Bài làm 1
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng
sông Đà 1958 – 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con
người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Bản thân Nguyễn Tuân khi viết nên tác phẩm này đã thực hiện hoàn tất một hành trình khẳng định phong
cách tuỳ bút độc đáo của nhà văn khi đi theo con đường cách mạng. Vốn sống và tài năng của người nghệ
sĩ tài hoa này đã gặp được môi trường Tây Bắc với bao nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất và con
người, từ đó giúp ông có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kỳ vĩ nên thơ về Tây Bắc trong
lòng bạn đọc.
Thiên tuỳ bút Người lái đò sông Đà trước hết đem lại cho chúng ta ấn tượng đặc biệt về
hình ảnh và công việc của ông lái đò Lai Châu, người mà nhà văn đã gọi là bạn trên tinh thần “qui thuận
quần chúng một cách tự giác” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ông lái đò là hình ảnh một người lao động
mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết ngoại hình : tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra
như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như
nhìn về một bến xa nào đó… Tuổi tác không làm mất đi sức sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với
công việc của ông. Bằng cách tạo ấn tượng đặc biệt về nhân vật từ ban đầu, nhà văn dẫn dắt chúng ta vào
thế giới sông nước chứa đựng bao thử thách hiểm nguy nhưng có sức cuốn hút riêng với những người ưa
thích phiêu lưu mạo hiểm. Bằng thủ pháp của điện ảnh, bằng ngôn từ của mình, Nguyễn Tuân đã dựng
lên cả một thế giới sông nước sinh động :
«nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Ấy vậy nhưng ông lão đã tuổi bảy mươi đã bao
phen thể hiện tài năng vượt thác leo ghềnh, vượt qua thử thách hiểm nguy mà vẫn còn trẻ tráng, dẻo dai !
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh
con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá
sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được
nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh
tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung
bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn
nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc
với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc
biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu
sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần
chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này”. Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên
ngang hàng danh tướng “biết mình biết ta trăm trận trăm thắng”. Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông
lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay
sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ.
Sông nước lại thanh bình”. Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến
đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác”,
nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những “cá anh vũ, cá dầm xanh”, những
hầm cá hang cá “túa ra đầy tràn ruộng”. Sông Đà dữ thì có “diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một”,
nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang
trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.”, “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…”, “mùa thu nước sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”…Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng
chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như
một “cố nhân”. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về
một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : “Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào
dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà
vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc
này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc
sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc
từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức
mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã
giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang
xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể
loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực.
Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh
tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con
đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng.
Bài làm 2
Theo lí thuyết thi pháp học hiện đại, hình tượng tác giả là sự nhập thân của ý thức người sáng tạo vào
trong tác phẩm nghệ thuật. Nếu hình tượng nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc hư cấu, được miêu tả
theo một quan niệm nghệ thuật về con người và theo tính cách nhân vật thì hình tượng tác giả trong bút
ký, tùy bút được thể hiện theo nguyên tắc tự biểu hiện. Hình tượng tác giả biểu hiện ở cái nhìn, sự quan
tâm lựa chọn những chủ đề, đề tài, thể loại, ở ngôn ngữ và cách diễn đạt của chủ thể sáng tạo. Hình tượng
tác giả là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc của tác phẩm.
Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm cùng tên tập bút ký xuất bản vào năm 1986 của Hoàng Phủ Ngọc
Tường sau hai tập bút ký Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979). Tám bút ký
trong tập sách vẫn được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết với cảm hứng ngợi ca và âm hưởng sử thi bởi người
yêu nước Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn tri ân với sự hi sinh cao cả và những chiến công anh hùng của
nhân dân. Nhưng điều đặc biệt ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc còn gắn với
tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên và truyền thống văn hoá của dân tộc. Ông đặc biệt trân trọng say mê
văn hoá và lịch sử của mảnh đất quê hương. Bằng giọng văn đẹp, trầm lắng và tha thiết, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã viết về dòng sông quê hương, về hoa t*** quanh ông với một tình cảm gắn bó sâu nặng “Lớn
lên ở Huế, không lúc nào tôi không cảm thấy thành phố này như một khu vườn thân mật của mình” (Hoa
tươi quanh tôi).
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút ký trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng
với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc hoạ, dòng
sông và con người xứ Huế.
Thiên bút ký là cuộc hành trình đi tìm cội nguồn dòng sông Hương thơ mộng. Đồng hành cùng nhân vật
“tôi” trong tác phẩm, người đọc mới biết những bước thăng trầm của dòng sông Hương trong hành trình
đầy gian truân của nó “Trước khi về đến châu thổ êm đềm nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm
rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí
ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng” [1, tr.316.]. Bằng sức tưởng tượng miên man kết hợp với tư duy nghiên cứu, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã cung cấp cho người đọc nhiều tri thức lịch sử, địa lí phong phú về sự hình thành sông Hương từ
nguồn ra biển. “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình” [1, tr.316], “ra khỏi
vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục…Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam
Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất Nguyệt
Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ, xuôi dần về Huế” [1, tr.317]. Người đọc cảm thấy nhận thức của mình được thỏa mãn trong sự tra
cứu tỉ mỉ và nghiêm túc những thông tin khoa học địa lí của tác giả.
Nếu tư duy nghiên cứu chủ yếu cung cấp những dữ kiện, những tri thức về dòng sông thì tư duy nghệ
thuật giúp những tri thức đó trở nên mềm mại hơn. Hình tượng dòng sông được diễn đạt bằng những hình
ảnh so sánh, những liên tưởng tài tình độc đáo “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một
cô gái di -gan phóng khoáng và man dại; dòng sông mềm như tấm lụa; sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…” [1, tr.316-318]. Có thể thấy bản lĩnh của nhà văn và phong cách
cá nhân cũng đã được biểu hiện thông qua những liên tưởng. Sự kết hợp giữa tri thức khoa học với những
hư cấu tài tình thông qua thủ pháp nhân cách hoá, để rồi dòng sông Hương không còn là một sự vật vô tri
vô giác nữa mà nó trở thành một nhân vật có tâm hồn có sức sống mãnh liệt như con người trong những
bước thăng trầm của cuộc đời. Gs Trần Đình Sử khi nghiên cứu bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã ví
“hành trình của sông Hương từ nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế” với những cung bậc
mãnh liệt và lắng sâu, trữ tình và bình thản trí tuệ [2, tr.294].
Từ phương diện hình tượng tác giả, những triết luận về dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử cho thấy
một chủ thể sáng tạo am hiểu sâu sắc lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lật tìm trong tư liệu lịch sử
những sự kiện có liên hệ với dòng sông và ông đã thấy “sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang
với nhiệm vụ lịch sử của nó”. Dòng sông như người dũng sĩ trấn giữ biên thuỳ đã nhiều lần chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt rồi vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của
người anh hùng Nguyễn Huệ [1, tr.322.], cùng sống những giây phút hào hùng của hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ để cuối cùng trở về sống cuộc sống bình thường, làm người con gái dịu dàng
của đất nước [1, tr.322]. Với lịch sử sông Hương đã là một chứng nhân, điều đó đã khiến thành phố Huế
mang một sức hấp dẫn về văn hoá và du lịch có tầm quốc gia và quốc tế [1, tr.321].
Tất nhiên, sông Hương không chỉ là dòng sông của lịch sử bởi vẻ đẹp trầm mặc như triết lí,
như cổ thi mà còn là cảm hứng muôn đời của thi ca, nhạc hoạ. Trong mối quan hệ với văn chương dòng
sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của người nghệ sĩ. Từ trong thơ Nguyễn Du, Bà
Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Đoàn Phú Tứ, Tố Hữu…dòng sông hiện lên với những hình
dáng và màu sắc khác nhau trong mọi cung bậc của cảm xúc. Những đoản thi mà tác giả trích dẫn cùng
với những tên tuổi của âm nhạc và thi ca cho thấy dòng sông với vẻ đẹp diệu kì để dành riêng cho cảm
hứng nghệ thuật và tri thức [1, tr.320].
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về dòng sông với tấm lòng ưu ái, với tình yêu sâu sắc, thuỷ chung ,
Trong mối quan hệ với con người dòng sông ấy là dòng sông – đời người. Với xứ sở đã sinh thành và cưu
mang nó, sông Hương đã tri ân bằng dòng nước mát lành và phù sa màu mỡ để hoa tươi của những khu
vườn An Hiên ngọt lành, cho những ngôi làng ven sông trở thành ngôi làng thơm tho của Huế. Bút ký Ai
đã đặt tên cho dòng sông? qua tài năng văn chương – Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên một ấn tượng đẹp
trong lòng độc giả. Sông Hương không chỉ đẹp bởi vẻ đẹp hoang sơ và trong sáng trong điệu chảy lững lờ
mà còn đẹp bởi một huyền thoại chứa đựng chiều sâu của tâm linh “vì yêu quý con sông xinh đẹp của
Quê Hương con người ở hai bên bờ sông đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông để làn nước thơm tho
mãi” [1, tr.334].
Trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? cái nhìn liên tưởng cùng những triết luận sâu sắc của Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã tạo ra một hình tượng nghệ thuật đẹp – hình tượng dòng sông. Với Hoàng Phủ Ngọc
Tường, “sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới ở đời” (Sử thi buồn), nó là
“Dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, vẻ đẹp của dòng sông đổi
sắc không ngừng dưới ánh nắng và trong mùi hương trốn tìm của hoa tươi trong vườn” (Hoa tươi quanh
tôi). Nhưng nếu như những liên tưởng, so sánh độc đáo của tác giả tạo cho người đọc những ấn tượng đẹp
về dòng sông thiên nhiên thì cảm thức thời gian của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút ký lại đem đến
cho người đọc nhận thức về chiều sâu văn hoá và vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ sở nơi dòng sông đi
qua.
Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? ta mới cảm nhận được văn hoá lịch sử đi qua còn in bóng trên dòng
sông thơ mộng. Dòng chảy của dòng sông không đơn thuần là dòng nước từ nguồn ra biển mà nó là dòng
chảy của thời gian, thời gian hoài niệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phạm Phú Phong đã nhận xét một
cách hình tượng rằng: Bằng chiếc thuyền của tâm hồn có mái chèo là ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
đưa người đọc xuôi theo dòng sông thơm mát lùi xa vào lịch sử đang còn khuất nẻo để khám phá vị trí
lịch sử lâu đời của thành Châu Hoá đứng uy nghiêm soi bóng trên sông Hương. Nó chính là một ải Chi
Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hoá giữ vị trí chiến lược trong việc
trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lý Trường Thành của Phương Nam.
Ngược dòng thời gian Hoàng Phủ Ngọc Tường gửi vào trang viết của mình niềm kính trọng, sự tự hào về
Thành cổ Châu Hoá, về mảnh đất quê hương.
Trong dòng chảy của thời gian hoài niệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra hình bóng của dòng Hương
trên mỗi trang Kiều dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài
của dương liễu và sắc đẹp của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết… [1,
tr.316]. Bằng thủ pháp so sánh, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông và thành phố của nó như
cặp tình nhân lí tưởng của truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Ông
cũng khám ra bản đàn theo suốt đời Kiều lấy cảm hứng từ những năm tháng Nguyễn Du lênh đênh trên
sông nước với một phiến trăng sầu, và từ tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya [1, tr.320].
Không chỉ trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? mà ở Hoa tươi quanh tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng nhắc đến “âm hưởng xứ Huế” trong mỗi trang Kiều, cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường có những
nghiền ngẫm với truyện Kiều và Nguyễn Du. Sự nhạy cảm cùng khả năng quan sát tinh tế luôn thường
trực trong tài năng văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? không gian nội tâm được nuôi dưỡng bằng thời gian hoài niệm. Diện
mạo quá khứ của dòng sông hiện ra một cách rõ nét trên hành trình hoài niệm của nhà văn cổ kim quấn
quýt đan cài. Khi bước vào dòng chảy của thời gian hoài niệm, người đọc không còn nhận ra đâu là điểm
nhìn của hiện tại bởi nhà văn không chỉ ra giới hạn thời gian khi mở đầu và kết thúc tác phẩm. Hoàng Phủ
Ngọc Tường bắt đầu những dòng của Ai đã đặt tên cho dòng sông? bằng thời gian Xuân, Hạ, Thu, Đông,
tôi vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của chị Tùng ở Kim Long và kết thúc bằng một huyền thoại về
dòng sông Hương.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? nhìn ở phương diện thời gian nghệ thuật đã hiện lên bóng dáng cái tôi thứ
hai của tác giả. Một con người luôn hoài vọng quá khứ để nâng niu những giá trị tinh thần. Từ hình tượng
dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm nổi bật vẻ đẹp văn hoá, lịch sử và tâm hồn con người một
vùng đất cổ kính của đất nước.
Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
• người lái đò sông đà của nguyễn tuân
• nguoi lai do song da
• phan tich tac pham nguoi lai do song da
• tác phẩm người lái đò sông đà của nguyễn tuân
• tac pham nguoi lai do song da
• văn bản người lái đò sông đà
• song da nhu co nhan
• người lái đò trên sông Đà
• cam nhan cua anh chi ve hinh tuong nguoi lai do song da
• cam nhan ve nguoi lai do song da,