Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Giáo trình Quản lý dịch hại tổng hợp (Nghề: Bảo vệ thực vật - Cao đẳng): Phần 2 - Trường Cao đẳng cộng đồng Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 78 trang )

CHƯƠNG 3: NỘI DUNG CHÍNH CỦA IPM
MH 26-03
Giới thiệu:
Chương học nghiên cứu về các biện pháp phòng trừ dịch hại, vai trò và ý nghĩa
của mỗi biện pháp, sự kết hợp một cách khoa học, hiệu quả các biện pháp đơn lẻ
thành chiến thuật hay chiến lược để quản lý các đối tượng dịch hại trên từng loại cây
trồng khác nhau.
Mục tiêu:
- Kiến thức:
+ Trình bày được khái niệm dịch hại
+ Giải thích được ý nghĩa của 1 phải 6 giảm, 3 giảm 3 tăng, 4 đúng, chiến
lược và chiến thuật trong quản lý dịch hại, mức gây hại kinh tế và ngưỡng kinh tế.
- Kỹ năng:
+ Nhận biết chính xác các loại dịch hại, thiên địch thu thập số liệu dịch hại,
thiên địch ngoài đồng. Lập được kế hoạch phòng trừ dịch hại cây trồng định kỳ, đột
xuất.
+ Xác định và quản lý được các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát
triển của cây trồng, dịch hại.
+ Ứng dụng được các biện pháp quản lý sâu bệnh hại trên từng loại cây trồng
theo IPM, nâng cao ý thức bảo vệ thiên địch và môi trường.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Có ý thức trách nhiệm trong học tập
+ Có phương pháp làm việc khoa học, sáng tạo và luôn cập nhật thông tin.
10. Các biện pháp IPM chung
10.1. Biện pháp kiểm dịch và khử trùng
10.1.1 Kiểm dịch
Là biện pháp ngăn ngừa sự xâm nhập của các loài sâu, bệnh mới hoặc cỏ dại từ
nước ngoài vào trong nước hoặc lây lan giữa các vùng trong nước. Đây là công việc
hết sức quan trọng của bất cứ quốc gia nào. Nó được thể hiện bằng các văn bản luật
và các điều lệ quy định chặt chẽ.
29




Sự xâm nhập của các loài sâu, bệnh, cỏ dại từ nước ngoài vào thường là đi cùng
với sự đi lại, vận chuyển hàng hố, nơng phẩm hoặc trong các bao bì được đưa vào
theo các cửa khẩu đường bộ, đường khơng hoặc đường thuỷ.
Khi các lồi sâu hại xâm nhập đến những vùng lãnh thổ mới, nếu gặp điều kiện
khí hậu thuận lợi chúng thường phát triển rất mạnh mẽ vì khơng gặp phải sự khống
chế của các lồi thiên địch nơi bản địa. Các loài cỏ dại mới cũng thường phát triển
rất nhanh vì khơng có các cơn trùng gây hại hoặc vi sinh vật gây bệnh khống chế.
Sự xâm nhập của ốc bưu vàng (Pomacea canaliculata) vào nước ta trong những
năm 1985-1988 đã trở thành Chương học đáng ghi nhớ mãi mãi cho các thế hệ con
cháu của chúng ta sau này.
Theo quy định của các điều lệ kiểm dịch, tất cả các nguyên liệu thực vật bao
gồm nông phẩm, hạt giống, cây giống, khi nhập vào trong nước không được mang
theo sâu, bệnh. Những nông phẩm có nguồn gốc từ các vùng có các đối tượng kiểm
dịch luôn luôn được kiểm tra rất chặt chẽ và thường không được nhập nội vào trong
nước. Các loại cây có khả năng trở thành cỏ dại cũng hồn tồn bị cấm.
Trong danh sách các sinh vật được liệt vào đối tượng kiểm dịch thực vật của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Những sinh vật này chia làm 3 nhóm:
Nhóm 1 gồm 43 lồi, được quy định cấm nhập vào trong nước những hạt giống
cây trồng và các nơng sản mang mầm móng các sinh vật này, hoặc được sản xuất
trong những vùng có sinh vật đó.
Nhóm 2 gồm 11 loài, được quy định trước khi nhập vào những hạt giống và vật
liệu cây trồng, hoặc các nông sản bị nhiễm các sinh các nông sản bị nhiễm các sinh
vật này đều phải xử lý khử trùng và áp dụng mọi biện pháp kiểm dịch thực vật nhằm
ngăn chặn sự lây lan của chúng.
Hệ thống kiểm dịch bao gồm các phịng thí nghiệm phân tích và giám định sâu,
bệnh, cỏ dại ở Trung Ương và các địa phương : các trạm kiểm dịch đặt tại các cửa
khẩu: các đội khử trùng nơng phẩm và hạt giống. Ngồi ra cịn có các vườn ươm sau
kiểm dịch, làm nhiệm vụ theo dõi, phát hiện các đối tượng gây hại tiềm ẩn trong cây

giống, hạt giống, như tuyến trùng, siêu vi trùng v.v… Hai vườn ươm sau kiểm dịch
ở nước ta hiện nay đặt tại Từ Liêm (Hà Nội) và Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh).
10.1.2 Khử trùng
Khử trùng các vật liệu làm giống (như hạt giống, hom giống, củ giống) bị nhiễm
sâu, bệnh trước khi đem trồng cũng là một biện pháp để ngăn ngừa sâu, bệnh lan
30


rộng và phá hoại trên đồng rộng, giảm được chi phí phịng trừ trong sản xuất. Việc
khử trùng thường được tiến hành với các thuốc diệt nấm, thuốc xông hơi diệt sâu, xử
lý nước nóng, hoặc dùng tia phóng xạ v.v … Qua xử lý khử trùng có thể diệt được
các bào tử nắm hoặc tuyến trùng trên bề mặt, hoặc một số trường hợp khác, cả ở bên
trong hạt giống, ở bên ngoài hạt giống hay nguyên liệu giống thực vật. Khử trùng và
xử lý hạt giống cịn có tác dụng hạn chế sự phá hoại của các nắm bệnh, côn trùng và
tuyến trùng sống trong đất trong thời kỳ đầu khi cây mới mọc.
Làm sạch hạt giống bị lẫn hạt cỏ dại cũng là biện pháp để ngăn ngừa tác hại của
cỏ dại trên đồng rộng.
Tổ chức khử trùng ở nước ta hiện nay được đặt tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh.
Với màng lưới hoạt rộng khắp cả nước.
10.2. Biện pháp canh tác
Phòng trừ sâu bệnh bằng kỹ thuật canh tác là một bộ phận quan trọng khơng thể
thiếu được trong phịng trừ tổng hợp sâu bệnh hại đối với bất cứ cây trồng nào. Các
kỹ thuật phòng trừ bằng canh tác nhằm cải thiện điều kiện sinh thái theo hướng có
lợi, đồng thời hạn chế được sự phát triển của sâu bệnh.
Biện pháp canh tác trong phịng trừ sâu bệnh có nhiều ưu điểm, như hạn chế chi
phí, dễ áp dụng trong sản xuất, khơng gây ảnh hưởng đến môi trường và phát huy
được hiệu quả ngay từ đầu, khi sâu bệnh chưa phát triển và gây hại cho cây trồng.
Do đó, biện pháp này rất chú ý trong phòng trừ tổng hợp. Nhiều kỹ thuật canh tác cổ
truyền có tác dụng cao trong việc hạn chế sâu bệnh, nay đang được đánh giá lại để
đưa vào chương trình phịng trừ tổng hợp.

Biện pháp canh tác phịng trừ sâu bệnh nhìn chung mang tính phịng ngừa nhiều
hơn là diệt trừ.
Các kỹ thuật canh tác phòng trừ sâu bệnh bao gồm: làm đất vệ sinh đồng ruộng,
chế độ ln canh thời vụ gieo cấy thích hợp, bón phân hợp lý, chăm sóc tưới nước,
đốn cành … cho đến khi thu hoạch.
10.2.1 Làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Đối với cây hàng năm, làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo
trồng rất có ý nghĩa để diệt trừ các mầm móng sâu bệnh sống trong đất và trên các
tàn dư của cây trồng và cỏ dại. Cày lật đất sớm sau mỗi vụ lúa có thể diệt được nhiều
sâu non và nhộng sâu đục thân lúa sống trong rạ và gốc rạ. Làm đất và vệ sinh đồng
31


ruộng còn là biện pháp quan trọng nhằm tiêu diệt được nguồn lưu tồn nhện gié có
thể gây hại cho vụ lúa sau.
Xử lý tàn dư cây ngô sau vụ thu hoạch cũng diệt được nhiều sâu non và nhộng
sâu đục thân ngô sống trong thân cây, hạn chế sâu phá hại ở các trà ngô trồng muộn.
Diệt trừ các cây kí chủ của sâu loang hại bơng trước vụ gieo trồng có tác dụng
hạn chế sự phá hoại của sâu trên ruộng bơng …
Trên đây là một vài ví dụ về tác dụng của việc làm đất sớm và vệ sinh đồng
ruộng, có thể đưa vào áp dụng trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh đối với cây trồng
ở nước ta.
Các chuyên gia của Viện Lúa Quốc tế cũng đánh giá cày lật gốc rạ ngay sau vụ
thu hoạch và vệ sinh đồng ruộng có tác dụng hạn chế sâu hại và các bệnh virus trên
lúa, và coi đây là một kỹ thuật trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại lúa.
Nguyên lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng
sau vụ thu hoạch là cắt đứt được vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ
khác và hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ, lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng.
10.2.2 Luân canh và xen canh
* Luân canh

Gieo trồng luân canh các loại cây trồng khác nhau trên một cánh đồng hoặc một
vùng sản xuất là biện pháp rất có hiệu quả để hạn chế sâu, bệnh và cỏ dại. Luân canh
giữa lúa và cây trồng khác là phương thức canh tác có lợi để phịng trừ sâu bệnh.
Chế độ luân canh giữa cây lúa nước và cây trồng cạn là một tập quán lâu đời
của nông dân các nước châu Á, có tác dụng làm thay đổi điều kiện sinh thái của đất,
hạn chế được nhiều loại sâu bệnh sống trong đất.
Trồng lạc trên đất vụ trước cấy lúa nước là biện pháp rất hiệu quả để hạn chế
các bệnh chết xanh, chết ẻo, thối tia củ, do vi khuẩn gây ra. Đối với bệnh này dùng
thuốc hố học hay các biện pháp khác khơng thu được hiệu quả.
Ở các vụ trồng rau, luôn canh giữa rau họ thập tự với lúa, hoặc với các cây họ
khác, là biện pháp rất có tác dụng để hạn chế sâu tơ phá hoại liên tục, ngày càng
nặng, trên các ruộng bắp cải trồng liên tiếp.
Luân canh giữa khoai tây và lúa nước cũng là biện pháp để hạn chế chết xanh
và các bệnh thối củ do các vi khuẩn gây bệnh sống trong đất.
32


Kỹ thuật luân canh đã được áp dụng từ lâu đời như một phương pháp cổ truyền
bằng cách trồng thay đổi nhiều loại cây trồng trên cùng một trong nhiều năm dài có
kết quả. Nguyên lý của biện pháp này là cắt đứt mối quan hệ chuyên tính giữa các
sinh vật gây hại và cây chủ của chúng, hạn chế sự phát triển của các loài gây hại.
* Xen canh
Trồng xen nhiều loại cây trồng trên cùng một mảnh ruộng cũng là kỹ thuật phổ
biến ở nhiều nước nhiệt đới … Trồng các cây ăn quả, rau và cây lương thực trên cùng
một mảnh vườn, là biện pháp rất tốt để tăng tổng thu nhập do sử dụng được tối ưu
các điều kiện về đất, nước, chất dinh dưỡng, không gian và các yếu tố khác. Thiệt
hại do sâu bệnh gây ra trên vườn trồng xen như trên thường là thấp, và những rủi ro
về thất bát mùa màng được trải đều cho các loại cây trồng cùng chung sống. Ngày
nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về lợi ích và sự bất lợi của việc trồng xen,
nhằm đạt sản lượng cao và hạn chế thiệt hại do sâu bệnh.

10.2.3 Thời vụ gieo trồng
Thời vụ gieo trồng thích hợp là thời vụ đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng, phát
triển tốt, đạt được năng suất cao, tránh được các rủi ro về thời tiết - khí hậu, như mưa
bão, gập lụt, khơ hạn hoặc gió rét, sương muối v. v …
Xác định thời vụ thích hợp cịn phải dựa trên đặc điểm phát sinh và phá hoại
của các loài sâu bệnh quan trọng ở địa phương, đảm bảo cho cây trồng tránh khỏi
được dịch bệnh làm tổn thất sản lượng.
Thời vụ gieo trồng ở mỗi địa phương thường được hình thành dựa trên những
kinh nghiệm và tập quán lâu đời và thường là tương đối ổn định. Chỉ khi có những
thay đổi chủng loại giống hoặc chuyển đổi mùa vụ thì mới cần xác định lại.
Việc thay đổi thời vụ gieo trồng ở địa phương, sớm hơn hoặc muộn hơn bình
thường, cần phải được thử nghiệm qua nhiều vụ mới có thể xác định được.
Trên thực tế đồng ruộng, tuy cùng gieo cấy trong cùng thời vụ thích hợp, nhưng
các ruộng lúa gieo cấy sớm hơn lúa đại trà ở xung quanh thường bị bọ xít và sâu đục
thân phá hoại nặng. Nguyên nhân là do sâu hại tập trung lại trên những ruộng này
vào giai đoạn sinh trưởng thích hợp của cây trồng để phá hại.
Gieo cấy đồng loạt để rút ngắn thời gian một vụ lúa đã được các chuyên gia của
Viện Lúa Quốc tế coi là một kỹ thuật phịng trừ có hiệu quả, vì nó hạn chế sâu hại
phát sinh và tích lũy trong nhiều thế hệ. Tuy một quan điểm này gần đây không được
một số nhà sinh thái cơn trùng chấp nhận, vì nó hạn chế hoạt động của nhiều lồi
33


thiên địch trong thời kỳ nghỉ vụ, do đó khơng khống chế được sâu hại trong thời kỳ
đầu vụ sau.
10.2.4 Trồng giống ngắn ngày và làm ruộng bẫy sâu
Kỹ thuật trồng giống ngắn ngày để tránh sâu bệnh đã được nông dân nhiều nơi
áp dụng rất phổ biến. Ở đồng bằng Bắc Bộ, các giống khoai tây ngắn ngày như Khoai
Đa, khoai Thường Tín, trồng sớm có thể hồn tồn tránh được bệnh mốc sương. Các
giống lúa ngắn ngày như CR203, NN75-10 với thời gian sinh trưởng 100-110 ngày,

trồng trong vụ mùa sớm có thể tránh được sâu đục thân và sâu cắn gié lúa. Các giống
đậu tương ngắn ngày như AK02, Cúc trồng sớm trong vụ xuân hè hạn chế được bệnh
gỉ sắt phá hại.
Trồng các giống đậu tương ngắn ngày chín sớm đã được nơng dân ở miền nam
Brazil áp dụng rộng rãi để tránh bọ xít xanh phá hoại cuối vụ, giảm được nhiều lần
phun thuốc (A.R. Panizzi, 1985, được trích dẫn bởi Nguyễn Cơng Thuật, 1996).
Kỹ thuật dùng giống đậu tương chín sớm làm ruộng bẫy sâu ở các hàng ven bờ
ruộng trồng giống dài ngày cũng được áp dụng ở Brazil. Dùng thuốc trừ bọ xít xanh
đúng lúc trên các hàng cây bẫy sâu sẽ tránh được thiệt hại cho các diện tích đậu tương
cịn lại.
Kỹ thuật làm ruộng bẫy sâu cũng đã được thực hiện ở Nghệ An để trừ bọ xít dài
hại lúa trong những năm 1987-1988.
Trong việc phòng trừ rầy nâu, sử dụng các giống lúa cực ngắn (với thời gian
sinh trưởng 80-90 ngày) cũng được coi là 1 biện pháp có hiệu quả, vì rầy nâu khơng
kịp tích luỹ đủ số lượng gây hại nặng trên những giống cực ngắn này.
10.2.5 Mật độ gieo trồng
Mỗi loại cây trồng hoặc mỗi giống cây trồng có một mật độ, khoảng cách hợp
lý để đạt năng suất cao. Mật độ này cũng phụ thuộc vào đất tốt hay đất xấu. Trồng
dày quá hay thưa quá cũng đều ảnh hưởng đến năng suất, đồng thời cũng ảnh hưởng
đến sự phát sinh và phát triển của sâu bệnh, cỏ dại.
Trồng thưa quá dễ bị cỏ dại lấn át, phải mất nhiều công làm cỏ. Trồng thưa cũng
dễ bị mất khoảng khi sâu bệnh phá hại trong giai đoạn cây con chưa định hình.
Ngược lại, trồng dày quá đôi khi tạo nên môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát
triển. Các ruộng lúa gieo cấy dày thường khép hàng sớm gây ẩm độ cao, tạo điều
kiện cho rầy nâu và bệnh khô vằn phát sinh và phá hại mạnh lúc cuối vụ.
34


Đối với một số cây trồng khác như Ngô, Đậu đỗ, Bông v.v … kỹ thuật gieo dày
và tỉa thưa lúc định cây, thường được áp dụng để tránh cây con bị mất khoảng do sâu

bệnh phá hại khi mới mọc.
Tóm lại, trồng dày hay trồng thưa, với mật độ bao nhiêu là hợp lý, phải được
cân nhắc, lựa chọn tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về đất đai, phân bón, cây trồng,
mùa vụ và tình hình sâu bệnh, cỏ dại ở địa phương mà xác định.
10.2.6 Sử dụng phân bón
Phân bón ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và đồng thời thơng qua cây trồng
có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát sinh và gây hại của nhiều loại sâu bệnh.
Phân bón cung cấp dinh dưỡng để cây trồng phát triển tốt và đạt được năng suất
cao. Tuy vậy, bón q nhiều phân, hoặc bón phân khơng hợp lý sẽ làm cho cây phát
triển khơng bình thường và dễ bị sâu bệnh phá hại. Ruộng lúa bón quá nhiều phân
có thể bị lốp và dễ bị các bệnh đạo ôn, khô vằn, bạc lá phá hại mạnh. Khoai tây, cà
chua bón quá nhiều phân đạm cũng dễ bị các bệnh mốc sương, xoắn lá phá hại v v…
Bón phân khơng cân đối hoặc bón phân khơng đúng giai đoạn sinh trưởng của cây
trồng cũng gây ra những hiện tượng tương tự.
Sử dụng phân bón hợp lý bao gồm các nội dung như bón đủ mức phân cần thiết,
bón cân đối các thành phần đạm, lân, kali và bón đúng giai đoạn sinh trưởng của cây
trồng.
Mức phân cần thiết là mức phân cần cho cây trồng để đạt được năng suất cao
và có hiệu quả kinh tế. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào trình độ thâm canh và khả năng đầu
tư của nơng dân, mức phân bón cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Mỗi loại cây trồng có yêu cầu khác nhau về tỉ lệ N, P và K. Bón nhiều phân đạm
mà khơng bón lân và kali cũng dễ làm cây bị bệnh. Phân chuồng (trong đó có nhiều
yếu tố vi lượng) và các loại phân vi lượng có tác dụng làm tăng tính chống bệnh của
cây trồng. Ví dụ, bón các chất vi lượng như Cu, Mo, B, Mn cho khoai tây, cà chua
có thể làm tăng tính chống bệnh mốc sương và các bệnh do vius.
Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây trồng có những nhu cầu khác nhau về phân
bón. Ruộng lúa ở giai đoạn đẻ nhánh cần nhiều phân đạm, nhưng bón đạm sau lúc
lúa trổ dể làm bệnh khô vằn và bạc lá phát triển mạnh.
Một số loài sâu bệnh thường phát sinh trên những ruộng thiếu phân bón, như
bệnh tiêm lửa trên lúa, sâu ba ba (Taiwania cirumdata) trên rau muống, hoặc bọ nhảy

35


ở rau họ thập tự v.v… Trong những trường hợp này, chỉ cần bón phân đầy đủ là cây
có thể vượt qua được.
Trên các cây ăn quả như cam quýt, sử dụng các loại phân bón khác nhau và bón
đạm với liều lượng khác nhau, đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của bọ phấn
(Dialeurodes citri) và rệp sáp đen (Coccidae). Nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh này
có thể tìm ra những kỹ thuật bón phân thích hợp để sử dụng trong phòng trừ tổng
hợp các sâu hại nói trên.
Tóm lại, phân bón là một nhu cầu cần thiết cho cây trồng, không những để làm
tăng năng suất, đạt được hiệu quả kinh tế cao, mà sử dụng phân bón hợp lý cịn hạn
chế được sâu bệnh hại, giảm bớt việc dùng thuốc trên đồng ruộng. Vì vậy, sử dụng
phân bón hợp lý là một nội dung khơng thể thiếu được trong các chương trình phịng
trừ tổng hợp cho từng loại cây trồng.
10.2.7 Đốn cành/ tỉa cành
Đốn cành là một kỹ thuật canh tác đã được áp dụng từ lâu đời. Một số cây trồng
như Dâu, Táo, Chè, Xoài … sau chu kỳ thu hái hàng năm thường được đốn cành để
tăng sức sống cho cây trong năm sau.
Đối với Chè sau 2 hoặc 3 năm đốn bình thường (hay gọi là đốn đau). Thời gian
đốn cành dựa vào thời kỳ sinh trưởng của cây, thường vào lúc cây ngừng sinh trưởng
trong mùa đơng.
Đốn cành ngồi việc làm tăng sức sống cho cây cịn có tác dụng loại bỏ cành bị
sâu, bị bệnh và thu hẹp nguồn thức ăn cũng như nơi cư trú của các loài gây hại, do
đó hạn chế được sâu bệnh phát triển trong năm sau, ví dụ: đốn cành Xồi sau mỗi
năm canh tác có tác dụng làm giảm bệnh hại, rệp sáp, bọ trĩ, ….

36



Hình 3.1: Tỉa cành xồi sau mỗi năm canh tác

Sau khi tiến hành đốn cành cần thu dọn tàn dư cây trồng trên nương ruộng thì
mới có thể đạt hiệu quả phòng trừ cao.
Điều cần lưu ý là khi đốn cành cần phải để lại những cây dại và các cây kí chủ
khác trong mương vườn, Làm nơi trú ngụ cho các loài thiên địch tiếp tục sinh sống
và phát triển, đủ sức khống chế sâu hại ngay từ đầu năm sau.
Ngồi các kỹ thuật canh tác đã trình bày trên đây, các khâu điều khiển nước
tưới, chăm sóc, bấm ngọn v.v… cũng có tác dụng hạn chế và phịng trừ sâu bệnh,
cần được đúc kết để đưa vào các chương trình phịng trừ tổng hợp.
10.3. Biện pháp chọn giống
10.3.1 Nghiên cứu và sử dụng giống chống chịu trong sản xuất
Sử dụng giống cây trồng chống chịu sâu bệnh là một kỹ thuật truyền đời, từ xa
xưa cho đến ngày nay. Các giống cổ truyền hoặc giống bản địa, trải qua chọn lọc tự
nhiên hàng ngàn đời nay, đều là những di sản quí báo của người xưa để lại. Các giống
này hầu hết có những đặc tính q như chịu rét, chịu hạn, chịu chua phèn v.v… và
chống chịu ổn định với nhiều loại sâu bệnh ở địa phương.
Tuy vậy, các giống cổ truyền do năng suất thấp không cịn đáp ứng những địi
hỏi của nền nơng nghiệp hiện đại nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của cả xã
hội loài người với tốc độ tăng dân số cao hiện nay chưa thể kiềm hãm được.

37


Qua cuộc cánh mạng xanh diễn ra hơn 50 năm nay, các giống cổ truyền năng
suất thấp đã bị loại bỏ dần, chỉ còn giữ lại trong các "Ngân hàng gen" và thay thế
bằng các giống mới lai tạo có năng suất cao.
Bằng các kỹ thuật lai ghép, con người đã tạo ra những giống cây trồng có năng
suất cao và phẩm chất tốt, nhưng đồng thời cũng đã vô tình làm mất đi những đặc
tính chống chịu q báo với sâu bệnh và ngoại cảnh. Thiếu sót này ngày nay đang

được khắc phục bằng cách đưa thêm các "nguồn gen" chống chịu (kháng) vào các
dòng lai cải tiến đã tạo được ra.
Viện lúa Quốc tế, trong thập kỷ 60 đã tạo ra giống lúa IR8 với đỉnh cao năng
suất trên 10 tấn/ha, gấp 2-3 lần năng suất các giống lúa vào thời kỳ ấy. Những năm
sau đó, IR8 đã được phát triển ở nhiều nước châu Á trên những diện tích rộng. Tuy
vậy, IR8 đã khơng thể đứng vững trước những dịch bệnh quan trọng trong vùng như
rầy nâu, bệnh đạo ôn, bệnh bạc lá vi khuẩn và bệnh vàng lụi. Các giống lúa có sức
chống chịu sâu bệnh tốt hơn đã lần lượt ra đời sau đó như IR26, IR32, IR36, IR42,
IR54, IR64 v.v… trong đó Đã đưa vào các "gen" chống bệnh đạo ôn, rầy nâu và bạc
lá.
Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế vùng bán khô hạn (ICRISAT) cũng có
những chương trình lai tạo những giống lạc kháng với rầy xanh, bọ trĩ và sâu ăn lá,
các giống đậu triều chống sâu xanh đục quả (Helicoverpa armigera).
Nghiên cứu tạo ra các giống đậu tương kháng sâu bệnh cũng đã được tiến hành
ở nhiều nơi trên thế giới. Trung tâm Nghiên cứu Đậu tương Brazil
(CNPSOEMBRAPA) đã đưa ra sản xuất giống đậu tương IAC 100 kháng bọ xít xanh
(Nezara viridula) trong năm 1988. Tại đây cũng đang có chương trình lai tạo giống
đậu tương nhằm kết hợp các "gen" chống bọ xít xanh và chống sâu ăn lá vào trong
giống đậu tương có những đặc tính nơng học tốt.
Ở Mỹ, theo thống kê có tới hơn 70% các giống cây trồng trong sản xuất hiện
nay là những giống kháng với sâu hoặc bệnh. Chỉ tính riêng việc đưa vào sản xuất
các giống lúa mì chống ruồi đục thân (Phytophaga destructos) đã thu được lợi ích
hàng năm từ 10-20 triệu đơ la. Trong vịng 10 năm, các giống lúa mì và ngơ chống
sâu hại đã làm lợi khoảng 3 tỷ đô la. Nhờ sử dụng giống kháng sâu bệnh, ở Mỹ hàng
năm đã tiết kiệm được 28.700 tấn thuốc, bằng 37% tổng số thuốc dùng trong sản
xuất.
Ở Pháp, từ cuối thế kỷ 19, nhờ sử dụng giống Nho Bắc Mỹ chống rệp sáp
(Phylloxera vitifoliae) đã cơ bản giải quyết được loại rệp này.
38



Bằng các phương pháp công nghệ sinh học mới, ngày nay người ta đã tạo ra
nhiều giống cây trồng kháng sâu bệnh, như giống ngô chống sâu đục (Ostrinia
nubilalis), giống dưa chuột chống bệnh víu hoa lá (yellow mosaic virus) v.v ….
10.3.2 Vai trò và ý nghĩa của giống kháng trong phịng trừ tổng hợp
Chỉ nêu lên một vài ví dụ như trên cũng đã cho thấy rõ tầm quan trọng của việc
nghiên cứu và sử dụng các giống cây trồng kháng sâu bệnh trong sản xuất như thế
nào. Chính vì những lợi ích to lớn nêu trên, sử dụng giống kháng đã được coi như
một biện pháp rất quan trọng và khơng thể thiếu được trong các chương trình phịng
trừ tổng hợp.
Hiện có 22 gene kháng rầy nâu được phát hiện trên thế giới. Một số gene có
tính kháng cao từ các lồi lúa hoang. Tuy chưa có nghiên cứu về phản ứng của rầy
nâu ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG với các tất cả các gene này nhưng thực tiễn
lai tạo và du nhập giống cho thấy có nhiều nguồn kháng được quần thể rầy hiện nay,
một số nguồn kháng tốt như Rathuheenati (Bph3), Sinna sivapu, CST3, IR54742
(Bph10)…
Ngoài lợi ích về kinh tế, sử dụng giống kháng sâu bệnh đã được đặc biệt quan
tâm vì nó phù hợp với những nguyên lý và mục tiêu của phòng trừ tổng hợp như :
(1) để áp dụng trong các điều kiện, hồn cảnh và trình độ sản xuất khác nhau; (2) ít
tốn kém về chi phí nên nơng dân có thể sử dụng rộng rãi; (3) giảm được một phần
rất lớn lượng thuốc hố học phịng trừ sâu bệnh trong sản xuất; và do đó (4) tránh
được ơ nhiễm mơi trường, bảo vệ được các loài thiên địch trong tự nhiên; (5) giữ
được cân bằng trong các Hệ sinh thái nông nghiệp, gớp phần xây dựng các hệ thống
nông nghiệp bền vững.
K. Lampe, Tổng Giám đốc Viện Lúa Quốc tế, trong Chương "Nghiên cứu lúa
cho thế kỷ 21" (1994), khi đề cập đến việc phịng trừ sâu bệnh đã nói: "giống chống
chịu (kháng) là hòn đá tảng để phòng trừ sâu bệnh có hiệu quả . Kết hợp giống kháng
với phịng trừ sinh học và kỹ thuật canh tác là chiến lược phịng trừ sâu bệnh lý tưởng
với những người nơng dân ít vốn".
10.3.3 Đặc điểm, biểu hiện và bản chất tính kháng sâu bệnh của cây trồng

Tính kháng của cây trồng với sâu bệnh thể hiện rất khác nhau, nó có thể là do
ảnh hưởng của các Điều kiện sinh thái, hoặc do bản chất di truyền. Vì vậy, có thể
chia ra làm 2 loại:
- Kháng sinh thái (ecological resistaance)
39


- Kháng di truyền (genetic resistaance)
* Kháng sinh thái
Kiểu chống chịu này thực chất là khơng có thực. Vì vậy còn gọi là "giả chống
chịu".
Nguyên nhân của những biểu hiện giả chống chịu này là do ảnh hưởng của các
điều kiện sinh thái nhất thời mà có. Ví dụ, một giống cây trồng do chín sớm mà
khơng bị bệnh, trong khi các giống khác chín muộn đều bị bệnh phá hại. Trường hợp
này gọi là tránh khỏi (evasion). Thực chất của hiện tượng này là Do thời gian phát
triển của sâu bệnh không trùng hợp với giai đoạn nhiễm cảm của cây. Các giống
chín sớm này nếu trồng muộn lại, hiện tượng giả chống chịu sẽ bị mất. Giống lúa
NN75-2 ở đồng bằng Bắc bộ được gieo vào trà xuân sớm thường ít bị bệnh bạc lá,
nhưng khi gieo muộn lại vào trà xuân chính vụ, giống này cũng bị bệnh giống như
NN8 và Trân châu lùn.
Một ví dụ khác, khi cây trồng được bón phân vi lượng hoặc xử lý hoá chất,
thành phần dinh dưỡng trong cây thay đổi, do đó tạo được tính chống chịu với sâu
hay bệnh. Trường hợp này gọi là "chống chịu tạo được" (induced toterance). Khi cây
không được xử lý như trên, khả năng này sẽ mất.
* Kháng di truyền
Kiểu chống chịu này là do bản chất di truyền trong cây quyết định. Chống chịu
di truyền cũng có những biểu hiện khác nhau:
- Kháng ngang (horizontal resistance)
- Kháng dọc (vertical resistance)
A / Tính kháng ngang:

Tính kháng này do các "gen thứ" (minor genes) quyết định. Nó cịn được gọi là
"kháng đa gen" (polygenic resistance). Kiểu kháng này có tác dụng với nhiều nịi
(biotype) hoặc chủng (race) của sâu hoặc nấm bệnh, do đó nó tương đối ổn định trong
một khoảng thời gian dài trong sản xuất. Đây là một đặc tính kháng rất quý mà các
nhà khoa học đang chú ý khai thác đế sử dụng trong phịng trừ tổng hợp. Tuy vậy,
tính kháng ngang không đạt được mức kháng cao (high resistance ), mà thường chỉ
ở mức "kháng vừa" (moderate resistance ) hoặc biểu hiện ở tính chịu đựng
(tolerance).
B / Tính kháng dọc:
40


Tính kháng này có là do các "gen chủ" (major genes) quyết định. Có thể là do
một hoặc vài gen quyết định. Tác dụng của mỗi gen dễ bị mất do những biến đổi sinh
lý ở nòi gây hại. Kiểu kháng này thường có mức kháng cao, nhưng chỉ có hiệu lực
với một vài nòi, hoặc chủng của sâu, hoặc nấm bệnh. Vì vậy, qua q trình tiến hố
và phát triển của mối quan hệ ký sinh - kí chủ, sâu hại hoặc nấm bệnh có thể vượt
qua được, và đặc tính kháng này sẽ bị mất. Do đó, nó cịn được gọi là kháng khơng
bền vững (unstable resistance).
Ngồi "tính kháng ngang" và "tính kháng dọc", tại hội nghị "Tạo giống chống
chịu bền vững cho các cây lâu năm" do FAO tổ chức, họp tại Rome năm 1984, các
nhà khoa học đã thống nhất đưa ra 2 thuật ngữ mới như sau:
- "Tính chống chịu gen khơng chun tính" (ký hiệu là NR), do một "gen chủ"
hoặc một "yếu tố nguyên sinh chất" tạo ra sức đề kháng với tất cả các nịi đã biết của
ký sinh.
- "Tính chống chịu tương tác" (IR), là đặc trưng của một quần thể không thuần
nhất được tạo nên để hạn chế sức gây hại của một sinh vật nào đó. Nó tương tự như
tính kháng của một "giống nhiều dịng" (multilines) hoặc của các "hỗn hợp giống"
(varietal mixtures).
Tại Hội nghị này cũng nêu lên nhận xét là : hai dạng phổ biến nhất thường gặp

trong lai tạo giống là tính kháng ngang (HR) và tính kháng dọc (VR) mang tính chất
"định lượng", phụ thuộc vào môi trường và không phân ly theo Mendel (FAO-Rome,
1986, được trích dẫn bởi Nguyễn Cơng Thuật, 1996).
10.3.4 Sự phát triển của mối quan hệ ký sinh - ký chủ
* Mối quan hệ ký sinh - ký chủ giữa loài gây hại và cây trồng
Quan hệ của sâu bệnh với cây trồng là mối quan hệ qua lại hai chiều giữa ký
sinh và ký chủ (giữa hai loài sinh vật), trong đó sinh vật gây hại là nhân tố chủ động.
Là "kẻ xâm lược", còn cây trồng là nhân tố bị động, là kẻ "bị xâm lược".
Côn trùng, hoặc Vi sinh vật gây bệnh ln "tìm cách" tấn cơng lên cây trồng,
đồng thời cây trồng luôn phản ứng trở lại để tự vệ theo bản năng sinh vật. Trong mối
quan hệ đấu tranh này, cả hai bên đều chịu tác động ảnh hưởng của nhau, và cả các
yếu tố mơi trường.
Theo quy luật tiến hố và đấu tranh sinh tồn, cả hai bên (cây trồng và sinh vật
gây hại) đều tự biến đổi để cạnh tranh có hiệu quả hơn với đối thủ của mình - tức là
với yếu tố tác động trực tiếp của môi trường. Nhân tố thúc đẩy sự biến đổi này là do
41


áp lực chọn lọc (selection pressure) tác động lên mỗi bên, gây ra từ phía bên kia của
mình.
Như vậy, xét về lâu dài, quan hệ này là mối tương tác động (dynamic
interaction), nó khơng dừng lại ở một thời điểm, một trạng thái nào.
Cũng cần nói thêm rằng, cuộc đấu tranh này chỉ diễn ra gay gắt trong mối quan
hệ chuyên tính giữa ký sinh và ký chủ. Chuyên tính càng hẹp thì sự cạnh tranh càng
gay gắt, và trong trường hợp này thường thấy ở các giống cây trồng (tức ký chủ ) có
tính kháng dọc. Sự cạnh tranh ít gây gắt hơn trong trường hợp cây chủ mang tính
kháng ngang. Trong trường hợp này cây chủ khơng gây sức ép mạnh mẽ lên đối
phương của mình, do đó khơng làm cho ký sinh phải biến đổi nhanh. Chính vì vậy
mà tính kháng ngang giữ được lâu dài hơn và được gọi là "tính kháng bền vững"
(stable resistance , hoặc durable resistance).

* Cuộc đấu tranh không kết thúc, không có kẻ chiến thắng và sự hình thành
các lồi gây hại mới
Kết quả của cuộc đấu tranh này, trong một quá trình lâu dài, cả hai bên đều biến
đổi. Về phái sinh vật gây hại, đã hình thành các "kiểu di truyền" (genotype) mới,
thường được gọi là "biotyp", "nòi" (race), "pathotype" hoặc "chủng" (strain) mới. Ở
phía cây trồng cũng xuất hiện các "kiểu di truyền" mới để thích ứng lại với sinh vật
gây hại.
Quá trình này diễn ra theo kiểu "xốy trơn ốc" trong mối quan hệ "gen-đối-gen"
giữa cây trồng và sinh vật gây hại. Đó là hiện tượng phổ biến, một quy luật tự nhiên
trong thế giới sinh vật, được gọi là quy luật "đồng tiến hoá" (Coevolution).
Trên đây là quá trình đấu tranh sinh tồn diễn ra trong thế giới sinh vật, khơng
có sự can thiệp của bàn tay con người. Trong thực tế sản xuất, mỗi khi một giống cây
trồng bị sâu bệnh phá hại nặng thì thường bị loại bỏ, thay thế bằng giống khác có sức
chống chịu tốt hơn.
Sự xuất hiện những biotyp mới, hay nịi mới của cơn trùng hoặc vi sinh vật gây
hại đã làm cho các giống kháng có trong sản xuất trước đó trở nên nhiễm. Lúc này
sản xuất đứng trước trước những thử thách lớn, đòi hỏi phải đưa ra những giống
kháng mới với các "kiểu gen" mới để thay thế.
Một ví dụ rất quen thuộc với chúng ta là trường hợp đối với rầy nâu hại lúa. Rầy
nâu đã được coi như loài sâu hại lúa quan trọng từ lâu ở các nước trồng lúa châu Á.
Đặc biệt từ những năm 60 và 70, cùng với việc đẩy mạnh thâm canh và thay đổi các
42


kỹ thuật tròng lúa phù hợp với các giống lúa mới, rầy nâu đã trở nên nguy hại hàng
đầu và thường xuyên gây ra những tổn thất nghiêm trọng ở nhiều nước châu Á. Nhiều
giống lúa lai tạo tại Viện Lúa Quốc tế mang tính kháng rầy đã được đưa ra sản xuất
ở các nước này vào những năm giữa thập kỷ 70, như IR26, IR28, IR30 có cùng kiểu
gen kháng rầy nâu biotyp một. Sau 2-3 năm trồng trong sản xuất, các giống này đã
trở nên bị nhiễm rầy ở Indonexia, Philippin và ờ Đồng bằng sông Cửu Long (Việt

Nam) vào những năm 1976-1977. Nhiều giống lúa với các kiểu gen mới, kháng rầy
nâu biotyp hai, như IR32, IR36, IR38, IR42 v.v … đã được Viện Lúa Quốc tế đưa ra
sản xuất. Sau một thời gian rầy nâu lại xuất hiện các biotyp mới làm cho các giống
này trở nên nhiễm. Tình hình trên đã thấy ở Indonexia (1980), Philippin (1984) và ở
Đồng bằng sông Cửu Long (1988).
Để đối phó với rầy nâu biotyp mới ở Đồng bằng sơng Cửu Long, nhiều giống
lúa kháng rầy với kiểu gen mới hiện nay đang được tuyển chọn và đưa ra sản xuất
như IR72, IR29723, IR50401, IR54742, IR54751. Phần lớn các dòng gen này mang
gen Bph3.
Một ví dụ khác là về bệnh đạo ôn, do nấm Pyricularia oryzae gây ra trên lúa.
Trên đồng ruộng tự nhiên, nấm này có nhiều "nịi gây bệnh" (pathotyp) khác nhau,
cùng phát sinh một lúc trên một cánh đồng các giống lúa kháng bệnh thường chỉ
kháng được một nịi, hoặc một số nịi, những khơng có hiệu lực với các nịi khác.
Gen kháng bệnh đạo ơn trong giống Tẻ tép của Việt Nam đã được sử dụng trong
chương trình cải tiến giống lúa của Viện Lúa Quốc tế. Từ đây đã tạo ra các giống lai
chống bệnh đạo ôn như IR32, IR38, IR42, IR54, IR1820, IR17494 v. v … một số
giống trên đã được đưa ra trong kế hoạch phịng trừ bệnh đạo ơn ở nước ta, như IR38,
IR42 và IR7494 ở các tỉnh ven biển miền trung; IR1820 ở các tỉnh khu 4 cũ. Các
giống IR17494 và IR1820 đến nay cũng đã mất tính kháng bệnh ở những nơi này.
Giống lúa NN75-hai do Phan Hồng Diêu tạo ra, kế thừa gen di truyền kháng
bệnh đạo ôn từ giống lúa Chiêm Việt Nam. Sau nhiều năm gieo trồng ở đồng bằng
Bắc bộ, tính kháng của bệnh này đã bị giảm nhiều so với trước, nhiều giống lúa mới
kháng bệnh như C70, C71, DT10 hiện nay đang được mở rộng trong sản xuất, thay
thế cho NN75-hai.

43


10.3.5 Một số mặt hạn chế của giống kháng và phương pháp khắc phục
Sử dụng giống kháng để phòng trừ sâu bệnh đã có hiệu quả và thu được nhiều

lợi ích kinh tế trong thực tiễn sản xuất, giảm bớt được thuốc hố học làm ơ nhiễm
mơi trường. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có nhiều hạn chế như:
- Một số giống kháng được với một loại sâu hoặc bệnh này, nhưng lại bị nhiễm
các sâu bệnh khác. Vì vậy ngày nay người ta đang cố gắng tạo ra những giống cây
trồng kháng được nhiều loại sâu bệnh (Khush, 1993; Fischer, 1993; Heinrichs, 1994).
- Trong nhiều trường hợp, khó kết hợp đặc tính kháng sâu bệnh với một số đặc
tính nông học quý hiếm khác.
- Giống kháng đưa ra để áp dụng thì đơn giản những nghiên cứu và lai tạo được
những giống thích hợp với yêu cầu của sản xuất thì địi hỏi thời gian dài và mất rất
nhiều cơng sức.
- Sự xuất hiện các nịi gây hại mới (biotyp, pathotyp, race, strain …) do "sức ép
chọn lọc" làm cho giống kháng dễ bị mất hiệu lực.
Sự không ổn định, dễ bị mất hiệu lực của giống kháng khi đưa ra sản xuất là
hạn chế lớn nhất của biện pháp sử dụng giống trong phịng trừ sâu bệnh. Vì vậy, các
nhà khoa học đã đưa ra những chiến lược khác nhau đẻ nghiên cứu và áp dụng trong
sản xuất.
Trong phòng chống rầy nâu, tại Hội nghị chuyên đề Quốc tế hợp ở IRRI, tháng
4/1997, G.S.Khush - một chuyên gia nổi tiếng về tạo giống chống chịu sâu bệnh, đã
trình bày một số chiến lược sau đây:
1/ Sử dụng lần lượt, luân phiên các giống kháng mang các "gen chủ" (major
genes)
Lai các giống lúa năng suất cao với các giống lúa đơn gen (monogenic), và lần
lượt đưa ra sản xuất các kiểu gen kháng mới khi các kiểu gen cũ đã mất hiệu lực.
Chiến lược này đã được áp dụng trong phòng trừ rầy nâu ở Phillipin, Indonexia và
Việt Nam trong thời gian qua.
2/ Kết hợp các gen chủ: chiến lược này nhằm kết hợp hai hay nhiều kiểu gen
chủ kháng rầy nâu trong cùng một gen chủ cải tiến. Kết quả nghiên cứu ở Viện Lúa
Quốc tế đã cho thấy có thể kết hợp các gen Bph1 với Bph3; Bph2 với Bph3; Bph1
với Bph4; Bph2 với Bph4. Một số cặp lai the hướng này đã được tiến hành ở Viện
Lúa Quốc tế. Những giống lúa có hai gen kháng có thể sử dụng được lâu dài hơn

trong sản xuất, vì nó làm chậm q trình phát triển các biotyp mới của rầy nâu.
44


3/ Sử dụng tính kháng ngang (horizontal): Tính kháng ngang với cơ chế kháng
đa gen (polygenis) có thể ổn định lâu dài hơn trong sản xuất. Tuy nhiên, để tạo được
những giống lúa có kiểu hình cải tiến mang tính kháng ngang địi hỏi phải mất nhiều
thời gian và cơng sức và nhiều khi khơng thành cơng.
4. Giống nhiều dịng (multiline variety): Chiến lược này đã được đề xướng bởi
Borlaug (1958), nhằm phối hợp một số gen chủ trên nền di truyền đồng nhất. Các
dịng lai tạo được, có đặc tính nơng học khác nhau nhưng lại mang kiểu gen kháng
khác nhau, khi trộn lẫn sẽ tạo được một "giống nhiều dịng".
Giống nhiều dịng là một quần thể khơng đồng nhất về mặt di truyền kháng
bệnh, do đó có khả năng ngăn cản sự phát triển của các biotyp, pathotyp hoặc các
race mới của ký sinh.
Ngoài những chiến lược nêu trên, dựa trên quan điểm sinh thái, một số tác giả
đã đề nghị áp dụng một cơ cấu giống đa dạng về mặt di truyền. Sự phong phú nguồn
di truyền sẽ tạo cho các Hệ sinh thái nơng nghiệp tính ổn định cao hơn.
Sử dụng giống kháng cùng với biện pháp hỗ trợ khác, như kỹ thuật canh tác,
dùng thuốc hóa học, cũng là một phương pháp được đề nghị để làm châm hoặc ngăn
cản sự phát triển các biotyp mới của sâu hại trong sản xuất.
Tóm lại, giống kháng là một vũ khí trong phịng trừ tổng hợp, trước hết phải
hiểu rõ những tính năng tác dụng của thứ vũ khí đó, cũng như các mặt hạn chế của
nó, đồng thời phải biết kết hợp nó với các loại vũ khí khác có trong tay, như biện
pháp canh tác, biện pháp sinh học, biện pháp hoá học … một cách hài hồ thì mới
mong phát huy hết tác dụng của nó trong bảo vệ cây trồng.
10.4. Biện pháp đấu tranh sinh học
10.4.1 Sâu hại là vật chủ của nhiều sinh vật khác
Sâu hại là những côn trùng gây hại cho cây trồng, nhưng bản thân chúng lại là
con mồi hoặc vật chủ của các loài sinh vật khác trong tự nhiên, thường được gọi là

"kẻ thù tự nhiên" hay "thiên địch".
Trong một hệ sinh thái nông nghiệp, chưa bị nhiều tác động ảnh hưởng, mật độ
quần thể sâu hại, do sự khống chế của thiên địch, thường duy trì ở giữa các mức giới
hạn nhất định phía trên và phía dưới. Trong các hệ sinh thái nơng nghiệp, đã bị nhiều
ảnh hưởng huỷ hoại, sự khống chế của thiên địch, trong một thời gian nhất định dài
hay ngắn, có thể không đủ sức ngăn cản sự "bùng phát" của một lồi sâu hại nào đó,
khiến nó trở thành dịch. Nhiều ví dụ về sự huỷ hoại sinh thái đã được nêu lên do
45


thuốc trừ sâu được dùng trên các vườn cam quýt ở khu vực Địa Trung Hải. Sự độc
hại gây ra cho các loài ký sinh và bắt mồi đã phá vỡ cân bằng sinh học giữa thiên
địch và sâu hại, làm cho nhiều loài rệp sáp và bọ phấn phát triển mạnh.
Dịch rầy nâu bùng phát trong những năm 1977-1979 và 1990-1992 ở Đồng bằng
sông Cửu Long, mặc dù là có nhiều nguyên nhân đa dạng, cũng có thể coi là những
ví dụ về sự mất cân bằng giữa thiên địch và sâu hại nói trên.
Dịch hại cũng có thể xảy ra trong trường hợp một loài sâu, bệnh hoặc cỏ dại
xâm nhập vào nước hoặc một vùng ở đó khơng có các thiên địch của chúng giữ vai
trị điều hoà số lượng trên đồng ruộng. Trường hợp ốc bưu vàng đang phát sinh thành
dịch ở nước ta hiện nay cũng là một ví dụ.
10.4.2 Các nhóm thiên địch đặc thù trong các hệ sinh thái nông nghiệp
Trong mỗi hệ sinh thái nơng nghiệp có những nhóm thiên địch nhất định giữ
vai trị quan trọng trong điều hồ số lượng sâu hại. Yếu tố quan trọng nhất quyết định
đặc điểm của mỗi hệ sinh thái là cây trồng. Cùng với mỗi loại cây trồng này có cả
một tập đồn sâu hại và vi sinh vật sống trên đó, và đi kèm theo với nó là một tập
đồn thiên địch thích nghi riêng với những côn trùng và vi sinh vật gây hại đó.
Dưới đây ta sẽ nghiên cứu các nhóm thiên địch đặc thù trong một số hệ sinh
thái quen thuộc.
* Thiên địch trên ruộng lúa
Trên đồng ruộng lúa ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, cũng như ở Việt

Nam, thành phần của các lồi thiên địch vơ cùng phong phú và đa dạng, trong đó các
ký sinh chun tính, các cơn trùng và nhện bắt mồi, các vi sinh vật gây bệnh bao gồm
nấm, vi khuẩn, virus nguyên sinh động vật và tuyến trùng.
Theo các chuyên gia của Viện Lúa Quốc tế, chỉ riêng các côn trùng ký sinh trên
các loài sâu đục thân lúa, đã xác định được có tới 47 lồi.
A) Các cơn trùng ký sinh trên sâu hại lúa:
Nhóm này gồm các ong trong bộ cánh màng (Hymenoptera) và một vài họ ruồi
thuộc bộ hai cánh (Diptera). Cơn trùng ký sinh thường có quan hệ chuyên tính đối
với vật chủ, phạm vi chuyên tính có thể rộng hay hẹp tuỳ theo từng lồi
1) Ong mắt đỏ - Trichogramma spp. có hai lồi phổ biến là T. japonicum,
T.chilonis ký sinh trên trứng của nhiều loài sâu hại bộ cánh vảy và trứng rầy nâu.

46


2) Ong mắt đỏ màu nâu - Trichogrammatoidae sp. Ký sinh trên trứng sâu đo
xanh, sâu cuốn lá lớn, sâu cuốn lá nhỏ và sâu gai.
3) Ong ký sinh trứng rầy - Anagrus optabilis và Anagrus flaveolus. Rất phổ biến
trên ruộng lúa ở khắp các vùng trong nước, ký sinh trên trứng các lồi bọ rầy, có vai
trị đáng kể trong hạn chế số lượng rầy nâu và rầy lưng trắng.
4) Ong ký sinh trứng rầy - Gonatocerus sp. Ký sinh trên trứng rầy nâu, rầy xanh
đuôi đen và rầy lưng trắng. Rất phổ biến trên ruộng lúa nhưng vai trị khơng lớn.
5) Ong ký sinh trứng rầy - Oligosita spp. Ký sinh trên trứng các loài bọ rầy hại
lúa. Rất phổ biến ở các vùng trồng lúa nhưng vai trị khơng lớn.
6) Ong cự khoang ngực - Amauromorpha sp. Ký sinh trên sâu non của các loài
đục thân lúa
7) Ong cự nâu vàng - Ternelucha Philippininsis. Ký sinh trên trứng các lồi sâu
bộ cánh vảy, có vai trị đáng kể trong hạn chế số lượng sâu cuốn lá nhỏ và sâu đục
thân 2 chấm.
8) Ong kén trắng - Apanteles spp. Gồm rất nhiều loài khác nhau, ký sinh tương

đối chun tính, phổ biến nhất là các lồi sau đây:
- A.cpris, ký sinh trên sâu non cuốn lá nhỏ.
- A. schoenobii, ký sinh trên sâu đục thân hai chấm.
- A. ruficrus, ký sinh trên sâu cắn gié lúa.
- A. aff.ruficrus, ký sinh trên sâu đo xanh.
Nhìn chung nhóm ong này có vai trị quan trọng trong hạn chế số lượng các loài
sâu non bộ cánh vảy trên lúa.
9) Ong đen - Cardiochiles sp. Ký sinh trên sâu cuốn lá nhỏ có vai trị đáng kể
trong hạn chế số lượng sâu hại này.
10) Ong nâu vàng - Macrocentrus philippenisis. Ký sinh trên sâu cuốn lá nhỏ.
Rất phổ biến ở Đồng bằng sơng Cửu Long, có vai trị quan trọng trong hạn chế số
lượng sâu cuốn lá nhỏ ở vùng này. Ở Đồng bằng sơng Hồng ít gặp hơn.
11) Ong ký sinh ngài - Goniozus hanoieinsis. Ký sinh ngài của sâu non cuốn lá
nhỏ, có vai trị đáng kể trong hạn chế số lượng sâu hại này.

47


12) Ong ký sinh đa phôi - Copidosomopsis coni. Ký sinh trên sâu non cuốn lá
nhỏ. Trong một sâu non bị ký sinh có thể nở ra từ 51-323 ong này. Có vai trị rất quan
trọng trong hạn chế số lượng của loại sâu hại này.
13) Ong xanh bụng vàng - Elasmus claripennis. Ký sinh trên sâu non cuốn lá
nhỏ. Có vai trị khơng lớn trong hạn chế số lượng sâu hại này.
14) Ong cự vàng ký sinh nhộng - Xanthopimpla spp. Có 3 lồi phổ biến là :
X.enderleiai, X.punctata, và X.flavolineata. Ký sinh trên nhộng trên nhiều loài sâu
thuộc bộ cánh vảy. Có vai trị quan trọng trong hạn chế số lượng sâu cuốn lá nhỏ
15) Ong cự bụng nâu hồng - Itoplecis naranyae. Ký sinh trên nhộng của nhiều
loài sâu thuộc bộ cánh vảy.
16) Ong cự bụng khoang trắng - Goryphus basilaris. Ký sinh trên nhộng của
nhiều loài sâu thuộc bộ cánh vảy.

17) Ong cự nâu đen - Phaeogenes sp. Ký sinh chủ yếu trên nhộng của sâu cuốn
lá nhỏ. Có vai trị đáng kể trong việc hạn chế số lượng sâu cuốn lá nhỏ.
18) Ong đùi to - Brachymeria spp. Có 3 lồi phổ biến là B. larus, B.excarinala
và B.secundaria. Ký sinh chủ yếu trên nhộng sâu cuốn lá nhỏ, có vai trị khơng lớn
trong hạn chế số lượng sâu hại này.
19) Ong ký sinh - Plastygaster oryzae. Ký sinh ở sâu năn. Có vai trị quan trọng
trong hạn chế số lượng của sâu.
20) Ong kiến ngoại ký sinh rầy - Haplogonatopus và Pseudogonatopus. Có các
lồi phổ biến sau đây: H.apiealis, P.hospes, P.flavifemur, P.sarawaki. Là ký sinh
ngoài của rầy nâu. Thường gặp nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Có vai trị khơng
lớn trong hạn chế số lượng rầy nâu.
21) Ruồi ký sinh - Halidaya luteicornis. Ký sinh trên sâu cuốn lá. Có vai trị
quan trọng trong hạn chế số lượng sâu hại này.

48


Og ký sinh trứng rầy

Bào tử khối của Entomophthora muscae

Ong cự nâu vàng ký sinh sâu cuốn lá nhỏ

Ong đen ký sinh sâu cuốn lá nhỏ

Ong ký sinh hình đèn lồng

49



Ong vàng ký sinh sâu đục thân

Hình 3.2: Một số côn trùng ký sinh trên sâu hại lúa

B) Các động vật bắt mồi trên ruộng lúa:
Nhóm này bao gồm các côn trùng hoặc nhện, được ghi ở bên dưới. Khác với
các lồi ký sinh, động vật bắt mồi nói chung khơng có tính ăn chun. Có thể ăn cả
sâu hại lẫn cơn trùng có ích.
Một số lồi rất phổ biến thường gặp như dưới đây:
1) Dế nhảy - Anaxipha longipennis. Ăn trứng các loài sâu đục thân lúa, sâu cuốn
lá, sâu ăn gié và ấu trùng các loài bọ rầy.
2) Muồm Muỗm - Conocephalus longipennis. Ăn trứng bọ xít, trứng sâu bộ
cánh vảy và ấu trùng các loài rầy.
3) Chuồn chuồn kim - Agriocnems sp. Săn bắt các côn trùng di chuyển trong
ruộng lúa.
4) Bọ xít gọng vỏ - Limngonus fossarum. Ăn ấu trùng các loài rầy và sâu non
bộ cánh vảy.
5) Bọ xít nước : Microveia sp. Ăn thịt ấu trùng các lồi bọ rầy.
6) Bọ xít mù xanh - Cyrtohinus lividpennis. Rất phổ biến trên ruộng lúa ở các
vùng trong nước. Ăn trứng và ấu trùng tuổi nhỏ của các lồi rầy nâu, rầy xanh, rầy
lưng trắng. Có vai trò quan trọng trong việc hạn chế số lượng rầy nâu trên ruộng lúa.
7) Bọ xít hoa - Eocanthecona furcellata. Ăn thịt sâu non của nhiều loài sâu hại
bộ cánh vảy.
8) Bọ xít gai - Andrallus spinidens. Ăn thịt sâu non của nhiều loài sâu hại bộ
cánh vảy.

50


9) Bọ cổ dài cánh khoang - Ophonea spp. Có 4 lồi khác nhau. Phổ biến nhất là

O. indica, có mặt ở khắp các vùng trong cả nước. Ăn thịt sâu non bộ cánh vảy và
nhiều loài sâu hại khác.
10 ) Bọ ba khoang cánh ngắn - Paederus fuscipes và Paederus tamulus. Ăn thịt
các ấu trùng của bọ rầy, bọ trĩ, trứng và sâu non của các sâu hại bộ cánh vảy. Rất phổ
biến trên ruộng lúa ở khắp các vùng trong nước.
11 ) Bọ rùa đỏ - Micraspis discolor và Micraspis cincta. Ăn rầy non và các cơn
trùng có kích thước nhỏ bé khác. Ngồi ra chúng cũng có thể ăn phấn hóa lúa.
12) Bọ rùa 8 chấm - Harmonia octomaculata. Ăn thịt rầy non và môt số sâu non
bộ cánh vảy .
13) Bọ rùa 6 chấm - Chilomenes sexmaculata. Ăn thịt rầy non và một số sâu
non bộ cánh vảy.
14) Ong xanh ăn trứng - Tetrastichus schoennobii. Rất phổ biến trên ruộng lúa
ở khắp các vùng trong nước chuyên ăn trứng sâu đục thân 2 chấm, có vai trị rất quan
trọng trong việc hạn chế lồi sâu này.
15) Nhện sói - Lycosa pseudoannulata. Rất phổ biến ở các vùng trồng lúa. Ăn
thịt rầy và nhiều lồi cơn trùng khác hại lúa.
16) Nhện hàm to - Tetragnatha spp. Có nhiều lồi khác nhau, trong đó phổ biến
là T.mandibulata, T.maxillosa. Vật mồi là các loài bọ rầy và bướm sâu hại lúa.
17) Nhện nhảy lưng vằn - Bianor hotingchiehi. Vật mồi là các lồi bọ rầy và
các cơn trùng nhỏ bé khác.
18) Nhện vân hình mác - Araneus inustus. Vật mồi là các lồi bọ rầy, và các
cơn trùng nhỏ bé khác.
19) Nhện gập lá lúa - Clubiona japonicolla. Vật mồi là các loài bọ rầy và nhiều
loài sâu hại lúa khác
Các lồi nhện ăn thịt thường xun có mặt trên ruộng lúa với số lượng tăng dần
từ đầu đến giữa vụ và giảm đi ở cuối vụ

51



Nhện chân dài

Bọ xít mù xanh

Bọ rùa

Kiến ba khoang

Bọ cánh cứng ba khoang

52


Bọ xít nước ăn thịt

Bọ xít nước

Muồng muỗng

Bọ xít gai ăn thịt

Hình 3.3: Một số thiên địch bắt mồi đại diện

C) Nhóm vi sinh vật gây bệnh cho sâu:
Phổ biến trên ruộng có những loại sau đây:
1) Nấm xanh - Metarhizium flavoviride và Metarhizium anisopliae: gây bệnh
cho nhiều loài sâu hại trên ruộng lúa như các loài bọ rầy, bọ xít, bọ cánh cứng. Tỷ lệ
sâu bệnh khơng đáng kẻ. Một số chủng có độc tính cao đã nghiên cứu sử dụng trong
phòng trừ sinh học.
2) Nấm trắng - Beauveria bassiana. Gây bệnh cho nhiều loại sâu hại lúa thuộc

các bộ cánh đều, cánh nửa, cánh vảy … (rầy nâu, rầy xanh, sâu cuốn lá và bọ xít).
Khơng có vai trò đáng kể trong hạn chế sâu hại tự nhiên trên đồng ruộng. Được sử
dụng chủ yếu để nghiên cứu sử dụng trong phòng trừ sinh học.
3) Nấm tua - Hirsutella citriformis - gây bệnh cho rầy nâu, rầy xanh và sâu đục
thân.
4) Nấm bột - Nonuiraea rileyi - thường gặp trên các loài sâu non bọ cánh phấn.
53


×