĩ, tráng lệ nhưng cx hiểm ác, hung bạo như một
con ác quỷ, một thứ kẻ thù số một của con người. Phải chăng, nhà văn đã đặt tất cả rung động của lịng
mình vào giữa dịng hung bạo để bắt con sơng phải dậy sóng, dậy gió trên trang viết của mình. Qua hình
tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta khơng chỉ thấy được nét tài hoa, un bác trong phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân mà còn cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, đất nước thiết tha, sâu nặng của nhà văn.
Viết một tùy bút không q khó nhưng để viết như một sở trường thì chỉ có Nguyễn Tn. Với tuỳ bút
“người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tuân xứng đáng được tôn vinh là “tuỳ bút gia” của văn học hiện đại Việt
Nam. Trước Nguyễn Tuân, sông Đà đã ngang ngược chảy ngược trong thơ Nguyễn Quang Bích nhưng
phải đến tuỳ bút này của Nguyễn Tuân, sông Đà mới được khám phá như một công trình mĩ thuật tuyệt



vời của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta càng thêm yêu thiên nhiên xứ sở, từ
đó có ý thức giữ gìn và bảo vệ non sơng gấm vóc của Tổ quốc.

Đề 4: Sơng Đà với vẻ đẹp trữ tình: “Con Sơng Đà gợi cảm…. Dịng sơng
qng này lững lờ như nhớ thương những hịn đá thác xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với 2 chữ viết
hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi sâu
vào cái nhiễu nhương, xô bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái đẹp
ẩn sâu trong con người, trong nền văn hoá ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất nước.
Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in đậm
dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong đó có tuỳ bút tiêu biểu “Người lái đị sơng Đà”,
một tác phẩm đã góp phần đưa Nguyễn Tn lên vị trí “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Trong thiên tùy bút xuất sắc này, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tn đã xây dựng thành cơng hình tượng
sơng Đà thành một tuyệt tác của tạo hoá. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta sẽ thấy rõ
hơn cái nhìn mang tính phát hiện của Nguyễn Tn: “Con Sơng Đà gợi cảm…. Dịng sơng qng này
lững lờ như nhớ thương những hịn đá thác xa xơi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Được in trong
tập Sông Đà (1960), tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xơi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng 10
đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vơ danh. Tuỳ bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyên Tuân “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đị sơng Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động
bình dị ở Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng sơng Đà trong đoạn trích
này thuộc phần cuối tác phẩm. Đến với sơng Đà, người nghệ sĩ Nguyễn Tn khơng chỉ thưởng ngoạn
dịng sơng như một dịng chảy tự nhiên mà trong cái nhìn phát hiện của nhà văn, sông Đà như một sinh
thể có hồn và 2 nét tính cách trái ngược là hung bạo và trữ tình. Ở đoạn trích này, ngịi bút tài hoa, uyên
bác của Nguyễn Tuân đã làm sống dậy vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang ở khúc trung lưu, hạ lưu.

Ở khúc thượng nguồn, Sông Đà ác quỷ là thế, ấy vậy mà đến khúc trung lưu, hạ lưu, Sơng Đà bỗng rùng
mình, thốt xác. “Dịng sơng vặn mình vào một cái bến cát có hàng lạnh, Sóng thác reo xèo tan trong trí
nhớ. Song nước lại thanh bình”. Dịng hung bạo bỗng thay đổi tâm tính để trở thành dịng thơ mộng trữ
tình. Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang, Nguyễn Tuân không kể, không tả theo lời của người
khác mà bằng chính trải nghiệm của bản thân. Mỗi lần thưởng ngoạn Sông Đà, nhà văn lại phát hiện ra
một nét đẹp của dịng sơng. Khám phá sự vật dưới nhiều góc nhìn là một nét phong cách nghệ thuật
độc đáo của Nguyễn Tuân.


Nhìn sơng Đà từ góc nhìn bờ bãi, Nguyễn Tn đã phát hiện ra sông và mang vẻ đẹp của một “cổ nhân”,
gợi nhớ đến thế giới Đường thi. Để thể hiện sự gợi cảm của dịng sơng gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo
ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho những bồn chồn, vồ vập. Đó là "Chuyến ấy ở rừng
đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng.” Cho nên chưa ra tới cửa rừng, nhà văn đã thấy "loang
loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy", thấy dịng sơng lấp lóa ánh nắng ẩn
hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, đã vội vàng khao khát. Liên tưởng đến một trò chơi của trẻ
con, Nguyễn Tuân để đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp thật hồn nhiên và trong sáng. Đặc biệt,
Nguyễn Tuân cảm nhận cái chất "đằm đằm ấm ấm" thân quen của con sông như là chất thơ ngấm vào
từng cảnh sắc thiên nhiên và màu nắng tháng ba trên Sông Đà là màu nắng tháng ba Đường thi". Liên
tưởng này của Nguyễn Tuân đã đem đến cho Sông Đà cái bảng khuâng vời vợi nhớ nhung tỏa ra từ
câu thơ lãng mạn của Lý Bạch: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Mượn câu thơ ấy, Nguyễn Tuân
đã thổi phong vị Đường thi cổ kính vào dịng sơng Tây Bắc, với hoa khói mùa xn huyền ảo, mơ
màng, bình n, thơ mộng. Đó vừa là cảnh vừa là tình, cái tình của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân dành
riêng cho cảnh và người Tây Bắc.
Trong niềm vui gặp lại cố nhân, Nguyễn Tn nhìn sơng Đà như một khu vườn cổ tích thần tiên “Bờ Sơng
Đà, bãi Sơng Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”. Vũ điệu của chuồn chuồn, bươm bướm Sông
Đà đã gợi tả thật tinh tế sự phấn khích, hân hoan của tác giả khi lạc vào thế giới thần tiên. Đặc biệt, niềm
vui của nhà văn khi gặp lại Sơng Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: "Chao ôi, trơng
con sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Ba chữ
“nắng giòn tan” bi diệu đến mức, khi viết ra rồi thì khơng thể nào "đúng hơn, hay hơn, khơng để đem
bất kì câu từ nào đổi khác đi được." Ta có thể nhìn ra một ánh mắt lấp lánh say mê, một xúc cảm vui

tươi chưa từng có, như thể lần nào gặp mặt, Sông Đà cùng vẫn rất đặc biệt, rất mới mẻ. Trong cảm nhận
của nhà văn Nguyễn Tuân, Đà giang là người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở
về. Tình yêu mà Người nghệ sĩ Nguyễn Tuân dành cho Sông Đà, cho cảnh sắc quê hương xứ sở được bộc
lộ, bằng một dấu ấn riêng biệt và đầy cảm xúc.
Khi đặt mình vào tâm thế 1 du khách thưởng ngoạn sơng Đà trên một mũi đị lừ lừ trơi, Nguyễn Tuân đã
phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng thi vị nhất của sơng Đà chính là ở sắc thái lặng lờ, hoang sơ,
hoang dại của nó, ở sự lặng lẽ, mơ màng như trong thế giới cổ tích thần tiên. Bằng một câu văn êm
ru, trong những thanh bằng “thuyền tôi trên sông Đà”, Nguyễn Tuân đã đưa con thuyền thơ và cả người
đọc vào một cõi êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ, vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người.
Nguyễn Tuân đã nhìn Đà trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và trước dòng thời gian vạn biến, nhà
văn đã khẳng định vẻ đẹp bất biến của dịng sơng: “Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này
cũng lặng từ đến thế mà thôi”. Sự êm đềm, tĩnh lặng của dịng sơng dày thêm khơng chỉ vì cái n ả
trong khơng gian mà cịn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Trên trang văn của Nguyễn Tuân,
Đà giang như từ vạn kỷ đổ về.
Sự yên ả, êm đềm của sông Đà ở khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm thêm bằng không gian
nguyên sơ, thuần khiết, trong lành và tràn căng sức sống tươi mới với “mấy lá ngô non đầu mùa" mới
nhú cùng “những búp non" của cỏ gianh đồi núi; rồi qua âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiếng “cá dầm
xanh quẫy" nước; đặc biệt qua hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương", cất
tiếng hỏi nhà văn bằng “ tiếng nói của riêng con vật lành". Sự phối cảnh của Đà giang với đồi núi,


nương rẫy hai bên bờ sông đã làm nên một bức tranh sơn thủy hữu tình; đồng thời làm bật lên vẻ
đẹp trữ tình, thơ mộng, vừa căng tràn sức sống trẻ trung, tươi mới của dịng sơng.
Sự tĩnh lặng, mơ màng của đôi bờ sông Đà như được nhân lên bởi hình ảnh so sánh độc đáo: “Bờ sơng
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cách so sánh của
Nguyễn Tuân không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sơng mà thậm chí càng đẩy dịng sơng trơi
xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của
tuổi thơ; và chính trong thế giới ấy người đọc càng cảm nhận rõ hơn sự “lặng tờ”, “hoang dại” của một
dịng sơng trong trẻo, êm đềm. Sông Đà trong cách thể hiện của Nguyễn Tuấn như bước ra từ huyền thoại,
cổ tích. Nhuộm phủ lên dịng sơng là nét sơ cũ, cổ kính, “bàng bạc một chất thơ hồi cựu” (Nguyễn

Đăng Mạnh) trên những dịng văn xuôi đẹp đẽ như thơ của Nguyễn Tuân. Miêu tả một dịng sơng mà
Nguyễn Tn đã làm sống dậy cả lịch sử dân tộc và cả kí ức tuổi thơ mỗi người. Dịng sơng, trong cái
nhìn của nhà văn bỗng trở thành dòng thời gian của lịch sử, của quá khứ, của hồi niệm, của cổ tích.
Khơng phải cây bút văn xuôi nào cùng làm được như Nguyễn Tuân.
Không gian sống và mở ra trước mặt nhà văn tĩnh lặng, hoang sơ đến mức nhà văn bỗng "thèm được giật
mình vì một tiếng cịi xúp- lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu.”,
Không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự lãng tử, hoang dại của dịng sơng hiện lên rõ nét như
trong niềm ao ước của Nguyễn Tn trước một dịng sơng q đỗi êm đềm. Đặc biệt, Nguyễn Tuân đã gửi
gắm vào chi tiết này mong ước một tương lai khơng xa sẽ có đường sắt chạy đến sông Đà và miền đất
hoang dại bên bờ sơng Đà sẽ được khám phá. Như vậy, dịng sơng của Nguyễn Tn cịn là dịng sơng
chở khát khao, hi vọng.
Sông Đà trong cảm nhận của Nguyễn Tuân không chỉ là một mỹ nữ kiều diễm, xuân sắc, không chỉ là một
cố nhân mà cịn là “một người tình nhân chưa quen biết”. Nguyễn Tuân đã đầy dụng ý khi mượn lời của
thi sĩ núi Tản sơng Đà để nói lên tiếng lịng của mình dành cho dịng sơng “Dải sông Đà bọt nước lênh
đênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Câu thơ ấy hịa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân
đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang. Sông Đà với Nguyễn Tuân luôn mới mẻ, lạ lùng, vừa quen vừa lạ,
vừa gần gũi vừa bí ẩn khiến lòng người say đắm, khát khao. Với người nghệ sĩ Nguyễn Tuân, sông Đà
mang vẻ đẹp của một người tình nhân chưa quen biết phải chăng là như vậy?. Bức tranh sống và càng trở
nên sống động bằng chính vẻ đẹp hiện thực của nó được khúc xạ qua lăng kính tình u của người nghệ sĩ
Nguyễn Tn. Trên mặt nước, “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” và
“con sông đang trơi những con đị mình nở chạy buồm vải”. Những nét về hiện thực này đã thổi hồn, hồi
sức sống vào dịng sơng thơ mộng, trữ tình.
Trong đoạn trích, hình tượng sơng Đà đã được Nguyễn Tn thể hiện thành công bằng nhiều nét nghệ
thuật đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Nếu miêu tả tính cách hung
bạo của Đà giang, Nguyễn Tuân đã tung ra bao nhiêu từ ngữ gân guốc, sắc cạnh, bao nhiêu câu văn có tiết
tấu gắt, của Nguyễn Tuân bỗng êm ả, nhịp nhàng, ngôn ngữ vừa giàu chất tạo hình, vừa thẫm đẫm chất
thơ: và đặc biệt, nhà văn đã vận dụng tri thức của rất nhiều lĩnh vực như hội hoạ, điện ảnh, thơ ca. Tất cả
những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần làm bật lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang. Trong cái
nhìn mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân, sông Đà mang vẻ đẹp phong phú và biến ảo, được
khắc họa bằng tình yêu mãnh liệt của nhà văn dành cho thiên nhiên, xứ xở.



Qua hình tượng sơng Đà, ta đã thấy rõ hơn về cách nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng của nhà văn
Nguyễn Tn. Dịng sơng Đà hùng vĩ là một trong những nguồn cảm hứng sáng tạo trong văn chương
Việt Nam. Đã có rất nhiều các tác giả viết về sơng Đà như Nguyễn Quang Bích, Tản Đà, Vũ Quần
Phương… Trong văn học dân gian, sông Đà là con sống của những cơn cuồng ghen cuồng nộ “Năm năm
báo oán đời đời đánh ghen. Đi vào trong thơ của người xưa, sơng Đà hiện lên đầy cá tính, dám lựa chọn
cho mình một lối đi riêng:
“Chúng thủy giai đơng tẩu Đà giang độc bắc lưu”
(Nguyễn Quang Bích)
Mọi dịng sơng đều chảy về hướng đông. Riêng sông Đà lại chẳng giống ai, dòng chảy lại ngược về
hướng Bắc. Trong cái nhìn của một nhà thơ hiện đại, Sơng Đà cũng chỉ tồn là đá ghềnh thác là:
“Tơi đi với sơng Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dịng”.
(Với sơng Đà” – Vũ Quần Phương)
Trong cái nhìn của các tác gia khác, sơng Đà dường như chỉ mang vẻ đẹp dữ dội, hung bạo của một con
ngựa bất kham”. Cịn ở “Người lái đị Sơng Đà”, trong cách nhìn mang tính phát hiện của nhà văn
Nguyễn Tuân, sống và không chỉ dữ dằn hung bạo như một con ác quỷ, một thứ kẻ thù số một của con
người mà cịn rất nên thơ, trữ tình, thơ mộng. Hình ảnh Đà giang trong trang văn của Nguyễn Tuân, dù là
hung bạo hay trữ tình thì đều là vẻ đẹp tuyệt mỹ, phi thường. Bởi Nguyễn Tuân đã nhìn sơng Đà ở góc độ
văn hóa thẩm mỹ. Đây chính là một nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của ơng. Trong cách nhìn
mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân, Sông Đà không chỉ như một dịng chảy tự nhiên mà cịn
như một sinh thể có linh hồn, có sinh mệnh với hai tính cách tương phản vừa dữ dội hung bạo vừa trữ tỉnh
nên thơ. Hai nét tính cách đối lập đã tạo nên cá tính độc đáo của dịng sơng. Trong cái nhìn của nhà văn,
thiên nhiên vừa là hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã vừa là người bạn của con người.
Bằng nhiều góc nhìn, điểm nhìn, Nguyễn Tuân đã khám phá gần như trọn vẹn vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
của Đà giang ở khúc hạ nguồn. Nét độc đáo của đoạn trích không chỉ ở chỗ Nguyễn Tuân đã phát hiện ra
vẻ đẹp nữ tính của một dịng sơng vốn nổi tiếng hung bạo mà còn chủ yếu ở việc nhà văn đã viết về

những điều ấy theo cách riêng của mình. Với những hình ảnh ngơn từ mới lạ, với những câu văn căng
tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh và nhịp điệu, với những hình ảnh nhân hóa, so sánh táo
bạo và kì thú, người nghệ sĩ Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận con sông Đà ở khúc trung lưu, hạ
lưu mang vẻ đẹp của một áng thơ trữ tình làm say đắm lịng người.
Viết một tùy bút khơng q khó nhưng để viết như một sở trường thì chỉ có Nguyễn Tn. Với tuỳ bút
“người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn xứng đáng được tôn vinh là “tùy bút gia” của văn học hiện đại Việt
Nam. Trước Nguyễn Tuân, sông Đà đã ngang ngược chảy ngược trong thơ Nguyễn Quang Bích nhưng
phải đến tuỳ bút này của Nguyễn Tuân, sông Đà mới được khám phá như một cơng trình mĩ thuật tuyệt
vời của tạo hố. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích, ta càng thêm yêu thiên nhiên xứ sở, từ
đó có ý thức giữ gìn và bảo vệ non sơng gấm vóc của Tổ quốc.


Đề 5: Cảm nhận vẻ đẹp của người lái đò Sơng Đà trong đoạn trích sau; từ đó
nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về con người lao động của nhà văn
Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ
viết hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi
sâu vào cái nhiễu nhương, xơ bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái
đẹp ẩn sâu trong con người, trong nền văn hóa ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất
nước. Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in
đậm dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong những sáng tác tiêu biểu mang đậm chất
Nguyễn ấy, không thể không kể đến tùy bút “Người lái đị Sơng Đà”. Đây là tác phẩm đã góp phần đưa
Nguyễn Tn lên vị trí “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong thiên tùy bút xuất sắc này,
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã xây dựng thành cơng hình tượng người lái đị sơng Đà. Cảm nhận
vẻ đẹp của người lái đị trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy rõ hơn cái nhìn mang tính phát hiện về con
người lao động của nhà văn Nguyễn Tn: “Ơng đị hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên sóng trận địa
phóng thẳng vào mình ...Thế là hết thác”.
Tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” được in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành
quả nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới

miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua
thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vơ danh. Tùy bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyễn Tuân, “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đị Sơng Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng người lái đị
sơng Đà trong đoạn trích này thuộc phần giữa tác phẩm. Ở đoạn trích này, ngịi bút tài hoa, un
bác của Nguyễn Tn đã đặt ơng lái đị vào cuộc thủy chiến với dịng sơng ác quỷ. Nhà văn đã dùng
thiên nhiên dữ dội ấy để làm nền nhằm tơn vinh vẻ đẹp trí dũng, anh hùng, tài hoa, nghệ sĩ của
người lái đị.
Ơng lái đị là một người anh hùng trí dũng. Tài trí và sự dũng cảm của ơng đị được thể hiện rõ
nhất trong cuộc thủy chiến giữa ơng với dịng sơng ác quỷ. Trong trùng vi thạch trận thứ nhất, cuộc
thủy chiến diễn ra theo hướng hai bên không cân sức. Xung quanh ông lái đị “mặt nước hị la vang
dậy”, cịn sóng nước thì “như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hơng
thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Sóng nước Sơng Đà đã đánh đến những đòn hiểm nhất “đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh địn âm vào chỗ hiểm”. Ơng lái đị bị thương “mặt méo bệch đi” song ông
vẫn giữ vững tư thế của người chỉ huy "trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn
tỉnh táo của người cầm lái”. Cố nén vết thương, ông lái đò đã dũng mãnh đưa con thuyền vượt qua
cửa ải thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, Sông Đà “ tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”.Song do đã “nắm chắc binh pháp của thần
sông, thần đá”, lại thấu hiểu “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” nên ơng đị đã
thay đổi chiến thuật. Từ thế thủ, ông đã chuyển sang thế tiến công “nắm chặt lấy được cái luồng sóng
đúng luồng rồi, ơng đị ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà
lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Hình ảnh ơng lái đị vượt qua trùng vi thạch trận thứ hai


chẳng khác gì một dũng tướng đang phá thành, vượt ải. Có người từ hình ảnh ơng đị đã liên tưởng
đến hình ảnh Võ Tịng đả hổ trong tiểu thuyết “Thủy hử” của Trung Quốc, nhưng nhân vật người
lái đò của Nguyễn Tuân không phải là con người của huyền thoại như Võ Tòng mà chỉ là một con

người lao động bình dị của vùng núi cao Tây Bắc. Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu
sóng dữ” là biểu tượng cho người anh hùng thì người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn cũng cưỡi gió,
đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Ở trùng vi thạch trận thứ ba, Sông Đà càng trở nên nham
hiểm và xảo quyệt khi bố trí “bên phải, bên trái đều là luồng chết cả, cịn cái luồng sống thì ở ngay giữa
bọn đá hậu vệ của con thác”. Con thuyền của ơng đị lọt vào trận tuyến này có lẽ đã đến tận cùng của
thử thách nguy hiểm. Nhưng bằng trí dũng và bản lĩnh kiên cường của một người đã hơn trăm lần xi
ngược Sơng Đà, ơng đị đã chiến thắng một cách vẻ vang dịng sơng ác quỷ “ Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Không phải bằng sức mạnh thần thánh
mà ơng đị đã khuất phục được sự hung bạo của Đà giang bằng chính sức mạnh của tài trí và lịng dũng
cảm. Trên trang văn của Nguyễn Tn, người lái đị Sơng Đà chính là chất vàng mười đã qua thử lửa
của vùng núi cao Tây Bắc. Ở con người lao động bình dị ấy ngời sáng vẻ đẹp phi thường như những
dũng tướng trong văn học cổ, như những anh hùng trong thần thoại, truyền thuyết.
Ở người lái đị Sơng Đà cịn ngời sáng vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Trên trang văn của Nguyễn Tn,
người lái đị Sơng Đà là một nghệ sĩ tài hoa trong bản trường ca vượt thác leo ghềnh. Ơng lái đị đã
vượt qua sóng thác Sơng Đà bằng phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Nhà văn đã dùng những nét
bút sảng khoái nhất để miêu tả những đường lái uyển chuyển của ơng đị “Thuyền vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.” Ơng lái đị đã vượt qua ba trùng vi
thạch trận bằng một tay lái ra hoa. Những đường lái tung bọt trắng xóa trên Sông Đà như bừng nở
muôn ngàn hoa gấm, vừa tôn lên vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của Đà giang vừa tơ đậm nét tài hoa nghệ sĩ của
ơng đị. Người lái đị Sơng Đà với vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ đã thể hiện rất rõ hướng tiếp cận con người
và đời sống của ngòi bút Nguyễn Tuân. Trước và sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đều khám phá con
người trên phương diện tài hoa nghệ sĩ. Bởi vậy, nhân vật của ơng, dù là ai và làm nghề gì thì cũng đều là
nghệ sĩ xuất chúng trong nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ thấy
được nét tài hoa ở những con người phi thường, những con người “đặc tuyển”. Còn sau Cách mạng,
nhà văn đã phát hiện ra vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ ở những con người bình thường, bình dị như người lái đị
Sơng Đà mà ơng trân trọng gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa”.
Đây là đoạn văn đặc sắc, kết tinh tài năng nghệ thuật và cả tính sáng tạo của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà
văn đã đặt ơng lái đị vào 1 tình huống thử thách đặc biệt – cuộc vượt thác đầy hiểm nguy, sử dụng bút

pháp tương phản cao độ để làm bật lên vẻ đẹp anh hùng nghệ sĩ của người lái đò. Nhịp văn gấp gáp, hơi
văn căng thẳng, câu văn dồn dập, gợi khơng khí cuộc giao tranh quyết liệt, dữ dội, một mất một còn. Đặc
biệt, Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực võ thuật, thể thao, quân sự… và vốn
sống, khả năng quan sát, khám phá tinh tế, trí tưởng tượng phong phú cùng kho chữ nghĩa vơ cùng giàu
có, tài hoa để làm nổi bật hình ảnh người lái đị trí dũng, tài ba. Người lái đị sơng Đà là biểu tượng cho
con người lao động bình dị ở vùng núi cao Tây Bắc.
III.Nhận xét về cái nhìn mang tính phát hiện về con người lao động của nhà văn Nguyễn Tuân. Vẻ
đẹp của người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lao động vơ danh, bình dị. Trong cái nhìn của
Nguyễn Tn, đó là sự hịa quyện giữa vẻ đẹp bình thường và phi thường, là chất chiến sĩ hòa cùng phong


thái nghệ sĩ. Đó là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc, làm nên vẻ đẹp của một vùng đất, một miền quê.
Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân muốn khẳng định cái đẹp có ở mọi nơi trong cuộc sống và ở ngay trong
những con người bình dị, vơ danh. Chủ nghĩa anh hùng khơng chỉ chói lọi trong sự nghiệp chống giặc
ngoại xâm mà còn tỏa sáng trong lao động, trong cuộc sống bình dị, đời thường.
Với những hình ảnh ngơn từ mới lạ, với những câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm
thanh và nhịp điệu, với những hình ảnh nhân hóa, so sánh táo bạo và kì thú, người nghệ sĩ Nguyễn Tuân
đã cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp anh hùng, nghệ sĩ của người lái đị sơng Đà. Trên trang văn của
Nguyễn Tuân, người lái đò là biểu tượng đẹp cho con người chinh phục và chiến thắng tự nhiên. Đây là
nhân vật kết tinh tài năng và tình yêu, niềm tự hào của nhà văn Nguyễn Tuân.
Viết một tùy bút khơng q khó nhưng để viết như một sở trường thì chỉ có Nguyễn Tn. Với tùy bút
“Người lái đị Sơng Đà”, Nguyễn Tn xứng đáng được tơn vinh là “tùy bút gia” của văn học hiện đại
Việt Nam. Cảm nhận vẻ đẹp của người lái đị sơng Đà trong đoạn trích, ta càng thêm yêu mến, tự hào về
vẻ đẹp của những con người lao động bình dị, vô danh của vùng núi cao Tây Bắc.

Đề 6: Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà trong đoạn trích sau. Từ đó nhận xét
về cách quan sát và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của Nguyễn Tuân được thể
hiện qua đoạn trích.
BÀI LÀM
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, là người sinh ra để tơn thờ Nghệ Thuật với hai chữ

viết hoa”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca Nguyễn Tuân như thế. Nếu như các nhà văn cùng thời đi
sâu vào cái nhiễu nhương, xơ bồ của cuộc sống thì Nguyễn Tn vẫn miệt mài trên hành trình đi tìm cái
đẹp ẩn sâu trong con người, trong nền văn hóa ngàn đời của dân tộc, trong cảnh sắc của thiên nhiên đất
nước. Trong hành trình thực hiện sứ mệnh cao cả ấy, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên biết bao trang viết in
đậm dấu ấn phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn. Trong những sáng tác tiêu biểu mang đậm chất
Nguyễn ấy, không thể không kể đến tùy bút “Người lái đị Sơng Đà”. Đây là tác phẩm đã góp phần đưa
Nguyễn Tuân lên vị trí “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong thiên tùy bút xuất sắc này,
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã xây dựng thành cơng hình tượng sơng Đà thành một tuyệt tác của
tạo hóa. Cảm nhận hình tượng sơng Đà trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy rõ hơn cách quan sát và
khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tn: “Tơi có bay tạt ngang qua Sơng Đà mấy
lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sơng Tây Bắc hung bạo và
trữ tình…rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.”
Tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” được in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành
quả nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới
miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua
thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động bình dị, vơ danh. Tùy bút này đã cho ta nhận ra diện
mạo mới mẻ của nhà văn Nguyễn Tuân, “xê dịch” không phải để cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”


mà là khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. “Người lái đị Sơng Đà” là một áng văn đẹp
được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc. Nét tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở hình tượng sơng Đà
trong đoạn trích này thuộc phần giữa tác phẩm. Đến với sông Đà, người nghệ sĩ Nguyễn Tn khơng
chỉ thưởng ngoạn dịng sơng như một dịng chảy tự nhiên mà trong cái nhìn phát hiện của nhà văn, sông
Đà như một sinh thể có hồn với hai nét tính cách trái ngược là hung bạo và trữ tình. Ở đoạn trích này,
ngịi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân đã làm sống dậy vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà
giang ở khúc trung lưu, hạ lưu.
Ở khúc thượng nguồn, Sông Đà ác quỷ là thế, ấy vậy mà đến khúc trung lưu, hạ lưu, Sơng Đà bỗng rùng
mình, thốt xác. “Dịng sơng vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí

nhớ. Sơng nước lại thanh bình”.Dịng hung bạo bỗng thay đổi tâm tính để trở thành dịng thơ mộng trữ
tình. Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang, Nguyễn Tuân không kể, không tả theo lời của người
khác mà bằng chính trải nghiệm của bản thân. Mỗi lần thưởng ngoạn Sông Đà, nhà văn lại phát hiện ra
một nét đẹp của dịng sơng.
Nguyễn Tn đã “bay tạt ngang qua sơng Đà mấy lần” và đã phát hiện thêm một điểm nhìn từ trên “tàu
bay mà nhìn xuống sơng đà”. “Từ trên tàu bay mà nhìn xuống sơng Đà, khơng ai trong tàu bay nghĩ rằng
cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là con sơng hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm
mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị sơng Đà”. Hình ảnh
so sánh con sông Đà như một “dây thừng ngoằn ngoèo” đơn giản nhưng tạo hình chính xác dịng chảy
uốn lượn của sơng Đà. Dáng hình ấy thật mềm mại và dun dáng biết bao, khiến nhà văn không thể nhận
ra nổi đây chính là con sơng làm mình làm mẩy với những người dân lao động Tây Bắc nơi thượng
nguồn. Miêu tả dịng sơng qua góc nhìn lịch sử, nhà văn đã đem đến cho người đọc một phát hiện mà
không phải ai cũng tường tận, sơng Đà chính là dịng sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh - Thủy
Tinh: “Núi cao sơng hãy cịn dài, năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Trang văn của Nguyễn Tuân vì
thế khơng chỉ cuồn cuộn dịng thác của sơng chữ mà cịn ngồn ngộn dịng thác của sơng đời. Nhìn
dịng sơng bằng cái nhìn thân thương, nhà văn lại thấy “quen thuộc với những nét sông tãi ra trên đại
dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Trong cảm nhận của nhà văn, từng đường nét mềm mại của
dòng sông kết hợp cùng “đại dương đá” nhấp nhô và sự bồng bềnh của mây bay đã tạo nên một bức tranh
thi vị. Như vậy, không chỉ thi trung hữu họa mà trong những trang văn tuyệt đẹp của nguyễn tn
cũng có họa
….
Qua đoạn trích, ta đã thấy rõ hơn nét độc đáo trong cách quan sát và khám phá thiên nhiên của
nhà văn Nguyễn Tuân. Để làm bật lên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang, Nguyễn Tn đã quan
sát và khám phá dịng sơng tỉ mỉ, tinh tế từ nhiều góc nhìn, điểm nhìn, trong nhiều thời điểm khác
nhau. Khi thì Nguyễn Tn khám phá sơng Đà từ điểm nhìn trên cao “từ trên tàu bay mà nhìn xuống”, rồi
“xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dịng nước sơng Đà”. Lúc thì nhà văn chiêm ngưỡng vẻ đẹp
dịng sơng trong sự biến hóa của bốn mùa để rồi tinh tế nhận ra “mùa xuân dịng xanh ngọc bích” cịn “
mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ”. Đặc biệt, Nguyễn Tuân đã quan sát và khám phá sông Đà
trong sự đối sánh với nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhà văn đã lấy màu nước “xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô” làm nền để làm bật lên “dịng xanh ngọc bích” riêng có của Đà Giang. Nguyễn

Tn cũng so sánh Sơng Đà với tên gọi mà thực dân Pháp đặt cho dịng sơng. Tất cả đã góp phần thể hiện
niềm ưu ái, say mê, tình yêu và niềm tự hào mà nhà văn dành cho con Sông Đà yêu quý. Cách quan sát và


khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên như thế khiến Sông Đà hiện lên thật độc đáo, trở thành sông Đà của
riêng Nguyễn Tuân. Quan sát và khám phá thiên nhiên dưới nhiều góc nhìn, điểm nhìn, ở góc độ văn hóa
thẩm mĩ là nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.



×