Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

5 bài văn cảm nhận vợ chồng a phủ (toàn bộ tác phẩm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.72 KB, 18 trang )

Đề 1: Cảm nhận tâm trạng của Mị trong đoạn trích sau. Từ đó nhận xét về tư tưởng
nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết...Mị
nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì
thơi.”
BÀI LÀM
Tơ Hồi đã là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơi thở cuộc sống đầy ắp trên từng trang
viết của Tô Hồi đã đưa ơng cùng nhiều tên tuổi khác làm nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt
Nam thế kỉ XX”. Sáng tác của Tơ Hồi thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc
biệt là phong tục và sinh hoạt đời thường. Nghệ thuật văn xi Tơ Hồi có nhiều đặc sắc, nổi bật ở lối
trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngơn ngữ phong phú
và đậm tính khẩu ngữ. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Tô Hoài in trong tập “Truyện
Tây Bắc”, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Sau hơn nửa thế kỉ,
tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Trong thiên
truyện, Mị là nhân vật kết tinh giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm. Cảm nhận tâm trạng của nhân vật Mị
trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy rõ hơn tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tô Hoài: "Lần lần,
mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết...Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vng ấy mà trơng
ra, đến bao giờ chết thì thơi.”
Năm 1952, Tơ Hồi đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà văn đã
hiểu biết sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã có những kỉ niệm sâu sắc, những tình cảm thắm
thiết với người và cảnh Tây Bắc. Tập “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là
kết quả của chuyến đi ấy. “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao
Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm
tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở nhân
vật Mị trong đoạn trích này nằm ở giữa phần thứ nhất, kể về cuộc sống tủi nhục của Mị ở Hồng Ngài.
Đoạn trích viết về diễn biến tâm trạng của Mị trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra, cho thấy
số phận bi kịch của người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc
Mị là cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết, là bơng hoa vừa có sắc vừa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị
đang sống trong tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc thì bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Vì món
nợ của bố mẹ mà Mị bị A Sử, con trai thống lí, lợi dụng tục cướp vợ của người Mơng, bắt về làm vợ.
Trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra, Mị mang danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất cô chỉ là
người ở không công. Đi sâu vào tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra, nhà văn Tơ Hồi đã cho thấy


được thân phận trâu ngựa và cuộc sống tủi nhục của Mị.
Từ điểm nhìn bên trong, Tơ Hồi đã nhập vào dịng ý nghĩ của Mị để rồi nhận ra Mị đã bị tê liệt cả
cảm xúc lẫn ý thức. Cô đã nhẫn nhục, cam chịu cuộc sống khổ cực trong địa ngục trần gian nhà thống lí
Pá Tra đến mức đánh mất ý thức về giá trị bản thân và tinh thần phản kháng lại hoàn cảnh. Khi bố Mị
chết, "Mị cũng khơng cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tử tự nữa.” Trước đó, khi bị bắt về nhà thống lí,
vì thương bố, Mị khơng đành lịng chết. Nhưng nay bố Mị chết rồi, sợi dây ràng buộc khơng cịn nữa mà
Mị cũng khơng cịn nghĩ đến cái chết nữa. Khơng phải vì lịng ham sống đã trỗi dậy trong Mị mà bởi
ngay cả chết Mị cũng không thiết nữa. Đi sâu vào cảm nhận cảm giác của Mị, nhà văn đã gián tiếp lý
giải sự thay đổi ấy ở Mị. Mị khơng cịn thiết nghĩ đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi.” Như vậy, Mị đã cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh, số phận, Mị cũng khơng cịn ý thức phản kháng lại
hoàn cảnh. Nỗi khổ đã khiến Mị trở nên chai sạn. Mị đã bị các thế lực cường quyền và thần quyền đè
nén, áp bức đến kiệt quệ về thể xác và tê liệt về tinh thần.


Địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra đã tha hóa Mị, khiến Mị đánh mất cả ý thức về giá trị bản thân
mình: “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải biết đổi ở cái
tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thơi”. Điều xót xa
nhất là chính bản thân Mị đã chấp nhận thân phận trâu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra. Đến bản thân Mị cũng
khơng cịn nghĩ mình là con người nữa. Ở nhà thống lí, Mị bị biến thành cơng cụ lao động. Khối công
việc đè nặng lên vai Mị đã vắt kiệt sức lực và bào mòn cả cảm xúc của Mị. Mị sống trong tâm trạng
mịn mỏi, vơ hồn, vô cảm "không nghĩ ngợi nữa”. Mị dường như khơng cịn khả năng cảm nhận và suy
nghĩ. Trong đầu Mị chỉ còn “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau...Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện,
giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào
cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Đó
khơng phải là kí ức của một con người mà chỉ là thói quen của con trâu, con ngựa nhớ luống cày,
nhớ đường đi. Từ một con người, Mị đã phải sống thân phận của con trâu, con ngựa với khối công việc
vất vả, nặng nhọc, tẻ nhạt, nhàm chán, lặp đi lặp lại từ tháng này qua tháng khác, năm này tiếp năm khác.
Mị đã bị nơ lệ hóa, Mị đã tự biến mình thành cơng cụ lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Giọng trần thuật
của nhà văn hòa vào độc thoại nội tâm nhân vật đã nói lên thật chân thực tâm trạng xót xa, ngậm
ngùi, cay đắng của Mị cho thân phận trâu ngựa của mình.

Nhà văn Tơ Hồi đã chọn được một hình ảnh so sánh độc đáo để tơ đậm thêm tâm trạng nhẫn nhục, cam
chịu thân phận nô lệ của Mị. Nếu hình ảnh con trâu, con ngựa được Tơ Hồi sử dụng để làm bật lên
nỗi khổ về thể xác của Mị thì hình ảnh so sánh Mị “lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa” lại tơ
đậm nỗi đau tinh thần của Mị. Hình ảnh so sánh này gợi liên tưởng đến một cô Mị cô đơn, cô độc, lủi
thủi, âm thầm, lặng lẽ. cam phận trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Chứa đựng trong hình
ảnh so sánh này là biết bao thương cảm của nhà văn cho số phận con người.
Trong tâm trạng bế tắc, tuyệt vọng, Mị dửng dưng, buông xi, vơ cảm với chính số phận của mình, Mị
sống trong tâm trạng chờ chết, mất hết hi vọng về đổi thay số phận. Kết tinh cả nỗi khổ về vật chất và
tinh thần của Mị là hình ảnh căn buồng ngủ của cơ: “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ
một lỗ vng bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng , khơng biết là sương hay nắng. Mị
nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi”. Căn buồng ngủ
của Mị thật chật chội, tù túng, ngột ngạt, tăm tối, thiếu sinh khí. Hình ảnh tả thực này đã làm bật lên
nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra. Buồng ngủ của Mị chẳng khác gì buồng
giam tử tù. Nó như nấm mồ chôn sống một con người chưa kịp chết.
Trong cái ngục thất tinh thần ấy, Mị mất hết cảm nhận về thời gian. Mị không phân biệt nổi “sương
hay nắng”, sáng hay chiều, các giác quan của Mị dường như đã khơng cịn phản ứng với các tín
hiệu của cuộc sống. Mị sống vô hồn, vô cảm, sống mà như đã chết. Trong căn buồng ngột ngạt, tù túng,
Mị không sống mà chỉ đang tồn tại. Điều ám ảnh nhất là Mị khơng có ý muốn thốt khỏi nấm mồ
đang chơn sống mình. Mị sống trong tâm trạng tuyệt vọng của một tử tù đợi ngày ra pháp trường. Trong
tâm trạng đợi chết, Mị bị bóp nghẹt mọi cảm xúc, ước mơ, hi vọng. Lách sâu ngòi bút vào thế giới
tâm hồn của Mị, nhà văn đã nhận ra Mị đã bị tê liệt hoàn toàn cả ý thức về bản thân lẫn hi vọng đổi
thay số phận. Mị đã chấp nhận, bng xi số phận của mình


Tâm trạng của Mị trong đã được nhà văn Tô Hoài thể hiện sống động, chân thực, tự nhiên, hợp lí, phù
hợp với hồn cảnh và tính cách nhân vật. Đặc biệt, ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của nhà văn đã
làm sống dậy cả quá trình tâm trạng của nhân vật với nhiều cảm xúc đan xen phức tạp. Nghệ thuật trần
thuật uyển chuyển, linh hoạt, giọng trần thuật nhiều khi nhập vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của
nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc, vừa bộc lộ trực tiếp thế giới nội tâm nhân vật vừa tạo
được sự đồng cảm nơi người đọc. Ngôn ngữ kể chuyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi đã làm nên

vẻ đẹp riêng cho đoạn trích. Tất cả đã góp phần làm nổi bật số phận bi kịch của Mị. Từ đó, nhà văn cất
tiếng nói lên án những thế lực phong kiến miền núi đã đầy đọa con người trong cuộc sống tăm tối, ngột
ngạt. Đoạn trích miêu tả tâm trạng của Mị đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo cao cả cho tác phẩm Vợ
chồng A Phủ.
Qua đoạn trích, ta thấy ngời sáng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi. Tư tưởng nhân
đạo là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm thể hiện tình cảm quý trọng các giá trị của con người. Cốt lõi,
bản chất của tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương, là chữ “tâm” đối với con người. Tư tưởng nhân đạo
của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích với rất nhiều biểu hiện phong phú. Đó là lên án, tố cáo
tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã áp bức, đày đọa, giam hãm con người trong cuộc sống tăm tối, tủi
nhục. Đó cịn là đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh và cuộc sống cực nhục, của người dân lao
động vùng núi cao Tây Bắc. Đặc biệt, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện sâu sắc nhất
ở sự phát hiện, thấu hiểu, trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và những phẩm chất tốt đẹp của người
dân lao động miền núi trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, tư tưởng nhân đạo của nhà văn cịn ngời sáng ở sự
đồng tình với tinh thần phản kháng, ở sự khẳng đinh sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức vươn dậy mạnh
mẽ, khả năng tự vùng lên để tự giải phóng khỏi ách áp bức của người dân lao động vùng núi cao Tây
Bắc.Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi vẫn tiếp nối truyền thống nhân đạo trong văn học, tuy nhiên
vẫn có những nét mới mẻ. Yêu thương con người nên Tơ Hồi đã khơng chấp nhận nhân vật của mình rơi
vào ngõ cụt. Bởi vậy, nhân vật của ơng dù sống trong tăm tối, cực nhục nhưng không bao giờ chịu đầu
hàng số phận mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần để tâm hồn được hồi sinh. Khẳng định và ngợi ca sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi những con người lao động nghèo khổ là tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới
mẻ của Tơ Hồi nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Tư tưởng nhân đạo đã góp phần
làm nên giá trị và sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
Đoạn trích miêu tả tâm trạng của Mị đã kết tinh giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả của
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Bằng trái tim tràn đầy tình u thương, Tơ Hồi đã phơi bày cuộc sống
tủi nhục của Mị ở nhà thống lí Pá Tra. Đoạn trích cũng cho thấy phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà
văn Tơ Hồi, góp phần đưa ơng lên vị trí hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại.
Qua tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” , không chỉ tố cáo, lên án bọn quan lại phong kiến chúa đất miền núi,
Tơ Hồi cịn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm
hồn của người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh,
gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác trường

tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi Tơ Hồi – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một
dấu ấn không phai trong nền văn học nước nhà.


Đề 2: Cảm nhận về tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích sau
“Ngày Tết, Mị cũng uống rượu ... Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngồi
đường.” từ đó, nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua
đoạn trích.
BÀI LÀM
Tơ Hồi đã là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơi thở cuộc sống đầy ắp trên từng trang
viết của Tô Hồi đã đưa ơng cùng nhiều tên tuổi khác làm nên "mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học
Việt Nam thế kỉ XX”. Sáng tác của Tơ Hồi thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về nhiều lĩnh vực
đời sống, đặc biệt là phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Tác phẩm của ông thiên về diễn tả sự thật
đời thường với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, cách miêu tả giàu chất tạo
hình, ngơn ngữ phong phú và đậm tính khẩu ngữ. "Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của
Tơ Hồi, in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Tác phẩm đã được tặng giải Nhất - Giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Sau hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn
giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Trong thiên truyện, ngòi bút tràn đầy cảm hứng của nhà
văn Tơ Hồi đã xây dựng nhân vật Mị thành hình tượng tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ
miền núi cao Tây Bắc. Cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy được tư tưởng nhân
đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi:“Ngày tết Mị cũng uống rượu...Mà tiếng sáo gọi bạn yêu
vẫn lơ lửng bay ngồi đường”.
Năm 1952, Tơ Hồi đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà văn đã
hiểu biết sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã có những kỉ niệm sâu sắc, những tình cảm thắm
thiết với người và cảnh Tây Bắc. Tập “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là
kết quả của chuyến đi ấy. “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây
Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng
lên phản kháng và đi tìm cuộc sống tự do. Tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở nhân vật Mị
trong đoạn trích này nằm ở giữa phần thứ nhất, kể về cuộc sống tủi nhục của Mị ở Hồng Ngài, trong
địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Hành động và tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân

đã thể hiện khát vọng sống và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật.
Mị là cô gái đẹp người, đẹp nết, là bơng hoa vừa có sắc, vừa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị đang
sống trong tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc thì bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ
của bố mẹ mà Mị bị A Sử, con trai thống lí, lợi dụng tục cướp vợ của người Mông bắt về làm vợ. Trong
địa ngục trần gian nhà thống lí, Mị mang danh nghĩa là con dâu nhưng thực tế cô chỉ là người ở không
công. Cuộc sống bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần đã hủy diệt sức sống tâm hồn Mị khiến Mị đánh
mất ý thức về bản thân lẫn hi vọng đổi thay số phận. Nhưng trong đêm tình mùa xuân, dưới sự tác
động của các yếu tố ngoại cảnh và sức sống tiềm tàng, ở Mị đã thức tỉnh khát khao sống, tâm hồn
Mị đã hồi sinh.
Tác động của tiếng sáo đã dẫn đến hành động “nổi loạn” của Mị. “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén
lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát.” Chất chứa trong từ “cũng” là khát khao được bình đẳng, được hưởng
niềm vui Tết như mọi người. Trong hoàn cảnh của Mị, hành động “lén” uống rượu đã là bất thường nhưng
cách uống rượu lại càng bất thường hơn “cứ uống ực từng bát”. Cái cách uống rượu một hơi, một ực như
thế đem đến cảm nhận Mị uống rượu như để nén lại những khát khao đang trỗi dậy mạnh mẽ. Mị


uống rượu như nuốt hờn, nuốt tủi, nuốt những cay đắng, phẫn uất vào lòng. Trong hành động uống rượu
và cách uống rượu của Mị đã chứa đựng sự phản kháng lại hoàn cảnh, chống lại số phận.
Tiếng sáo và men rượu đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị, đã đưa hồn Mị thoát khỏi địa ngục trần
gian nhà thống lí Pá Tra, đưa Mị về một miền nhớ xa xơi, để “lịng Mị thì đang sống về ngày trước”.
Tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức quá khứ trong lịng Mị; song đó khơng phải là q khứ đau khổ mà là
quá khứ hạnh phúc gắn liền với tuổi trẻ và tình yêu. “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị
uống rượu bên bếp và thổi sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao
nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Quá khứ hạnh phúc ấy là một sự tương phản, đối
lập gay gắt với hiện thực đen tối địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Trước đây Mị được yêu thương,
nâng niu trân trọng cịn bây giờ cơ bị vùi dập, bị đối xử tệ bạc. Sức mạnh của quá khứ hạnh phúc đã
đưa Mị thoát khỏi hiện tại. Bởi vậy, khi “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả” mà
Mị vẫn “không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.” Mị khơng biết vì Mị khơng sống với hiện tại
mà đang sống trong quá khứ và chỉ biết đến quá khứ mà thôi. Ở khoảnh khắc này, quá khứ hạnh phúc đã
chiến thắng hiện thực đen tối.

Lách sâu ngòi bút vào thế giới tâm hồn Mị, Tơ Hồi đã tinh tế phát hiện ra sự giao tranh giữa một bên
là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận. Mặc dù lòng Mị đang sống với quá khứ hạnh
phúc, tâm hồn Mị đang rạo rực theo tiếng sáo gọi bạn u nhưng chân Mị theo thói quen thì lại "từ từ
bước vào buồng” rồi “Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng.”
Bước chân của Mị, hành động của Mị là theo thói quen, là vơ thức. Nó là bằng chứng sống động nhất
cho thấy ở Mị vẫn còn sự ám ảnh quá lớn về thân phận, bóng ma thần quyền và cường quyền vẫn đè
nặng lên tâm hồn Mị. Tơ Hồi đã đặt Mị vào cuộc giao tranh quyết liệt giữa quá khứ và hiện tại,
giữa vô thức và ý thức. Dường như trong Mị đang có một sự giằng co giữa lịng ham sống và cảm
thức về thân phận. Sức sống tâm hồn, khát khao tình yêu hạnh phúc đã được đánh thức, đã trỗi dậy
mạnh mẽ nhưng nỗi đau thân phận vẫn cịn đó, như một bức tường chắn ngang khơng cho chân Mị bước
ra ngồi đường để hưởng khơng khí vui tươi của ngày Tết. Sự tinh tế của ngòi bút Tơ Hồi chính là ở chỗ
đó.
Từ khi bước chân vào trong buồng, mặc dù bề ngoài Mị vẫn hành động theo thói quen nhưng trong lịng
Mị đã có những sự thay đổi lớn lao. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như
những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Lịng ham sống như cơn
gió đột khởi đã thổi bùng lên trong lòng Mị những cảm xúc tích cực. Sự “phơi phới”, “vui sướng” đột
ngột trỗi dậy đã hồi sinh tâm hồn Mị. Ở Mị không chỉ có sự trỗi dậy của cảm xúc mà cịn là ý thức về
giá trị bản thân. Trước đó Mị tưởng “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” Nhưng trong
khoảnh khắc này, Mị đã nhận ra, Mị đã ý thức Mị là 1 con người đang trong tuổi trẻ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Tơ Hồi đã để cho Mị độc thoại nội tâm bằng ngôn ngữ nửa trực tiếp. Ba
câu văn rất ngắn này là lời trần thuật của tác giả nhưng lại mang giọng điệu của nhân vật. Hình thức
tự sự này đã giúp nhà văn “dò la” được những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn Mị, đã nói hộ những
thổn thức trong trái tim Mị. Khi Mị ý thức được tuổi trẻ của mình cũng chính là lúc trong lòng Mị trỗi
dậy khao khát cháy bỏng “Mị muốn đi chơi”, Mị muốn được sống trong tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc,
Mị muốn được sống một cuộc đời có ý nghĩa.
Khi một người đàn bà khơng cịn đối hồi đến bản thân mình bỗng nhận ra mình cịn “trẻ lắm”


thì đó là cảm xúc bi kịch. Đó là lúc ở Mị không chỉ trỗi dậy ý thức về giá trị bản thân mà cịn là nỗi
xót xa, tiếc nuối cho tuổi trẻ của mình. Bi kịch tâm hồn của Mị chính là ở chỗ khi ý thức về giá trị bản

thân, khi lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất lại chính là lúc Mị nhói lên nỗi đau thân phận
“Huống chi A Sử với Mị, khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Trong khoảnh khắc này, hơn
lúc nào hết, Mị đã thấm thía cảnh ngộ trớ trêu, ngang trái của mình, sự bất hạnh trong cuộc hơn nhân
khơng tình u của mình. Và đỉnh điểm của bi kịch chính là lúc Mị nghĩ đến cái chết “Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt
ứa ra.” Chính lúc khao khát sống nhất thì Mị lại có ý nghĩ muốn chết. Bi kịch nội tâm nhân vật Mị nảy
sinh từ xung đột giữa hiện thực nghiệt ngã với khát vọng tươi đẹp. Khi lòng ham sống trỗi dậy mãnh
liệt nhất thì lại là lúc Mị muốn “chết ngay” bởi lúc này Mị đã hoàn toàn ý thức được về hồn cảnh éo le
của cuộc đời mình. Cái ý nghĩ muốn chết lại phù hợp với hoàn cảnh lúc này của Mị, Mị tìm đến cái chết
như là để tìm đến cái cơng bằng về một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống như Mị hằng mong đợi. Ý
nghĩ của Mị khiến người đọc nhớ đến câu nói của Hegel: “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn
thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra”. Phải chăng, Tơ Hồi đã miêu tả tâm lí của Mị trên cái đỉnh cao
mâu thuẫn đó, để ta thấy đằng sau người con dâu gạt nợ lầm lũi, vô cảm kia là một cô gái yêu đời,
ham sống đến cuồng nhiệt. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra khi “tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lửng lơ bay ngồi
đường.” Tiếng sáo của tình u tuổi trẻ lại thơi thúc Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi. Khát vọng
sống mãnh liệt được đẩy lên đến cao độ bởi sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng. Tâm hồn Mị diễn biến
rất phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lý giữa thân phận con dâu
gạt nợ và niềm vui phơi phới muốn đi chơi Tết.
Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xn đã được nhà văn Tơ Hồi thể hiện
sống động, chân thực, tự nhiên, hợp lí, phù hợp với hồn cảnh và tính cách nhân vật. Đặc biệt, ngịi bút
miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của nhà văn đã làm sống dậy cả quá trình tâm trạng của nhân vật với nhiều
cảm xúc đan xen phức tạp. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, giọng trần thuật nhiều khi nhập
vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bộc lộ trực tiếp thế giới nội tâm nhân vật vừa
tạo được sự đồng cảm nơi người đọc. Tất cả đã làm nổi bật sức sống tâm hồn tiềm tàng mãnh liệt của Mị
ngay trong hồn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã. Đoạn trích miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm
tình mùa xn đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo cao cả cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
Qua đoạn trích, ta thấy ngời sáng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi. Tư
tưởng nhân đạo là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm thể hiện tình cảm quý trọng các giá trị của con
người. Cốt lõi, bản chất của tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương, là chữ “tâm” đối với con người. Tư
tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích với rất nhiều biểu hiện phong

phú. Đó là lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã áp bức, đày đọa, giam hãm con người
trong cuộc sống tăm tối, tủi nhục. Đó cịn là đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh và cuộc sống cực
nhục, của người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc. Đặc biệt, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi
được thể hiện sâu sắc nhất ở sự phát hiện, thấu hiểu, trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, tư tưởng nhân đạo của
nhà văn cịn ngời sáng ở sự đồng tình với tinh thần phản kháng, ở sự khẳng đinh sức sống tiềm tàng mãnh
liệt, sức vươn dậy mạnh mẽ, khả năng tự vùng lên để tự giải phóng khỏi ách áp bức của người dân lao
động vùng núi cao Tây Bắc. Đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ. Tư tưởng nhân đạo
của nhà văn Tơ Hồi vẫn tiếp nối truyền thống nhân đạo trong văn học, tuy nhiên vẫn có những nét
mới mẻ. Yêu thương con người nên Tơ Hồi đã khơng chấp nhận nhân vật của mình rơi vào ngõ cụt. Bởi


vậy, nhân vật của ông dù sống trong tăm tối, cực nhục nhưng không bao giờ chịu đầu hàng số phận mà
vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần để tâm hồn được hồi sinh. Khẳng định và ngợi ca sức sống tiềm tàng,
mãnh liệt nơi những con người lao động nghèo khổ là tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tơ Hồi
nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Tư tưởng nhân đạo đã góp phần làm nên giá trị và
sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
Đoạn trích miêu tả hành động và tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã kết tinh giá
trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Bằng trái tim tràn đầy
tình u thương, Tơ Hồi khơng chỉ phơi bày cuộc sống tủi nhục của Mị ở nhà thống lí Pá Tra mà còn
khám phá và phát hiện bao nét đẹp tâm hồn của Mị. Đặc biệt, miêu tả thành công sự thức tỉnh từ bên
trong Mị, nhà văn Tơ Hồi đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những
con người lao động nghèo khổ trong ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đoạn trích cũng cho thấy
phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tơ Hồi, góp phần đưa ơng lên vị trí hàng đầu của văn học
Việt Nam hiện đại.
Qua tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” , không chỉ tố cáo, lên án bọn quan lại phong kiến chúa đất miền núi,
Tơ Hồi cịn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm
hồn của người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh,
gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác trường
tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi Tơ Hồi – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ cịn sống mãi, ghi một

dấu ấn khơng phai trong nền văn học nước nhà.

Đề 3: Cảm nhận tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tư
tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hồi. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như khơng
biết mình đang bị trói...Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh
thịt”
BÀI LÀM
Tơ Hồi đã là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơi thở cuộc sống đầy ắp trên từng trang
viết của Tơ Hồi đã đưa ơng cùng nhiều tên tuổi khác làm nên "mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học
Việt Nam thế kỉ XX”. Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về nhiều lĩnh vực
đời sống, đặc biệt là phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Tác phẩm của ông thiên về diễn tả sự thật
đời thường với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, cách miêu tả giàu chất tạo
hình, ngơn ngữ phong phú và đậm tính khẩu ngữ. "Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của
Tơ Hồi, in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Tác phẩm đã được tặng giải Nhất - Giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Sau hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn
giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Trong thiên truyện, Mị là nhân vật kết tinh giá trị nhân
đạo cao cả của tác phẩm, ngòi bút tràn đầy cảm hứng của nhà văn Tơ Hồi đã xây dựng nhân vật Mị
thành hình tượng tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi cao Tây Bắc. Cảm nhận tâm


trạng của nhân vật Mị trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy rõ hơn tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà
văn Tơ Hồi: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như khơng biết mình đang bị trói...Cổ tay, đầu, bắp chân
bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt”

Năm 1952, Tơ Hồi đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà văn đã
hiểu biết sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã có những kỉ niệm sâu sắc, những tình cảm thắm
thiết với người và cảnh Tây Bắc. Tập “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là
kết quả của chuyến đi ấy. “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây
Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng
lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở nhân vật Mị trong

đoạn trích này nằm ở giữa phần thứ nhất, kể về cuộc sống tủi nhục của Mị ở Hồng Ngài, trong địa
ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Đoạn trích viết về diễn biến tâm trạng của Mị khi bị A Sử trói
đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân, cho thấy số phận bi kịch và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
của Mị.
Mị là cô gái đẹp người đẹp nết, là bơng hoa vừa có sắc vừa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị đang
sống trong tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc thì bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ
của bố mẹ mà Mị bị A Sử, con trai thống lí, lợi dụng tục cướp vợ của người Mông bắt về làm vợ trừ nợ.
Trong địa ngục trần gian nhà thống lí, Mị mang danh nghĩa là con dâu nhưng thực tế cô chỉ là người ở
không công. Cuộc sống bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần đã hủy diệt sức sống tâm hồn Mị khiến Mị
đánh mất ý thức về bản thân lẫn hi vọng đổi thay số phận. Cô sống mà như đã chết. Nhưng trong đêm tình
mùa xuân, dưới sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh và sức sống tiềm tàng, Mị đã thức tỉnh khát khao
sống. Lòng ham sống như cơn gió đột khởi đã thổi bùng lên trong lịng Mị những cảm xúc tích cực, đã
hồi sinh tâm hồn Mị. Mị khơng chỉ nhận ra mình cịn “trẻ lắm” mà còn khao khát được đi chơi, được hịa
mình vào khơng khí náo nức của ngày tết, được sống với tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Từ ước muốn
đi chơi, Mị đã có hành động chuẩn bị đi chơi. Song A Sử đã dập tắt ước mơ của Mị một cách tàn
nhẫn. A Sử đã trói đứng Mị vào cột khiến Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Đi sâu vào diễn
biến tâm trạng của Mị khi bị A Sử trói, nhà văn Tơ Hồi đã cho ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng,
mãnh liệt của Mị ngay trong hoàn cảnh đớn đau.
Mặc dù bị A Sử trói tàn nhẫn bằng cả một thúng sợi đay nhưng Mị như qn hẳn mình đang bị
trói, qn cả những đau đớn về thể xác để vẫn thả hồn theo những âm thanh náo nức của đêm tình
mùa xn: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như khơng biết mình đang bị trói. Hơi rượu cịn nồng nàn,
Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị khơng biết mình đang bị
trói vì Mị đang sống trong thế giới của mơ ước, của khát vọng. Thể xác Mị đang bị trói nhưng tâm hồn cô
đã bay bổng theo tiếng sáo, đã thuộc về thế giới tự do bên ngoài địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra.
Đỉnh điểm của tâm trạng “mê” ấy là hành động “Mị vùng bước đi”. Từ “vùng” đã diễn tả thật sống
động hành động mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm vượt thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt, tù túng của Mị.
Tiếng sáo đã tác động lớn lao tới tâm hồn Mị, nó thơi thúc Mị khiến Mị vùng bước đi, quên cả thực tại
đau khổ trước mắt. Mị vùng bước đi theo sự vẫy gọi của tiếng sáo, bước về phía cuộc sống tự do với tuổi
trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Ước mơ và khao khát trong lịng Mị lớn đến nỗi đã giúp cơ quên đi sợi
dây trói đang cứa vào da thịt. Nét tâm trạng này chính là biểu hiện chân thực nhất của sức sống tâm hồn

tiềm tàng, mãnh liệt nơi Mị.


Chỉ đến khi “Mị vùng bước đi” Mị mới biết mình đang bị trói. Trước khi Mị “vùng bước đi”, Mị
sống trong thế giới của mơ ước thì sau khi bước đi, cô đã trở về với thực tại, không còn trạng thái
mê mà là tỉnh. Mị đã tỉnh hẳn khi nhận ra “tay chân đau không cựa được”. Mị cũng khơng cịn “ nghe
tiếng sáo nữa. Chỉ cịn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ.” .Khi
tiếng sáo vụt tắt, Mị trở về với thực tại, ý thức rõ về thân phận của mình. Nếu âm thanh “tiếng sáo”
là biểu tượng cho ước mơ, khát vọng, hạnh phúc thì “tiếng chân ngựa đạp vào vách”, tiếng ngựa “ gãi
chân, nhai cỏ” là những âm thanh của thực tại, là biểu tượng cho kiếp sống “khơng bằng con ngựa” của
Mị. Nó gợi lên trong Mị những cảm nhận xót xa, nhức nhối về thân phận: “Mị thổn thức nghĩ mình khơng
bằng con ngựa”. Hình ảnh so sánh con người với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm.
Trước đó, trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra, Mị tưởng “ mình cũng là con trâu, mình cũng là
con ngựa” thì đó là ý nghĩ của con người cam chịu, quen khổ. Cịn giờ đây, nó là cái thổn thức của tâm
hồn bị vùi dập bỗng uất ức nhận ra “mình khơng bằng con ngựa”. Đó là sự thức tỉnh về thân phận, là
dấu hiệu của sự phản kháng lại hồn cảnh. Sợi dây trói chỉ làm đau thể xác Mị còn tiếng chân ngựa
đạp vào vách mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị.
Cả đêm hôm ấy, Mị sống trong tâm trạng giằng xé giữa khao khát cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn,
giữa quá khứ và hiện tại, giữa tỉnh và mê. Lúc thì Mị cảm nhận “dây trói thít lại đau nhức”, khi thì
“Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Mặc dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn song suốt đêm mùa xuân ấy quá
khứ vẫn “nồng nàn tha thiết” trong nỗi nhớ của Mị với “hơi rượu tỏa, tiếng sáo dập dờn”. Thần quyền
và cường quyền tàn bạo đã khơng thể dập tắt nổi khát vọng tình u, hạnh phúc nơi Mị. Khi Mị
sống trong trạng thái “tỉnh” là lúc Mị đối mặt với nỗi đau thể xác và tinh thần, với thực tại tàn nhẫn. Còn
khi Mị sống trong tâm trạng “mê” là lúc Mị sống với quá khứ ngọt ngào, với khát khao hạnh phúc cháy
bỏng. Khi ấy quá khứ đã chiến thắng và vượt lên số phận bi kịch. Cuộc “nổi loạn” của Mị trong đêm
tình mùa xn tuy khơng thành nhưng đã cho người đọc thấy được tinh thần phản kháng và sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn Mị.
Vào buổi sáng hôm sau khi Mị “bàng hoàng tỉnh”, Mị sống trong tâm trạng vừa lo sợ, vừa thương
mình và thương những người cùng cảnh ngộ. Cảm xúc đầu tiên của Mị sau khi tỉnh là trăn trở, lo lắng
cho những người đàn bà khốn khổ trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra: “ Khơng biết bên buồng

quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có cịn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ
sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị khơng thể biết. Ðời người đàn bà
lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đi con ngựa của chồng”. Lách
sâu ngòi bút vào thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn Tơ Hồi đã cho ta thấy những đổi thay lớn lao ở Mị.
Ta không cịn thấy một cơ Mị sống vơ hồn vơ cảm, dửng dưng với tất cả những gì đang diễn ra xung
quanh mình. Sau đêm tình mùa xuân, ở Mị đã có sự bừng thức về nỗi đau thân phận. Mị khơng chỉ
thương mình mà cịn thương xót cả những người đàn bà cùng chung cảnh ngộ với mình. Giọng trần thuật
của nhà văn hòa cùng độc thoại nội tâm nhân vật đã tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Nét nghệ
thuật này vừa làm bật lên tiếng lòng đầy ngậm ngùi, cay đắng, xót xa cho thân phận của Mị vừa
cho ta cảm nhận được tấm lòng yêu thương, đồng cảm của nhà văn.


Đặc biệt, nhà văn Tơ Hồi đã tinh tế phát hiện ra nét tâm lí sợ chết của Mị: “Mị chợt nhớ lại câu chuyện
người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong ba ngày rồi đi chơi, khi về
nhìn đến vợ thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình cịn sống hay chết”. Trước đêm
tình mùa xuân, Mị từng nghĩ “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì
thơi.” Mị từng sống trong tâm trạng đợi chết, coi cái chết là một sự giải thoát. Song sau đêm tình
mùa xn, khi Mị đã có ý thức về giá trị bản thân, khi ở Mị đã trỗi dậy khát khao tình yêu, hạnh phúc thì
Mị lại sợ chết. Nỗi sợ này của Mị là biểu hiện rõ nhất của khát khao sống. Nó là kết quả của sự hồi sinh
tâm hồn. Mị sợ cái chết tức là cơ đã khơng cịn dửng dưng, vơ cảm với chính số phận của mình.
Diễn biến tâm trạng của Mị khi bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xn đã được nhà văn Tơ
Hồi thể hiện sống động, chân thực, tự nhiên, hợp lý, phù hợp với hồn cảnh và tính cách nhân vật. Đặc
biệt, ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của nhà văn đã làm sống dậy cả quá trình tâm trạng của nhân
vật với nhiều cảm xúc đan xen phức tạp. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, giọng trần thuật
nhiều khi nhập vào dịng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc
sắc, vừa bộc lộ trực tiếp thế giới nội tâm nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm nơi người đọc. Ngôn ngữ kể
chuyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi đã làm nên vẻ đẹp riêng cho đoạn trích. Tất cả đã góp phần
làm nổi bật số phận bi kịch và sức sống tâm hồn tiềm tàng mãnh liệt của Mị ngay trong hoàn cảnh trớ
trêu, nghiệt ngã. Đoạn trích miêu tả tâm trạng của Mị khi bị trói đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo cao
cả cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Qua đoạn trích, ta thấy ngời sáng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi. Tư
tưởng nhân đạo là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm thể hiện tình cảm quý trọng các giá trị của con
người. Cốt lõi, bản chất của tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương, là chữ “tâm” đối với con người. Tư
tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích với rất nhiều biểu hiện phong
phú. Đó là lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã áp bức, đày đọa, giam hãm con người
trong cuộc sống tăm tối, tủi nhục. Đó cịn là đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh và cuộc sống cực
nhục, của người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc. Đặc biệt, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi
được thể hiện sâu sắc nhất ở sự phát hiện, thấu hiểu, trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, tư tưởng nhân đạo của
nhà văn cịn ngời sáng ở sự đồng tình với tinh thần phản kháng, ở sự khẳng đinh sức sống tiềm tàng mãnh
liệt, sức vươn dậy mạnh mẽ, khả năng tự vùng lên để tự giải phóng khỏi ách áp bức của người dân lao
động vùng núi cao Tây Bắc. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi vẫn tiếp nối truyền thống nhân
đạo trong văn học, tuy nhiên vẫn có những nét mới mẻ. Yêu thương con người nên Tơ Hồi đã khơng
chấp nhận nhân vật của mình rơi vào ngõ cụt. Bởi vậy, nhân vật của ông dù sống trong tăm tối, cực nhục
nhưng không bao giờ chịu đầu hàng số phận mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần để tâm hồn được hồi
sinh. Khẳng định và ngợi ca sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi những con người lao động nghèo khổ là tư
tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tơ Hồi nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung.
Tư tưởng nhân đạo đã góp phần làm nên giá trị và sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
Đoạn trích miêu tả tâm trạng của Mị khi bị A Sử trói vào đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân ở Hồng
Ngài đã kết tinh giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.


Bằng trái tim tràn đầy tình u thương, Tơ Hồi không chỉ phơi bày cuộc sống tủi nhục của Mị ở nhà
thống lí Pá Tra mà cịn khám phá và phát hiện bao nét đẹp tâm hồn của Mị. Đặc biệt, miêu tả thành công
sự thức tỉnh từ bên trong Mị, nhà văn Tơ Hồi đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng
mãnh liệt của những con người lao động nghèo khổ trong ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đoạn
trích cũng cho thấy phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tơ Hồi, góp phần đưa ơng lên vị trí hàng
đầu của văn học Việt Nam hiện đại.
Qua tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” , không chỉ tố cáo, lên án bọn quan lại phong kiến chúa đất miền núi,
Tơ Hồi còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm

hồn của người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn
niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác trường tồn. Áng
văn ấy, cùng tên tuổi Tơ Hồi – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn
không phai trong nền văn học nước nhà.

Đề 4: Cảm nhận về tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
“Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa…Và hai người lẳng lặng
đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.” từ đó, nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn
Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích.
BÀI LÀM
Tơ Hồi đã là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơi thở cuộc sống đầy ắp trên từng trang
viết của Tơ Hồi đã đưa ông cùng nhiều tên tuổi khác làm nên "mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt
Nam thế kỉ XX”. Sáng tác của Tơ Hồi thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về nhiều lĩnh vực đời
sống, đặc biệt là phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Tác phẩm của ông thiên về diễn tả sự thật đời
thường với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngơn
ngữ phong phú và đậm tính khẩu ngữ. "Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của Tô Hoài, in
đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Truyện ngắn đã được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội
Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Sau hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức
hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Trong thiên truyện, ngòi bút tràn đầy cảm hứng của nhà văn Tơ Hồi
đã xây dựng nhân vật Mị thành hình tượng tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi
cao Tây Bắc. Cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích sau, ta sẽ thấy được tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi:“ Lúc ấy đã khuya...Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống
dốc núi.”
Năm 1952, Tơ Hồi đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà văn đã
hiểu biết sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã có những kỉ niệm sâu sắc, những tình cảm thắm
thiết với người và cảnh Tây Bắc. Tập “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là
kết quả của chuyến đi ấy. “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây
Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng
lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở nhân vật Mị trong
đoạn trích này nằm ở cuối phần thứ nhất của tác phẩm, kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng

Ngài, trong địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Đoạn truyện viết về bước chuyển trong tâm trạng


của Mị từ lúc nhìn thấy dịng nước mắt của A Phủ dẫn đến hành động Mị cởi trói cho A Phủ rồi
cùng A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cởi trói cho
A Phủ cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức, thể hiện khát vọng sống, khả năng phản
kháng chống lại hoàn cảnh mãnh liệt của nhân vật.
Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã thức tỉnh khát khao sống, tâm hồn Mị đã hồi sinh với những khao khát
về tình yêu và hạnh phúc. Song A Sử đã tàn nhẫn bóp nghẹt ước mơ của Mị, trói đứng Mị vào cột bằng
cả một thúng sợi đay. Sau đêm tình mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp trâu ngựa, Mị càng câm lặng,
dửng dưng, vô cảm với tất cả. Bởi vậy, trước cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay.
Những tưởng tâm hồn Mị đã nguội lạnh, đã chết hẳn . Song nhà văn Tơ Hồi đã lách sâu ngòi bút vào
thế giới nội tâm của Mị để khám phá ra trong tâm hồn Mị vẫn âm ỉ ngọn lửa của tình u thương,
của lịng ham sống, của khát khao tự do, hạnh phúc. Ngọn lửa ấy đã được cơn gió của niềm đồng
cảm thổi bùng lên thành sức mạnh quật khởi giúp Mị giải phóng cho A Phủ và cho chính bản thân Mị.
Bước chuyển trong tâm trạng của Mị từ thản nhiên, vô cảm sang đồng cảm với người cùng cảnh
ngộ bắt đầu từ lúc Mị nhìn thấy dòng nước mắt A Phủ: “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông
sang, thấy hai mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Dòng nước mắt của A Phủ là chi tiết nghệ thuật quan trọng đã làm biến đổi tâm trạng của Mị, dẫn
đến bước ngoặt trong cuộc đời, trong số phận của Mị và A Phủ. Dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng
của một chàng trai cường tráng đã đánh thức kí ức của Mị : “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị,
Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ , không biết lau đi
được”. Nước mắt gợi nhớ nước mắt. Chính ký ức này đã khơi nguồn cho niềm đồng cảm trong lòng
Mị. Mị thấu hiểu nỗi đau đớn của A Phủ bởi chính Mị cũng đã từng bị trói đứng như thế. Từ nỗi xót
thương cho mình, Mị đã thương xót người cùng cảnh ngộ “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.” Câu văn với nhịp ngắn đã diễn tả thật tinh tế những thổn
thức của một trái tim giàu lịng trắc ẩn. Mị xót cho A Phủ như thương xót chính bản thân mình. Mị
đã cảm nhận nỗi đau đớn của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình.
Cùng với tình thương người, sống dậy trong lịng Mị cả lòng căm thù và sự phẫn nộ khi Mị nhận
thức được những tội ác vơ lí, tàn bạo của nhà thống lý Pá Tra: "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến

chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này.Chúng
nó thật độc ác… Người kia việc gì mà phải chết thế”. Như vậy, dịng nước mắt của A Phủ không chỉ
làm thay đổi cảm xúc của Mị mà còn làm biến đổi cả nhận thức của cô. Mị đã nhận thức sâu sắc sự
độc ác của cha con thống lí Pá Tra, thấy rõ sự khốn khổ vô lý đang ập xuống cuộc đời A Phủ.

Từ chỗ nhận thức được sự độc ác của nhà thống lí Pá Tra, ở Mị đã thức tỉnh tinh thần phản kháng.
Mị tưởng tượng ra cảnh A Phủ trốn thốt và “Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy.
Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng khơng thấy sợ”. Có lẽ, cuộc sống của Mị trong địa ngục
trần gian nhà thống lí Pá Tra đã là tận cùng của khổ đau, tủi nhục. Mị sống mà như đã chết nên với Mị
chết có khi lại là một sự giải thốt. Trước đó, Mị đã nhiều lần nghĩ đến cái chết nhưng đó là cái chết để
giải thốt bản thân khỏi hồn cảnh tủi nhục. Còn lần này, cái chết đến trong ý nghĩ của Mị lại mang
một ý nghĩa khác. Nếu A Phủ trốn thoát mà Mị phải chết, Mị chết để người khác được sống thì đó là một
cái chết có ý nghĩa. Đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn Tơ Hồi đã phát hiện ra, cảm xúc của
Mị khơng chỉ bó hẹp trong nỗi thương thân mà đã rộng mở thương cả những người cùng cảnh ngộ.


Ở khoảnh khắc Mị nghĩ đến việc chết thay cho A Phủ, nỗi thương người đã lớn hơn cả nỗi thương
mình. Chi tiết này có ý nghĩa như một phép thử tâm lí của Mị. Sự thử thách tâm lí này chính là sự chuẩn
bị về tinh thần thúc đẩy Mị biến ý nghĩ thành hành động. Từ ý nghĩ chết thay cho A Phủ, Mị đã có hành
động cởi trói cho A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ.
Nhà văn Tơ Hồi đã miêu tả cụ thể, chi tiết hành động Mị cởi trói cho A Phủ: “Mị rút con dao nhỏ
cắt lúa, cắt nút dây mây…Lần lần đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị
chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay..." rồi Mị nghẹn lại”. Đoạn văn miêu tả hành động của Mị chẳng
khác gì một thước phim quay chậm và quay cận cảnh. Hành động của Mị diễn ra nhanh, đột ngột, bất
ngờ với chính cả người trong cuộc là Mị. Nhưng đặt trong mạch tâm trạng của Mị, từ lúc Mị trơng thấy
dịng nước mắt của A Phủ cho đến lúc cởi trói cho A Phủ thì hành động này lại hết sức tự nhiên và hợp lý.
Nó chính là sự cụ thể hóa ý nghĩ chết thay cho A Phủ nảy sinh trong đầu Mị ở khoảnh khắc trước đó.
Hành động này cũng phù hợp với tính cách, với tâm hồn giàu yêu thương của Mị, Mị dám hi sinh vì cha
mẹ, dám ăn lá ngón tự tử nên cũng dám cứu người.
Khơng chỉ cắt dây trói cứu A Phủ mà Mị cịn có hành động mạnh mẽ, quyết liệt tự cứu chính mình.

Mị đã cùng A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra. Khi A Phủ quật sức vùng lên chạy thì “Mị đứng
lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra… băng đi, đuổi kịp A Phủ… Mị nói, thở trong hơi gió thốc
lạnh buốt “A Phủ cho tơi đi… Ở đây thì chết mất”. Một loạt các động từ mạnh “vụt chạy”, “băng đi”
“đuổi kịp ” đã diễn tả sống động hành động vừa nhanh chóng, vừa mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt,
táo bạo của Mị. Cùng với hành động là lời nói rất kiên quyết "A Phủ cho tơi đi…Ở đây thì chết
mất”. Tất cả đã cho thấy hành động của Mị là kết quả của sự thức tỉnh từ bên trong, là sự thôi thúc
của khát vọng tự do cháy bỏng. Hành động táo bạo của Mị diễn ra đột ngột nhưng lại rất hợp lí với diễn
biến tâm trạng và tính cách của Mị. Trước đó, Mị đã chấp nhận “đợi ngày rũ xương ở đây thôi”, Mị cũng
chấp nhận cả cái chết thay cho A Phủ, nghĩa là Mị chưa từng nghĩ đến việc trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.
Song khi nhìn thấy A Phủ băng mình đến với cuộc sống tự do thì Mị đã thức tỉnh về ý nghĩa của cuộc
sống. Mị không chấp nhận cuộc sống vô nghĩa ở nhà thống lí Pá Tra. Lịng ham sống, khát khao tự do
cháy bỏng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt đã thôi thúc Mị, giúp Mị chiến thắng nỗi ám ảnh về thần
quyền và cường quyền để vụt chạy theo A Phủ. Cắt sợi dây trói cho A Phủ là Mị cũng đã cắt phăng
sợi dây trói vơ hình ràng buộc cuộc đời Mị với nhà thống lí Pá Tra. Mị khơng chỉ cứu A Phủ mà cịn
tự cứu chính cuộc đời mình. Sức sống tiềm tàng, âm ỉ trong Mị đã phát triển thành sức mạnh giải phóng
giúp Mị thay đổi cuộc đời, từ thân phận nô lệ thành người tự do. Hành động táo bạo, quyết liệt của Mị thể
hiện sức mạnh quật khởi, là sự phản kháng tất yếu của con người bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn. Miêu
tả sống động hình ảnh Mị vụt chạy theo A Phủ, nhà văn Tơ Hồi đã khẳng định sức sống quật cường và
khát vọng tự do cháy bỏng ở những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tơ Hồi đã cho
ta thấy được sức sống âm thầm mà mãnh liệt của những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đọa đầy trong cuộc sống tăm tối, họ đã vùng lên phản
kháng, cứu người và tự cứu chính mình, đi tìm cuộc sống tự do. Tâm trạng và hành động của Mị đã được
nhà văn Tơ Hồi thể hiện chân thực, tự nhiên và hợp lí, phù hợp với tâm lí và tính cách nhân vật. Đặc
biệt, ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của nhà văn đã làm sống dậy cả quá trình tâm trạng của nhân
vật với nhiều cảm xúc đan xen phức tạp. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, giọng trần thuật
nhiều chỗ hịa vào dịng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của nhân vật, vừa bộc lộ trực tiếp đời sống nội tâm
nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm nơi người đọc. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo,



mang phong vị miền núi cũng đã góp phần làm nên màu sắc riêng cho đoạn trích.
Qua đoạn trích, ta thấy ngời sáng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi. Tư
tưởng nhân đạo là tồn bộ những tư tưởng, quan điểm thể hiện tình cảm quý trọng các giá trị của
con người. Cốt lõi, bản chất của tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương, là chữ “tâm” đối với con người.
Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích với rất nhiều biểu hiện
phong phú. Đó là lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã áp bức, đày đọa, giam hãm con
người trong cuộc sống tăm tối, tủi nhục. Đó cịn là đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh và cuộc
sống cực nhục, của người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc. Đặc biệt, tư tưởng nhân đạo của nhà văn
Tơ Hồi được thể hiện sâu sắc nhất ở sự phát hiện, thấu hiểu, trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và
những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, tư tưởng nhân
đạo của nhà văn còn ngời sáng ở sự đồng tình với tinh thần phản kháng, ở sự khẳng đinh sức sống tiềm
tàng mãnh liệt, sức vươn dậy mạnh mẽ, khả năng tự vùng lên để tự giải phóng khỏi ách áp bức của người
dân lao động vùng núi cao Tây Bắc. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi vẫn tiếp nối truyền
thống nhân đạo trong văn học, tuy nhiên vẫn có những nét mới mẻ. u thương con người nên Tơ
Hồi đã khơng chấp nhận nhân vật của mình rơi vào ngõ cụt. Bởi vậy, nhà văn đã để cho Mị và A Phủ tự
giải phóng mình và chạy trốn đến khu giải phóng Phiềng Sa. Tác phẩm đã giải quyết được khá sớm vấn
đề số phận của người lao động trong xã hội cũ. Khẳng định và ngợi ca sức mạnh vùng lên tự giải phóng
của những con người lao động nghèo khổ là tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tơ Hồi nói riêng
và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Tư tưởng nhân đạo đã góp phần làm nên giá trị và sức sống
vượt thời gian cho tác phẩm.
Đoạn trích miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã kết tinh phong cách
nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tơ Hồi, góp phần làm nên giá trị nhân đạo cao cả cho tác phẩm. Miêu tả
sự thức tỉnh của sức sống bên trong Mị, nhà văn Tơ Hồi đã chỉ ra con đường để những người dân lao
động nghèo khổ tự giải thoát cho cuộc đời mình. Đó là dũng cảm đứng lên chống lại ách áp bức bóc lột,
tham gia cách mạng để có cuộc sống tốt đẹp. Đây là thơng điệp giàu tính nhân văn, thể hiện niềm tin của
nhà văn vào sức vươn dậy của con người. Nếu người nơng dân như Chí Phèo, Lão Hạc, Chị Dậu trong
các tác phẩm văn học trước cách mạng bị dồn vào bước đường cùng không lối thốt thì nhân vật trong
sáng tác của Tơ Hồi khi bị dồn vào đường cùng đã vùng lên tự cứu chính mình. Tơ Hồi đã vượt qua giới
hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để chỉ ra con đường giải phóng cho những
người lao động nghèo khổ trong xã hội cũ.

Qua tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” , không chỉ tố cáo, lên án bọn quan lại phong kiến chúa đất miền núi,
Tơ Hồi còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm
hồn của người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn
niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác trường tồn. Áng
văn ấy, cùng tên tuổi Tơ Hồi – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn
không phai trong nền văn học nước nhà.


Đề 5: Cảm nhận về sức sống của người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc được thể
hiện trong đoạn trích; từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi
được thể hiện qua đoạn trích: “Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng...Và hai người lẳng
lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”
BÀI LÀM
Tơ Hồi đã là cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơi thở cuộc sống đầy ắp trên từng trang
viết của Tơ Hồi đã đưa ơng cùng nhiều tên tuổi khác làm nên "mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt
Nam thế kỉ XX”. Sáng tác của Tơ Hồi thể hiện vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về nhiều lĩnh vực đời
sống, đặc biệt là phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Tác phẩm của ông thiên về diễn tả sự thật đời
thường với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngơn
ngữ phong phú và đậm tính khẩu ngữ. "Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của Tơ Hồi, in đậm
dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Sau hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá
trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Thiên truyện là bài ca về sức sống bất diệt của con người
ngay trong những hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã. Cảm nhận sức sống của con người lao động vùng
núi cao Tây Bắc trong đoạn trích sau ta sẽ thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ
Hồi:“Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng...Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”
Năm 1952, Tơ Hồi đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà văn đã
hiểu biết sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi, đã có những kỉ niệm sâu sắc, những tình cảm thắm
thiết với người và cảnh Tây Bắc. Tập “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết
quả của chuyến đi ấy. “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc
không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên
phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tư tưởng chủ đề ấy được thể hiện tập trung ở đoạn trích này nằm ở

cuối phần thứ nhất của tác phẩm, phần kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong địa
ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra. Đoạn truyện viết về hành động Mị cởi trói cho A Phủ rồi cùng A
Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hành động của Mị và A Phủ thể hiện khát vọng sống, sức
sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật cũng như của những người dân lao động vùng núi cao Tây
Bắc.
Sức sống mãnh liệt của con người lao động vùng núi cao Tây Bắc được thể hiện qua hành động Mị cắt
dây trói cứu A Phủ. Nhà văn Tơ Hồi đã miêu tả cụ thể, chi tiết hành động Mị cởi trói cho A Phủ: “Mị rút
con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…Lần lần đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng
hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay..." rồi Mị nghẹn lại”. Đoạn văn miêu tả hành động
của Mị chẳng khác gì một thước phim quay chậm và quay cận cảnh. Hành động của Mị diễn ra nhanh, đột
ngột, bất ngờ với chính cả người trong cuộc là Mị. Nhưng đặt trong mạch tâm trạng của Mị, từ lúc Mị
trông thấy dòng nước mắt của A Phủ cho đến lúc cởi trói cho A Phủ thì hành động này lại hết sức tự nhiên
và hợp lí. Nó chính là sự cụ thể hóa ý nghĩ chết thay cho A Phủ nảy sinh trong đầu Mị ở khoảnh khắc
trước đó. Hành động này cũng phù hợp với tính cách, với tâm hồn giàu yêu thương của Mị, Mị dám hi
sinh vì cha mẹ, dám ăn lá ngón tự tử nên cũng dám cứu người. Khi cắt dây trói cho A Phủ, Mị biết mình
sẽ phải đối mặt với cái chết. Mị đã lường trước điều đó. Song chính sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đã giúp
Mị có đủ dũng khí cứu A Phủ thốt khỏi địa ngục trần gian nhà thống lí Pá Tra.
Sức sống mãnh liệt của con người lao động vùng núi cao Tây Bắc được thể hiện rõ nhất, ấn tượng nhất ở
hành động trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra của A Phủ và Mị. A Phủ, mặc dù trong tình cảnh “khuỵu xuống,


không bước nổi” nhưng trước ranh giới của sự sống và cái chết, “trước cái chết có thể đến nơi ngay”, sức
sống trỗi dậy mạnh mẽ, mãnh liệt đã giúp A Phủ “quật sức vùng lên, chạy”. Ba động từ mạnh liên tiếp
trong một câu văn ngắn đã giúp nhà văn khắc họa thật đẹp hình ảnh con người băng mình đến với
tự do. Lịng ham sống, khát khao sống, khát khao tự do cháy bỏng ở A Phủ đã biến thành tinh thần
phản kháng mãnh liệt, giúp A Phủ dũng cảm thốt khỏi xiềng xích, thốt khỏi cuộc đời nô lệ để đến với
cuộc sống tự do.
Không chỉ cắt dây trói cứu A Phủ mà Mị cịn có hành động mạnh mẽ, quyết liệt tự cứu chính mình. Mị đã
cùng A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra. Khi A Phủ quật sức vùng lên chạy thì “ Mị đứng lặng
trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra… băng đi, đuổi kịp A Phủ… Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh

buốt “A Phủ cho tơi đi… Ở đây thì chết mất”. Một loạt các động từ mạnh “vụt chạy”, “băng đi” “đuổi kịp
” đã diễn tả sống động hành động vừa nhanh chóng, vừa mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, táo bạo của Mị.
Cùng với hành động là lời nói rất kiên quyết "A Phủ cho tơi đi…Ở đây thì chết mất”. Tất cả đã cho thấy
hành động của Mị là kết quả của sự thức tỉnh từ bên trong, là sự thôi thúc của khát vọng tự do cháy bỏng.
Hành động táo bạo của Mị diễn ra đột ngột nhưng lại rất hợp lí với diễn biến tâm trạng và tính cách của
Mị. Trước đó, Mị đã chấp nhận “đợi ngày rũ xương ở đây thôi”, Mị cũng chấp nhận cả cái chết thay cho
A Phủ, nghĩa là Mị chưa từng nghĩ đến việc trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Song khi nhìn thấy A Phủ băng
mình đến với cuộc sống tự do thì Mị đã thức tỉnh về ý nghĩa của cuộc sống. Mị không chấp nhận cuộc
sống vô nghĩa ở nhà thống lí Pá Tra. Lịng ham sống, khát khao tự do cháy bỏng và sức sống tiềm tàng
mãnh liệt đã thôi thúc Mị, giúp Mị chiến thắng nỗi ám ảnh về thần quyền và cường quyền để vụt chạy
theo A Phủ. Cắt sợi dây trói cho A Phủ là Mị cũng đã cắt phăng sợi dây trói vơ hình ràng buộc cuộc đời
Mị với nhà thống lí Pá Tra. Mị khơng chỉ cứu A Phủ mà cịn tự cứu chính cuộc đời mình. Sức sống tiềm
tàng, âm ỉ trong Mị đã phát triển thành sức mạnh giải phóng giúp Mị thay đổi cuộc đời, từ thân phận nô lệ
thành người tự do. Hành động táo bạo, quyết liệt của Mị thể hiện sức mạnh quật khởi, là sự phản kháng
tất yếu của con người bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn. Miêu tả sống động hình ảnh Mị vụt chạy theo A Phủ,
nhà văn Tơ Hồi đã khẳng định sức sống quật cường và khát vọng tự do cháy bỏng ở những người dân lao
động vùng núi cao Tây Bắc.
Đoạn trích miêu tả hành động của Mị và A Phủ trong đêm mùa đông đã cho ta thấy sức sống âm thầm mà
mãnh liệt của những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc. Không cam chịu bọn thực dân, chúa đất
áp bức, đọa đầy trong cuộc sống tăm tối, họ đã vùng lên phản kháng, cứu người và tự cứu chính mình, đi
tìm cuộc sống tự do. Hành động của Mị và A Phủ đã được nhà văn Tơ Hồi thể hiện chân thực, tự nhiên
và hợp lí, phù hợp với tâm lí và tính cách nhân vật. Đặc biệt, ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của
nhà văn đã làm sống dậy cả quá trình tâm trạng của nhân vật với nhiều cảm xúc đan xen phức tạp. Nghệ
thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên
trong của nhân vật, vừa bộc lộ trực tiếp đời sống nội tâm nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm nơi người
đọc. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, mang phong vị miền núi cũng đã góp phần làm
nên màu sắc riêng cho đoạn trích.
Qua đoạn trích, ta thấy ngời sáng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Tơ Hồi. Tư tưởng nhân
đạo là tồn bộ những tư tưởng, quan điểm thể hiện tình cảm quý trọng các giá trị của con người. Cốt lõi,
bản chất của tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương, là chữ “tâm” đối với con người. Tư tưởng nhân đạo

của nhà văn Tơ Hồi được thể hiện qua đoạn trích với rất nhiều biểu hiện phong phú. Đó là lên án, tố cáo


tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã áp bức, đày đọa, giam hãm con người trong cuộc sống tăm tối, tủi
nhục. Đó cịn là đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh và cuộc sống cực nhục, của người dân lao
động vùng núi cao Tây Bắc. Đặc biệt, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài được thể hiện sâu sắc nhất
ở sự phát hiện, thấu hiểu, trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và những phẩm chất tốt đẹp của người
dân lao động miền núi trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, tư tưởng nhân đạo của nhà văn còn ngời sáng ở sự
đồng tình với tinh thần phản kháng, ở sự khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức vươn dậy mạnh
mẽ, khả năng tự vùng lên để tự giải phóng khỏi ách áp bức của người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi vẫn tiếp nối truyền thống nhân đạo trong văn học, tuy nhiên vẫn
có những nét mới mẻ. Yêu thương con người nên Tơ Hồi đã khơng chấp nhận nhân vật của mình rơi vào
ngõ cụt. Bởi vậy, nhà văn đã để cho Mị và A Phủ tự giải phóng mình và chạy trốn đến khu giải phóng
Phiềng Sa. Tác phẩm đã giải quyết được khá sớm vấn đề số phận của người lao động trong xã hội cũ.
Khẳng định và ngợi ca sức mạnh vùng lên tự giải phóng của những con người lao động nghèo khổ là tư
tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hồi nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung.
Tư tưởng nhân đạo đã góp phần làm nên giá trị và sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
Đoạn trích miêu tả hành động của Mị và A Phủ trong đêm mùa đông đã kết tinh phong cách nghệ thuật
độc đáo của nhà văn Tơ Hồi, góp phần làm nên giá trị nhân đạo cao cả cho tác phẩm. Miêu tả sự thức
tỉnh của sức sống bên trong Mị và A Phủ, nhà văn Tơ Hồi đã chỉ ra con đường để những người dân lao
động nghèo khổ tự giải thốt cho cuộc đời mình. Đó là dũng cảm đứng lên chống lại ách áp bức bóc lột,
tham gia cách mạng để có cuộc sống tốt đẹp. Đây là thơng điệp giàu tính nhân văn, thể hiện niềm tin của
nhà văn vào sức vươn dậy của con người. Nếu người nơng dân như Chí Phèo, Lão Hạc, Chị Dậu trong
các tác phẩm văn học trước cách mạng bị dồn vào bước đường cùng khơng lối thốt thì nhân vật
trong sáng tác của Tơ Hồi khi bị dồn vào đường cùng đã vùng lên tự cứu chính mình. Tơ Hồi đã
vượt qua giới hạn của dịng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để chỉ ra con đường giải
phóng cho những người lao động nghèo khổ trong xã hội cũ.
Qua tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” , không chỉ tố cáo, lên án bọn quan lại phong kiến chúa đất miền núi,
Tơ Hồi cịn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm
hồn của người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn

niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác trường tồn. Áng
văn ấy, cùng tên tuổi Tơ Hồi – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn
không phai trong nền văn học nước nhà.

NHẬN XÉT VỀ SỰ MỚI MẺ TRONG CÁCH NHÌN NGƯỜI NƠNG DÂN CỦA NHÀ
VĂN TƠ HỒI
Đoạn trích cho thấy sự mới mẻ trong cách nhìn người nơng dân của nhà văn Tơ Hồi. Trong cái nhìn tràn
đầy cảm hứng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi, những người nơng dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn
chúa đất miền núi là những nạn nhân thật đáng thương. Họ bị bóc lột đến kiệt quệ sức lao động, bị chà
đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần, bị nơ lệ hóa đến mất hết cả cảm giác và ý thức. Nhưng nhà văn đã
nhìn người nơng dân khơng chỉ như những nạn nhân đáng thương mà nhà văn cịn nhìn họ như


những con người dám thay đổi số phận, dám vùng lên tự giải phóng khỏi ách áp bức, kìm kẹp của
bọn thực dân và chúa đất thống trị. Tơ Hồi đã khám phá ra trong thẳm sâu tâm hồn của họ vẫn tiềm
tàng sức sống mãnh liệt với khát vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc, khát vọng tự do cháy bỏng.
Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đoạ đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ khơng bao giờ chịu đầu
hàng số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần để tâm hồn được hồi sinh. Đó là cái nhìn lạc quan,
tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân, thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tơ
Hồi. Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy sự gắn bó, am hiểu sâu sắc về người lao
động vùng núi cao Tây Bắc của nhà văn Tơ Hồi và tài năng của tác giả trong việc diễn tả quá trình phát
triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn. Cách nhìn mới
mẻ về người nơng dân đã góp phần làm nên giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo lớn lao cao cả cho
tác phẩm.



×