Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh hòa bình -Luận văn thạc sĩ luật học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.63 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nổi bật nhất trong các bộ phận an sinh xã hội của Việt Nam hiện đại
đó là bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là trụ cột cơ bản nhất, có ý nghĩa
quyết định nhất đối với hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có
cả nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong hệ thống an sinh xã hội thì
hệ thống BHXH giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất. Phát triển BHXH sẽ là tiền
đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật BHXH năm 2014 được ban hành là
một bước phát triển quan trọng của pháp luật về BHXH nước ta. Trong đó,
BHXH bao gồm hai loại hình là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện với
những quy định mới tiến bộ hơn, góp phần quan trọng vào việc chăm lo đời
sống người lao động (NLĐ), thực hiện an sinh xã hội. Trong thực tiễn, với
tính chất là chế độ bảo hiểm bắt buộc áp dụng với những đối tượng luật định
ngày càng được mở rộng, BHXH bắt buộc có ảnh hưởng lớn đến đời sống của
NLĐ, nhận được sự quan tâm của hầu hết các bộ phận dân cư, NLĐ.
Hịa Bình là một tỉnh ở phía Tây Bắc nước ta, nền kinh tế đang chuyển
dịch theo cơ cấu mới tăng tỷ trọng của ngành cơng nghiệp, dịch vụ, đời sống
nhân dân có nhiều khởi sắc. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW
về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020" tại Hịa Bình đã tạo được sự chuyển biến rõ
nét từ nhận thức đến hành động của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, đồng
thời có sức lan tỏa sâu rộng trong nhân dân về BHXH nói chung, trong đó có
BHXH bắt buộc. Các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc đi vào thực tiễn,
đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp vào thực hiện an sinh xã hội địa
phương song cũng đã bộc lộ những vướng mắc, tồn tại cần được nghiên cứu,
sửa đổi, hoàn thiện. Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật
về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hịa Bình" cho
luận văn thạc sĩ của mình.




2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm xã hội không phải là một vấn đề mới nhưng luôn nhận được
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Theo tìm hiểm của tác giả, ở phạm vi
và mức độ khác nhau, có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết về pháp luật
bảo BHXH bắt buộc:
- Vụ BHXH, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Cơ sở lý
luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn 2010
đến 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
- PGS.TS Nguyễn Hiền Phương (chủ biên) (2016), Bình luận khoa
học những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm xã hội.
- Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo
hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị La Giang (2015), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn ở Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội.
- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn ở Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
- Hồ Thị Kim Ngân (2014), "Một số vướng mắc khi thực hiện các chế
độ Bảo hiểm xã hội ngắn hạn", Tạp chí Bảo hiểm xã hội.
- Đặng Như Lợi (2014), "Cải cách bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo
hiểm hưu trí đối với người cao tuổi", Tạp chí Lý luận chính trị.
- PGS.TS Nguyễn Hữu Chí, ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), "Sửa đổi
Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập
thể", Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), "Tính ưu việt của Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo

hiểm y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội",
Tạp chí Cộng sản.


3

- Vương Đình Huệ (2018), "Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp
phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát
triển bền vững đất nước", Tạp chí Cộng sản.
- Nguyễn Văn Thành (2018), "Một số vấn đề đặt ra đối với cơng tác
bảo hiểm xã hội hiện nay", Tạp chí Cộng sản.
Những bài viết, cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các vấn
đề lý luận về BHXH, BHXH bắt buộc, chỉ ra được một số vấn đề thực tiễn và
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc. Một số đề tài
nghiên cứu pháp luật về BHXH bắt buộc gắn với thực tiễn áp dụng tại địa
phương tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào về pháp luật BHXH bắt
buộc gắn với thực tiễn thực hiện tại Hịa Bình. Do đó, đây vẫn là một đề tài
mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đich và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích một số vấn đề lý luận về
BHXH bắt buộc, các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn thực hiện tại
tỉnh Hịa Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần
hồn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại
tỉnh Hịa Bình.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác
định trên những khía cạnh sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc.
- Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc tại tỉnh


Hịa Bình.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về BHXH bắt

buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Hịa Bình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật
hiện hành về BHXH bắt buộc mà cụ thể là Luật BHXH năm 2014, các văn
bản hướng dẫn và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình.


4

Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về BHXH, BHXH
bắt buộc; các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về BHXH bắt buộc, bao
gồm Luật BHXH năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành; nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật BHXH bắt buộc ở tỉnh Hịa Bình, các văn bản hướng dẫn
thi hành pháp luật về BHXH bắt buộc của địa phương; đề xuất các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện tại địa bàn tỉnh Hịa Bình gắn với đặc điểm riêng của địa phương.
Luận văn không nghiên cứu về trình tự, thủ tục thực hiện BHXH bắt
buộc. Trong giới hạn cho phép, luận văn đề cập đến thực tiễn pháp luật
BHXH bắt buộc nói chung, làm cơ sở cho những nhận xét, bình luận và kiến
nghị cho việc thực hiện tại tỉnh Hịa Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: Phương pháp nghiên cứu lý luận,
so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử cụ thể, khảo cứu thực tiễn
nhằm minh chứng cho những lập luận, những nhận xét đánh giá, kết luận

khoa học của luận văn.
Các phương pháp được sử dụng xuyên suốt luận văn để làm rõ những
quy định pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc, đối chiếu với thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Hịa Bình.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận văn làm rõ và có hệ thống những vấn đề lý luận pháp luật về
BHXH bắt buộc; các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về BHXH bắt
buộc và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hịa Bình. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong q trình xây dựng chính
sách, hồn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc. Những đề xuất, kiến nghị nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BHXH bắt buộc tại tỉnh Hịa Bình có thể là


5

tài liệu phục vụ các cán bộ, nhân viên BHXH trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Hịa Bình.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo
hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Hịa Bình.


6

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội và pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Định nghĩa bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong quá trình tham gia lao động, sản xuất không phải lúc nào con
người cũng được thuận lợi, sn sẻ mà đơi khi ngồi chịu sự tác động của các
quy luật khách quan, các điều kiện tự nhiên và xã hội mà còn phải tuân theo
các quy luật của cuộc sống sinh - lão - bệnh - tử và gặp những nguy cơ rủi ro,
bất trắc không mong muốn. Khi con người rơi vào những hồn cảnh khó
khăn, họ luôn cần được đảm bảo thu nhập để ổn định đời sống và củng cố tinh
thần. NLĐ là lực lượng sản xuất của cải vật chất của xã hội, là trụ cột kinh tế
trong mỗi gia đình do đó khi rủi ro xảy ra với NLĐ làm giảm hoặc mất thu
nhập không chỉ ảnh hưởng trực tiếp cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của NLĐ
mà còn kéo theo cả gia đình họ. Những rủi ro xảy ra với NLĐ cũng có thể ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ quan, doanh nghiệp…
ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội đất nước.
Xuất phát từ những nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã
hội mà BHXH ra đời như một nhu cầu tất yếu. Mục tiêu của BHXH là nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ trong trường hợp bị giảm hoặc
mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho NLĐ những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em1.
Khái niệm BHXH được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
1

. />


7

- Theo Từ điển tiếng Việt, BHXH là sự "bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân, viên chức khi khơng làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ,
già yếu, bị tai nạn lao động…"2.
- Dưới góc độ kinh tế, BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm
bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi bị giảm hoặc mất khả
năng lao động.
- Dưới góc độ pháp lý, chế độ BHXH là tổng hợp những quy định của
Nhà nước về các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho NLĐ
và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc mất
khả năng lao động.
- Dưới góc độ chính sách xã hội, BHXH là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho NLĐ khi họ không may gặp phải các rủi
ro, nhằm góp phần đảm bảo an tồn xã hội.
Từ những nghiên cứu nêu trên, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ khi họ gặp phải những biến cố
làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm và thu nhập trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung có sự bảo hộ của Nhà nước nhằm
đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia đình họ, góp phần bảo đảm an tồn xã hội.
Ở các quốc gia, BHXH thường được thực hiện dưới hai loại hình là
BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đối với BHXH tự nguyện, người tham
gia được tự quyết định việc tham gia hay không tham gia BHXH, tự lựa chọn
mức đóng bảo hiểm, phương thức đóng bảo hiểm… trên cơ sở nhu cầu của
chính họ. Trong khi đó, BHXH bắt buộc được áp dụng đối với một số đối
tượng là NLĐ và người sử dụng lao động và họ phải tham gia BHXH theo
quy định của pháp luật khi tham gia quan hệ lao động, không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của cá nhân NLĐ hay người sử dụng lao động. Tất cả những nội
dung có liên quan như đối tượng áp dụng BHXH, mức đóng bảo hiểm,
phương thức đóng bảo hiểm, đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, thủ tục thực

2

. Viện Ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 36.


8

hiện, mức hưởng, thời gian hưởng... đều được quy định mang tính bắt buộc áp
dụng, người tham gia BHXH khơng có quyền lựa chọn.
Việc thực hiện BHXH bắt buộc là cần thiết khơng chỉ đối với NLĐ mà
cịn vì lợi ích của cộng đồng. Loại hình BHXH bắt buộc bao giờ cũng do Nhà
nước tổ chức thực hiện và tùy thuộc điều kiện kinh tế xã hội mỗi quốc gia mà
có đối tượng tham gia và các chế độ BHXH bắt buộc khác nhau. Chế độ
BHXH bắt buộc là những quy định cụ thể và chi tiết những chế định thực hiện
BHXH bắt buộc đối với NLĐ, người sử dụng lao động. Nói cách khác, đó là
một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng và phạm vi; về
quyền lợi và nghĩa vụ, về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp
BHXH bắt buộc cụ thể. Chế độ BHXH bắt buộc được cụ thể hóa dưới dạng
các văn bản pháp luật và dưới luật. Có thể hiểu BHXH bắt buộc là loại hình
BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện, bắt buộc áp dụng đối với một số NLĐ
và người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Pháp luật BHXH bắt
buộc là tổng thể những quy định của pháp luật về đối tượng tham gia BHXH
bắt buộc, các chế độ BHXH bắt buộc, quỹ BHXH bắt buộc, xử lý vi phạm
pháp luật và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc…
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội bắt buộc được tổ chức thực hiện không nhằm mục
đích lợi nhuận mà vì NLĐ và cộng đồng, có các đặc điểm chung của BHXH
và có đặc điểm riêng do tính chất "bắt buộc" của mình:
Thứ nhất, BHXH bắt buộc đảm bảo thu nhập (bảo hiểm) cả trong và
sau quá trình lao động cho NLĐ. BHXH bắt buộc bao gồm nhiều chế độ bảo

hiểm khác nhau, các chế độ BHXH bắt buộc thường toàn diện, giải quyết hậu
quả của hầu hết các rủi ro có thể xảy ra đối với NLĐ trong suốt quá trình lao
động {chế độ bảo hiểm thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
(TNLĐ, BNN)...} cho đến khi không tham gia quan hệ lao động nữa hoặc
chết (chế độ hưu trí, tử tuất). Do đó, có thể nói rằng sự bảo vệ của BHXH bắt
buộc đối với NLĐ là xuyên suốt cả trong q trình làm việc và sau đó.


9

Thứ hai, BHXH bắt buộc huy động sự đóng góp của những người tham
gia và nhà nước, tạo lập tài chính và phân phối, sử dụng nó nhằm bù đắp một
phần thu nhập của NLĐ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. BHXH bắt buộc có
chức năng dự phịng và bảo đảm điều kiện vật chất cho NLĐ và thành viên gia
đình họ trong những trường hợp do pháp luật quy định. Đối tượng của BHXH là
thu nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất do NLĐ bị giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm. Sự bảo đảm của BHXH bắt buộc đối với thu nhập
của NLĐ có thể chỉ ở mức độ đáp ứng những điều kiện sống tối thiểu song
nếu khơng có nó, cuộc sống của NLĐ có thể gặp phải khó khăn, túng quẫn.
Thứ ba, quan hệ pháp luật BHXH bắt buộc là loại quan hệ không
thuần nhất mà gồm nhiều chủ thể khác nhau. Đó là NLĐ và người sử dụng lao
động với tư cách là những người tham gia, đóng BHXH bắt buộc; đơn vị thực
hiện BHXH bắt buộc; NLĐ, thân nhân của NLĐ đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật với tư cách là bên thụ hưởng BHXH bắt buộc. Mỗi bên có
những quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quan hệ pháp luật BHXH bắt buộc
song các quyền và nghĩa vụ ấy đều xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động giữa
NLĐ và người sử dụng lao động thuộc đối tượng của BHXH bắt buộc.
Thứ tư, theo quy định của pháp luật, đối tượng thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc thì phải tham gia BHXH mà khơng phụ thuộc vào việc họ có
muốn tham gia hay khơng. Mức đóng BHXH bắt buộc thường được pháp luật

ấn định cho cả NLĐ và người sử dụng lao động. Thông thường, mức đóng
BHXH bắt buộc được tính tốn trên cơ sở tiền công, tiền lương mà NLĐ nhận
được khi tham gia quan hệ lao động. NLĐ hay người sử dụng lao động không
được tùy chọn tham gia hay không tham gia hay thỏa thuận với nhau về mức
đóng BHXH. Đây là đặc điểm riêng của BHXH bắt buộc.
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thứ nhất, nhà nước thống nhất quản lý về BHXH bắt buộc.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là một bộ phận quan trọng của hệ thống an
sinh xã hội, có ảnh hưởng lớn đến đời sống NLĐ và dân cư. BHXH bắt buộc


10

cần được quản lý thống nhất bởi nhà nước để đảm bảo các chính sách của
BHXH phù hợp với thực tế tình hình kinh tế, xã hội, lao động ở quy mơ tổng
thể, thống nhất. Nhà nước ban hành chính sách, các quy định pháp luật về
BHXH bắt buộc, bảo trợ cho quỹ BHXH để đảm bảo sự duy trì, tồn tại quỹ
thông qua các quy định về quỹ BHXH và thậm chí đóng góp một phần từ
ngân sách nhà nước vào quỹ BHXH. Ngoài ra, chủ thể quản lý BHXH bắt
buộc là nhà nước để đảm bảo duy trì sự tham gia của NLĐ, người sử dụng lao
động và duy trì được mối quan hệ giữa hai bên với nhau về BHXH, mối quan
hệ giữa NLĐ và người sử dụng lao động với cơ quan tổ chức BHXH.
Thứ hai, nguyên tắc "có đóng có hưởng" và thực hiện "hưởng thụ theo
đóng góp", "lấy đơng bù số ít".
Ngun tắc này đặt ra yêu cầu NLĐ tham gia đóng góp BHXH bắt
buộc thì mới được hưởng BHXH bắt buộc và nếu đã tham gia thì họ phải
được hưởng khi đáp ứng các điều kiện đối với từng chế độ. Mức hưởng được
tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những
người tham gia. Người đóng BHXH nhiều, thời gian đóng lâu hơn thì khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm họ được hưởng trợ cấp với mức cao hơn và ngược lại.

Bảo hiểm xã hội còn là sự san sẻ của cộng động với những NLĐ và
gia đình họ khi gặp rủi ro, đó là sự phân phối lại thu nhập xã hội theo cả chiều
dọc và chiều ngang. Tham gia đóng BHXH bắt buộc khơng chỉ có NLĐ mà cịn
có cả người sử dụng lao động và không phải NLĐ nào tham gia BHXH bắt buộc
cũng sẽ hưởng trợ cấp BHXH bắt buộc. Chỉ những NLĐ tham gia BHXH và
gặp rủi ro, xảy ra sự kiện bảo hiểm thì mới hưởng trợ cấp và số lượng những
NLĐ hưởng trợ cấp bao giờ cũng chiếm tỷ lệ thấp hơn số người tham gia, mức
đóng BHXH cũng phải được tính tốn để đảm bảo "số đơng bù số ít". BHXH bắt
buộc phân phối lại thu nhập giữa những NLĐ có thu nhập cao và NLĐ có thu
nhập thấp, giữa những NLĐ có sức khỏe đang làm việc với những người mất
hoặc giảm sút sức khỏe để lao động. Nguyên tắc này của BHXH bắt buộc
được thể hiện ở tất cả các chế độ, nhưng rõ nhất là ở chế độ ốm đau, thai sản,


11

TNLĐ, BNN.
Thứ ba, mức đóng BHXH bắt buộc được pháp luật ấn định cho cả
NLĐ và người sử dụng lao động, đảm bảo ở mức tối thiểu trở lên và bị khống
chế mức trần.
Mức đóng BHXH bắt buộc thường được pháp luật ấn định cho cả
NLĐ và người sử dụng lao động. Các bên tham gia BHXH bắt buộc không có
quyền thương lượng, thỏa thuận về mức đóng BHXH mà pháp luật quy định
cho mỗi bên. Thơng thường, mức đóng BHXH bắt buộc được tính tốn trên
cơ sở tiền cơng, tiền lương mà NLĐ nhận được khi tham gia quan hệ lao động
và trong tương quan với rất nhiều yếu tố nhằm đảm bảo công bằng và ngân
sách nhà nước không phải bảo trợ cho những mức bảo hiểm quá cao. Việc xác
định mức đóng hợp lý là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo tính hấp dẫn và
tính bền vững của BHXH bắt buộc. Mức đóng quá cao, ảnh hưởng đến tài
chính cho cuộc sống hàng ngày sẽ khiến cả NLĐ và người sử dụng lao động

trốn tránh tham gia BHXH bắt buộc nhưng mức đóng quá thấp sẽ khơng đủ
bù đắp chi phí gây nguy cơ mất an toàn quỹ BHXH bắt buộc.
Thứ tư, mức trợ cấp BHXH bắt buộc thấp hơn mức tiền lương lúc
đang đi làm nhưng phải bảo đảm mức sống tối thiểu cho NLĐ.
Để đảm bảo mục đích an sinh xã hội, thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho
NLĐ duy trì được cuộc sống thì mức trợ cấp BHXH bắt buộc khơng thể quá
thấp mà phải đảm bảo mức sống tối thiểu, đủ để chi trả những chi phí sinh
hoạt tối thiểu hàng ngày cho NLĐ. Song mức trợ cấp không được cao hơn
mức tiền lương lúc đang đi làm của NLĐ. Mức trợ cấp BHXH bắt buộc mà
cao hơn mức tiền lương lúc đang đi làm của NLĐ sẽ dẫn đến tâm lý NLĐ cố
ý để xảy ra các sự kiện bảo hiểm, đưa mình rơi vào hồn cảnh rủi ro để hưởng
bảo hiểm. Như vậy, chế độ BHXH bắt buộc lại khơng khuyến khích NLĐ làm
việc, lao động tạo ra của cải vật chất.
Thứ năm, có sự liên thơng giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện
để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi tính hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
Về phương diện pháp lý, dù NLĐ có tham gia BHXH bắt buộc hay


12

BHXH tự nguyện thì đều tạo nên những quyền lợi về BHXH có giá trị ngang
nhau. Theo tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động cụ thể mà NLĐ có thể
có thời gian tham gia BHXH với các hình thức khác nhau. Do đó, đảm bảo
cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động có nhiều cơ hội được hưởng
chế độ hưu trí và tử tuất thì thời gian đóng BHXH được tính bằng tổng thời
gian đóng BHXH của hai loại hình mặc dù trong cùng một thời điểm, NLĐ
chỉ tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện.
Thứ sáu, quỹ BHXH bắt buộc được quản lý thống nhất, dân chủ, công
khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích hạch tốn độc lập theo các quỹ
thành phần.

Bảo hiểm xã hội bắt buộc là chế độ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
sống xã hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp
lý. Để đảm bảo thực hiện hài hịa, đạt được mục tiêu mà BHXH đặt ra thì một
trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ BHXH. Xuất
phát từ ý nghĩa xã hội của BHXH, việc quản lý, sử dụng quỹ BHXH phải đảm
bảo tính dân chủ, cơng khai, minh bạch và sử dụng đúng mục đích trên cơ sở
của cơ chế ba bên. Có như vậy thì BHXH bắt buộc mới tạo được sự tin tưởng,
ủng hộ của người tham gia, được thực hiện một cách bền vững và lâu dài.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm nhiều chế độ khác nhau mà mức
đóng góp và thậm chí cơ cấu nguồn tài chính cho mỗi chế độ có thể có sự
khác nhau. Quỹ BHXH bắt buộc cần được hạch toán theo các quỹ thành phần
để đảm bảo sự quản lý tài chính tương đối độc lập cho mỗi chế độ, có sự theo
dõi và điều chỉnh kịp thời, phù hợp đối với mỗi chế độ.
1.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội là chính sách an sinh xã hội nhằm đảm bảo an toàn,
bù đắp thu nhập cho NLĐ khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Vì
thế đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trước hết phải là NLĐ. Song, đối
tượng của BHXH bắt buộc là thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc bị mất do NLĐ


13

bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. NLĐ là người làm cơng
ăn lương, xét về khía cạnh nhân văn, người sử dụng lao động cần chia sẻ với
những NLĐ làm cơng cho mình, có trách nhiệm giúp đỡ, đảm bảo cuộc sống
của họ được duy trì. Họ trở thành đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Pháp luật mỗi nước quy định phạm vi đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc có thể là tồn bộ NLĐ và người sử dụng lao động hoặc chỉ một bộ phận
những NLĐ, người sử dụng lao động nhưng đều hướng tới những đối tượng

có quan hệ lao động ổn định. Đối tượng của BHXH bắt buộc càng mở rộng
thì ý nghĩa, hiệu quả an sinh xã hội của BHXH càng lan tỏa, xu thế chung của
nhiều nước là mở rộng đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc. Thông thường,
đối tượng đầu tiên là công chức nhà nước và người làm trong quân đội, là lực
lượng lao động có quan hệ lao động ổn định và phục vụ trước hết cho nhà
nước. Tiếp theo BHXH bắt buộc được mở rộng ra các nhóm đối tượng khác
phụ thuộc vào vai trị của lực lượng lao động đó trong xã hội, khả năng tham
gia và nhu cầu của họ.
1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Năm 1952, Hội nghị toàn thể thành viên của ILO đã thông qua Công
ước số 102 quy định về những tiêu chuẩn tối thiểu của hệ thống an sinh xã hội
bao gồm 9 chế độ trợ cấp là: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật,
trợ cấp tiền tuất, trợ cấp gia đình. Đến nay, chính sách an sinh xã hội đã phát
triển thành hệ thống, với phạm vi và đối tượng bao phủ mở rộng theo điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia quy định
BHXH bắt buộc gồm 05 chế độ là chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN và
hưu trí, tử tuất.
Chế độ ốm đau: Chế độ bảo hiểm ốm đau là chế độ BHXH nhằm bảo
đảm thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ
việc vì ốm đau, chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. Đây là sự trợ
giúp ngắn hạn cho NLĐ và gia đình để NLĐ hồi phục sức khỏe, duy trì cuộc


14

sống trong thời gian bị ốm đau hoặc NLĐ phải chăm sóc con ốm đau.
Chế độ thai sản: Chế độ bảo hiểm thai sản là chế độ BHXH nhằm bảo
hiểm thu nhập và các chi phí y tế cho NLĐ khi mang thai, nuôi con nhỏ hoặc
thực hiện các biện pháp tránh thai. Mặc dù hiện nay một số nước quy định chế

độ thai sản được áp dụng cho cả lao động nam khi thực hiện các biện pháp
tránh thai hoặc nuôi con nuôi, vợ sinh con nhưng chế độ này vẫn được coi là
chủ yếu áp dụng cho lao động nữ và có ý nghĩa đối với lao động nữ nhiều hơn
là đối với lao động nam vì họ phải chịu ảnh hưởng do chức năng sinh đẻ, nuôi
con đối với quá trình lao động nhiều hơn. Chế độ bảo hiểm thai sản có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với lao động nữ, tạo điều kiện cho lao động nữ tham
gia quan hệ lao động và thực hiện thiên chức của mình, bảo vệ cho bà mẹ và
trẻ sơ sinh.
Chế độ TNLĐ, BNN: Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN là chế độ BHXH
nhằm bù đắp các chi phí chữa trị, bù đắp hoặc thay thế thu nhập từ lao động
của NLĐ bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên
nhân là TNLĐ hoặc BNN. Chế độ trợ cấp này gắn với rủi ro và điều kiện lao
động có hại gây ra cho NLĐ, nó có thể là tạm thời hoặc lâu dài, trợ cấp một
lần hoặc hàng tháng tùy thuộc rủi ro, hậu quả của rủi ro mà NLĐ gánh chịu.
Chế độ hưu trí: Chế độ bảo hiểm hưu trí nhằm bảo đảm cuộc sống cho
NLĐ khi đã hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia quan hệ lao động nữa.
BHXH hưu trí là chế độ cơ bản nhất trong các chế độ BHXH bắt buộc bởi đối
tượng hưởng chế độ này khá lớn, nó ảnh hưởng đến ổn định đời sống của một
bộ phận lớn dân cư. Nhìn chung, đối với bất cứ ai, bất cứ NLĐ nào thì sự kiện
BHXH hưu trí cũng xảy ra đối với họ, trừ trường hợp NLĐ ngừng tham gia
quan hệ lao động do bị chết. Khi đó, nếu đủ điều kiện luật định thì họ được
hưởng chế độ hưu trí.
Chế độ tử tuất: Chế độ tử tuất là chế độ BHXH đối với thân nhân của
NLĐ đang hoặc đã tham gia quan hệ lao động hay đang hưởng bảo hiểm,
đang chờ hưởng bảo hiểm mà bị chết. Chế độ này nhằm trợ giúp một phần


15

tiền tang lễ và trợ giúp cho thân nhân của NLĐ khi mất đi nguồn nuôi dưỡng.

Chế độ bảo hiểm này có đối tượng hưởng trợ cấp là nhân thân của NLĐ bị
chết do đó có thể nói đấy là chế độ bảo hiểm mang tính nhân văn cao cả, thể
hiện trách nhiệm của cộng đồng đối với NLĐ bị chết và chia sẻ những khó
khăn của gia đình họ.
Đối với mỗi chế độ BHXH bắt buộc, pháp luật quy định đối tượng
hưởng, điều kiện hưởng và mức hưởng trợ cấp… phù hợp với đặc điểm của
từng loại rủi ro, mức độ ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của NLĐ và đảm
bảo các nguyên tắc của BHXH như có đóng- có hưởng, mức hưởng phù hợp
với mức đóng... Trong đó, có chế độ bảo hiểm ngắn hạn như ốm đau, thai sản,
có chế độ bảo hiểm dài hạn như hưu trí, tử tuất. Đây đều là các chế độ bảo
hiểm quan trọng, liên quan đến các rủi ro về sức khỏe là rủi ro thường xảy ra
với đời sống con người mà có ảnh hưởng lớn đến khả năng làm việc, thu nhập
của NLĐ.
1.3.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quỹ BHXH là điều kiện, là cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo
cho hệ thống BHXH bắt buộc được duy trì. Pháp luật quy định về quỹ BHXH
bắt buộc bao gồm các quy định về nguồn thu của quỹ, quy định về việc chi
quỹ BHXH bắt buộc và quản lý quỹ BHXH bắt buộc. Đảm bảo khả năng cân
đối thu chi, chi trả đầy đủ trợ cấp cho các đối tượng đủ điều kiện, pháp luật
quy định chặt chẽ về việc thu, chi và quản lý quỹ BHXH bắt buộc. Việc quản
lý, sử dụng quỹ phải tuân thủ nguyên tắc tập trung, dân chủ và công khai trên
cơ sở đề cao trách nhiệm của các bên có liên quan.
Quỹ BHXH bắt buộc được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau mà
trước hết là nguồn do NLĐ và người sử dụng lao động đóng. Đây là nguồn cơ
bản nhất của quỹ BHXH bắt buộc vì BHXH bắt buộc có đối tượng tham gia là
NLĐ và người sử dụng lao động và trước hết là vì lợi ích của họ. Quỹ BHXH
bắt buộc cịn có nguồn thu nữa là sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Nhà nước
có vai trò bảo trợ cho BHXH bắt buộc, để bảo đảm cho sự an tồn, duy trì quỹ



16

BHXH bắt buộc thì phải hỗ trợ một phần từ ngân sách nhà nước trong những
trường hợp cần thiết. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính, có đầu vào, đầu ra và
ln có độ trễ giữa thu- chi, nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ cần phải
được đầu tư sinh lời là điều tất yếu và đây cũng là một nguồn thu của quỹ
BHXH bắt buộc. Ngoài ra, quỹ cịn có có thể có các nguồn thu hợp pháp khác
theo quy định pháp luật từng quốc gia.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm nhiều chế độ bảo hiểm khác nhau,
tùy thuộc đặc điểm của mỗi chế độ mà quỹ BHXH bắt buộc được chia thành
các quỹ thành phần khác nhau. Quỹ BHXH bắt buộc được chi trả chủ yếu cho
các khoản trợ cấp theo các chế độ BHXH bắt buộc, khoản chi này chiếm tỷ
trọng lớn nhất. Ngoài ra, quỹ cịn được dùng để thanh tốn các chi phí vận
hành bộ máy thực hiện BHXH bắt buộc như tiền lương cho người làm công
tác BHXH, đầu tư cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý khác.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm nhiều chế độ BHXH khác nhau, có
những chế độ bảo hiểm ngắn hạn, có những chế độ bảo hiểm dài hạn. Do vậy,
các quỹ thành phần của quỹ BHXH bắt buộc có thể khác nhau về chu kỳ hạch
toán. Đối với các chế độ bảo hiểm ngắn hạn, để thực hiện chi các chế độ bảo
hiểm này, quỹ BHXH bắt buộc phải được hạch tốn theo chu kỳ năm và có
thể thực hiện việc điều chỉnh, điều tiết khá linh hoạt. Đối với các chế độ bảo
hiểm dài hạn, đây là các chế độ bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở dồn tích
tiền đóng BHXH của nhiều năm, thậm chí là vài chục năm để thực hiện chi
bảo hiểm khi NLĐ hết tuổi lao động hoặc bị chết. Do đó, quỹ bảo hiểm hưu
trí, tử tuất thường được hạch tốn và điều chỉnh trong một chu kỳ dài. Việc
hạch toán quỹ BHXH bắt buộc có ý nghĩa rất quan trọng bởi căn cứ vào kết
quả hạch tốn mà có thể có biện pháp điều chỉnh kịp thời để đảm bảo cân đối
thu, chi, quyết định các hình thức, lựa chọn đầu tư quỹ hiệu quả.
1.3.4. Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là chế độ quan trọng trong chính sách an

sinh xã hội và có phạm vi đối tượng bao phủ rộng, do đó đa số các nước coi


17

hoạt động BHXH bắt buộc là hoạt động dịch vụ cơng, có những chức năng
chung là quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; tổ chức thu - chi trả các
trợ cấp bảo hiểm; quản lý hoạt động tài chính BHXH bắt buộc.
Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên
hệ thống BHXH bắt buộc của các nước được xây dựng khác nhau, khơng có
mơ hình tổ chức BHXH bắt buộc chung cho tất cả các nước. Có một số nước
giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý nhà nước về BHXH
bắt buộc và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ của BHXH bắt buộc. Mô hình
này có đặc điểm là quản lý được đối tượng trong thị trường lao động dù có
thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc khu vực có quan hệ lao động hay khơng
thuộc khu vực có quan hệ lao động; phải có quỹ BHXH bắt buộc lớn, đủ khả
năng chi trả các trợ cấp bảo hiểm trong mọi trường hợp. Đa số các nước lại
giao việc tổ chức, thực hiện BHXH bắt buộc cho một cơ quan BHXH độc lập
thực hiện, chịu trách nhiệm quản lý đối tượng tham gia, thụ hưởng và quản lý
quỹ BHXH bắt buộc. Nhà nước thực hiện chức năng, vai trị ban hành chính
sách và quản lý hành chính đối với BHXH bắt buộc.
Với mơ hình tổ chức BHXH bắt buộc nào thì cơ quan BHXH bắt buộc
cũng có những chức năng chủ yếu là quản lý thu- chi BHXH bắt buộc, quản
lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và đối tượng hưởng các chế độ của
BHXH bắt buộc, quản lý quỹ BHXH bắt buộc và thanh tra, kiểm tra về
BHXH bắt buộc nhằm đảm bảo các hoạt động BHXH bắt buộc đúng với các
quy định pháp luật.
1.3.5. Xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm
xã hội bắt buộc
* Xử lý vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc

Căn cứ vào tính chất của hoạt động BHXH, có thể chia hành vi vi
phạm pháp luật BHXH bắt buộc thành ba nhóm chính:
Nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc, gồm các hành
vi khơng đóng BHXH bắt buộc cho người thuộc đối tượng tham gia BHXH


18

bắt buộc, đóng BHXH bắt buộc chậm, quá thời gian quy định, đóng BHXH
bắt buộc khơng đủ cho số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc của đơn
vị... Đây là nhóm hành vi vi phạm thường xảy ra ở các nước mà nền kinh tế
chưa phát triển, NLĐ có đời sống kinh tế khó khăn, nhận thức chưa đầy đủ về
BHXH bắt buộc. Thông thường pháp luật quy định cả NLĐ và người sử dụng
lao động đều phải đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc theo những tỷ lệ nhất
định nhưng người sử dụng lao động sẽ thực hiện trực tiếp việc nộp vào quỹ
BHXH bắt buộc. Vì thế, hành vi vi phạm về nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc
chủ yếu là đối với người sử dụng lao động song cũng có những trường hợp là
có sự đồng thuận, thống nhất của NLĐ.
Nhóm hành vi vi phạm quy định về hưởng BHXH bắt buộc, gồm
những hành vi làm sai lệch, làm giả giấy tờ, hồ sơ để hưởng các chế độ
BHXH bắt buộc trái pháp luật. Hành vi gian lận để hưởng BHXH bắt buộc có
thể do một cá nhân thực hiện độc lập thực hiện để cho chính mình được
hưởng BHXH bắt buộc hoặc được hưởng ở mức cao hơn mức quy định hoặc
do một nhóm người thực hiện nhằm chiếm đoạt tiền của quỹ BHXH bắt buộc.
Hành vi này trực tiếp ảnh hưởng đến quỹ BHXH bắt buộc, qua đó ảnh hưởng
đến quyền lợi của NLĐ tham gia BHXH bắt buộc. Do vậy nó có tính nguy
hiểm, ở mức độ lớn, nó có thể ảnh hưởng đến sự an tồn của quỹ.
Nhóm hành vi vi phạm liên quan đến quản lý, tổ chức thực hiện
BHXH bắt buộc: Hành vi vi phạm các quy định về quản lý, tổ chức thực
hiện BHXH bắt buộc có thể dẫn đến thất thoát về mặt tài sản của quỹ BHXH

bắt buộc, ảnh hưởng gián tiếp đến quyền lợi của NLĐ. Do đó pháp luật cũng
quy định về xử lý các hành vi vi phạm quy định về quản lý, thực hiện BHXH
bắt buộc.
Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc, dù ở mức độ nào
cũng có tính nguy hiểm cho xã hội, cần bị xử lý bằng chế tài phù hợp. Các
hành vi vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc có thể bị xử lý hành chính hoặc
hình sự. Pháp luật nhiều nước quy định các hành vi vi phạm có thể bị truy tố


19

như gian lận để hưởng BHXH hay không nộp tiền đóng BHXH đúng hạn.
* Giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc
Tranh chấp BHXH bắt buộc nhìn chung rất đa dạng nhưng đều tập
trung ở những vấn đề liên quan đến việc thực hiện hoặc thực hiện không đúng
các quy định của nhà nước về việc đóng BHXH hoặc giải quyết các quyền lợi
BHXH bắt buộc cho NLĐ và các đối tượng thụ hưởng khác. Khi phát hiện
quyền về BHXH bắt buộc bị xâm hại, hành vi vi phạm quy định pháp luật về
BHXH bắt buộc, là hành vi hành chính, hành vi của cơ quan BHXH, người có
thẩm quyền có thể khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Trường hợp
tranh chấp giữa các bên không thể giải quyết bằng thương lượng, có thể giải
quyết theo cơ chế tài phán theo quy định của pháp luật.
1.4. Vai trò của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Vai trò của BHXH bắt buộc đối với NLĐ và gia đình họ
Bảo hiểm xã hội bắt buộc có vai trị quan trọng đối với NLĐ và gia
đình họ. Ở bất kỳ hồn cảnh, thời điểm nào, rủi ro ln ln rình rập, đe dọa
cuộc sống của mỗi người. Rủi ro phát sinh hồn tồn ngẫu nhiên bất ngờ
khơng lường trước được nhưng xét trên bình diện xã hội, rủi ro là một tất yếu
khơng thể tránh được. Để phịng ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của
rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của BHXH

nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng. Đối với NLĐ và gia đình họ, BHXH
bắt buộc khơng chỉ có ý nghĩa là sự trợ giúp về vật chất mà cịn có ý nghĩa về
tinh thần to lớn.
Về kinh tế, BHXH bắt buộc có vai trị ổn định thu nhập cho NLĐ và
gia đình họ. Khi tham gia BHXH bắt buộc, NLĐ phải trích một khoản phí nộp
vào quỹ BHXH bắt buộc, khi gặp rủi ro, bất hạnh như ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động phải ngừng hoặc ngừng làm việc tạm thời làm mất hoặc giảm
thu nhập, đời sống kinh tế lâm vào tình cảnh khó khăn, có những gia đình mà
nguồn tích cóp cịn hạn chế thì chi phí chữa bệnh, sinh hoạt trong thời gian đó


20

có thể khiến họ rơi vào túng quẫn. Nhờ có BHXH bắt buộc, họ được nhận
một khoản tiền trợ cấp bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm
bảo ổn định thu nhập, ổn định đời sống ít nhất là ở mức tối thiểu để duy trì.
Ngồi việc đảm bảo đời sống kinh tế cho NLĐ và gia đình khi rơi vào
hồn cảnh khó khăn do rủi ro làm mất hoặc giảm thu nhập, BHXH bắt buộc
tạo được tâm lý an tâm cho NLĐ khi làm việc. Nhờ có BHXH bắt buộc, cuộc
sống của những thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người
tàn tật cũng được đảm bảo an tồn. Họ có thể tập trung vào công việc đang
làm mà không phải lo lắng nếu có rủi ro xảy ra thì cuộc sống của bản thân và
gia đình sẽ được đảm bảo bằng cái gì, như thế nào.
Vai trị của BHXH bắt buộc đối với người sử dụng lao động
Trong quá trình NLĐ làm việc, trường hợp họ gặp phải rủi ro thì nhờ
có BHXH bắt buộc mà rủi ro ấy đã được chuyển giao, san sẻ một phần. Nhờ
vậy tình hình tài chính của các doanh nghiệp được ổn định hơn. Nếu khơng có
BHXH bắt buộc, khi NLĐ ốm đau, tai nạn khơng có nguồn thu nhập, khơng
có chi phí thuốc men…đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động,
chất lượng, hiệu quả lao động trong doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo.

Khi tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ sẽ phát huy tinh thần trách
nhiệm, gắn bó tận tình của họ trong các doanh nghiệp góp phần ổn định
nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, duy trì và nâng cao năng suất lao động.
Quan hệ giữa người sử dụng lao động và NLĐ được trở nên lành mạnh hơn,
thị trường sức lao động vận động theo hướng tích cực góp phần xây dựng và
có kế hoạch phát triển chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
của các doanh nghiệp và nền kinh tế thị trường.
Pháp luật quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với NLĐ
về BHXH bắt buộc, qua đó xây dựng được mối quan hệ gắn bó, tình cảm hơn
với NLĐ, hình thành được những nét văn hóa đẹp của doanh nghiệp. BHXH bắt
buộc tạo điều kiện cho sử dụng lao động có trách nhiệm với NLĐ, khơng chỉ


21

trong quá trình lao động, làm việc mà cho đến khi già yếu, làm cho quan hệ lao
động có tính nhân văn sâu sắc, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Vai trò của BHXH bắt buộc đối với xã hội
Bảo hiểm xã hội bắt buộc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, tạo
cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết
để khắc phục những biến cố xã hội, hòa nhập vào cộng đồng, kích thích tính
tích cực của xã hội trong mỗi con người. BHXH bắt buộc tạo ra cơ chế chia sẻ
rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố tình đồn kết, gắn bó giữa các
thành viên trong xã hội. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là
nhân tố quan trọng cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn
thiện những giá trị nhân bản của con người, tạo điều kiện cho một xã hội phát
triển lành mạnh và bền vững.
Trong cơ chế thị trường, sự phân tầng giữa các lớp trong xã hội trở
nên rõ rệt. Đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề
khác nhau trong xã hội. Nhưng rủi ro xảy ra trong cuộc sống không loại trừ

một ai, nếu rơi vào những người có hồn cảnh kinh tế khó khăn thì cuộc sống
của họ trở nên bần cùng. Trên giác độ kinh tế, BHXH là một công cụ phân
phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. BHXH bắt buộc là sự
phân phối lại thu nhập giữa người sử dụng lao động và NLĐ, phân phối lại
thu nhập giữa những NLĐ có mức thu nhập cao và những NLĐ có thu nhập
thấp hơn thơng qua mức đóng được tính trên căn cứ mức thu nhập. Nhờ sự
điều tiết này NLĐ được thực hiện bình đẳng khơng phân biệt các tầng lớp
trong xã hội.
Mặc dù BHXH bắt buộc được thực hiện khơng nhằm mục đích kinh
doanh, lợi nhuận nhưng quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích
tụ tập trung rất lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho nền kinh tế tạo ra
sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho NLĐ. BHXH
bắt buộc là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất
cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Hoạt


22

động BHXH bắt buộc cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho
thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt, với bảo
hiểm hưu trí, nguồn vốn tích lũy trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có
thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi
ích cho tất cả các bên: người tham gia BHXH bắt buộc, cơ quan BHXH và
nền kinh tế nói chung.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc càng hoạt động tốt, quỹ BHXH càng phát
triển sẽ góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của NLĐ và gia đình
họ, đồng thời sẽ tạo ra sự vững mạnh của nền tài chính quốc gia. Xét về tổng
thể, quỹ BHXH bắt buộc tạo ra nguồn cung dồi dào và ổn định cho thị trường
tài chính. Khi tham gia vào dịng tài chính quốc gia, quỹ BHXH góp phần tạo
ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan trọng

trong việc tạo ra cơng ăn việc làm cho NLĐ, từ đó góp phần giải quyết tình
trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho NLĐ nói
riêng và tăng thu quốc dân nói chung.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là chính sách an sinh xã hội quan trọng của
một quốc gia, BHXH bắt buộc cịn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội
của quốc gia. Kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp
kém thì hệ thống BHXH bắt buộc cũng chậm phát triển ở mức tương ứng.
Kinh tế càng phát triển, đời sống của NLĐ được nâng cao thì nhu cầu tham
gia BHXH bắt buộc của họ càng lớn. Thông qua hệ thống BHXH, trình độ tổ
chức, quản lý rủi ro xã hội của nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể
hiện bằng việc mở rộng đối tượng tham gia, quản lý được nhiều trường hợp
rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH bắt buộc.
Kết luận Chương 1
Trên thế giới, BHXH ra đời khá sớm và trở thành một trụ cột chính
của hệ thống an sinh xã hội ở mỗi quốc gia, là một chính sách xã hội không
thể thiếu ở các nước. BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do nhà nước tổ chức


23

thực hiện và bắt buộc áp dụng đối với một số NLĐ và người sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật. BHXH bắt buộc trở thành nhu cầu và quyền lợi
của NLĐ và được thừa nhận là nhu cầu khách quan, một trong những quyền
cơ bản của con người.
Pháp luật về BHXH bắt buộc có nhiều nội dung, quy định về đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc, các chế độ BHXH bắt buộc… Việc thực hiện
các chế độ BHXH bắt buộc khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước, xu hướng chung là các quốc gia ngày
càng thực hiện đầy đủ hơn các chế độ BHXH bắt buộc, coi đây là giải pháp bảo
đảm tốt hơn quyền lợi, trách nhiệm của NLĐ và sâu xa hơn là chính sách ổn

định xã hội trên cơ sở bảo đảm ngun tắc cơng bằng, bình đẳng, tạo điều
kiện thuận lợi để mọi NLĐ đều có thể tiếp cận, tham gia và hưởng lợi từ chính
sách BHXH bắt buộc; tuân thủ ngun tắc đóng - hưởng, bảo đảm tính cân
đối, bền vững giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ; có sự chia sẻ, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau giữa các thành viên, giữa các chính sách trong hệ thống BHXH.


24

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH HỊA BÌNH
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
2.1.1. Quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo quy định của Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn, đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc là NLĐ và người sử dụng lao động như sau:
Về NLĐ tham gia BHXH bắt buộc, gồm có 02 nhóm
* Người lao động là cơng dân Việt Nam, bao gồm: (1) Người làm việc
theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định
thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn
từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng; (2) Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn
từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; (3) Cán bộ, cơng chức, viên chức; (4) Cơng
nhân quốc phịng, cơng nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức
cơ yếu; (5) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; (6) Hạ sĩ
quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục
vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng
sinh hoạt phí; (7) Người đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng quy định tại
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; (8) Người quản

lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
(9) Người hoạt động khơng chun trách ở xã, phường, thị trấn.
* Người lao động là công dân nước ngồi làm việc tại Việt Nam có
giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định 143/2018/NĐ-CP, từ
ngày 01/01/2022, NLĐ là cơng dân nước ngồi làm việc tại Việt Nam thuộc


25

đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ
hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
cấp và có HĐLĐ khơng xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 01
năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: (1) Cơ
quan nhà nước; (2) Đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; (3) Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; (4) Doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử
dụng lao động theo HĐLĐ.
Có thể thấy hiện nay BHXH đã bao phủ tất cả các đối tượng tham gia
quan hệ lao động có HĐLĐ từ 01 tháng trở lên, thuộc mọi thành phần kinh tế,
quy mô lao động. BHXH bắt buộc áp dụng đối với cả NLĐ là cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang, NLĐ nước ngoài làm việc ở Việt Nam
theo quy định của Chính phủ. Người sử dụng lao động của những NLĐ này
cũng là chủ thể phải tham gia BHXH bắt buộc.
Thực hiện các quy định của Luật BHXH năm 2014 về BHXH bắt buộc,
tính đến hết năm 2017 ở nước ta vẫn còn khoảng 380.000 doanh nghiệp, chủ

yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (chiếm 63,5% số doanh nghiệp đang
hoạt động) chưa tham gia; còn khoảng 3,41 triệu người thuộc diện nhưng
chưa tham gia BHXH bắt buộc3. Đến hết 2018, số người tham gia BHXH
trong cả nước đã đạt trên 14,7 triệu người, chiếm khoảng 30,4% lực lượng lao
động trong độ tuổi4. Nhiều NLĐ chưa có thói quen tham gia BHXH lúc còn
trẻ để hưởng lương hưu khi về già. Như vậy, để đạt được mục tiêu mà Nghị
quyết Nghị quyết số 125/NQ-CP; Nghị quyết số 28-NQ/TW đề ra thì cịn cần
rất nhiều nỗ lực nếu như khơng nói rằng rất khó để đạt được.
3

. />. />4


×