Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Địa vị pháp lý của ban kiểm soát công ty cổ phần theo quy định tại luật doanh nghiệp 2014 thực tiễn thi hành tại tỉnh hòa bình -Luận văn thạc sĩ luật học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.79 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình Việt Nam xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, việc khai thác các
tiềm năng về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn lực vật chất khác cho nhu
cầu đầu tư và phát triển của đất nước là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc
thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trong số các loại hình
doanh nghiệp được tổ chức và hoạt động theo pháp luật Việt Nam, công ty cổ phần
(CTCP) có nhiều ưu việt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Bộ máy tổ chức,
quản lý CTCP được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ công ty nhằm đảm bảo sự hợp
lý, minh bạch và hoạt động có hiệu quả.
Trong CTCP, Ban kiểm sốt (BKS) có chức năng, vai trò kiểm tra, giám sát
việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy của cơng ty, trong đó có hoạt động của cơ
quan quản lý, điều hành, của các cổ đông cũng như của nhân viên trong công ty
nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của các cổ đông, của người lao động trong
công ty cũng như của các đối tác và của toàn xã hội.
Ở Việt Nam, với những lý do chủ quan và khách quan khác nhau, BKS
chưa thể hiện được đầy đủ vai trò bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các cổ đông,
của người lao động cũng như của Nhà nước và xã hội. Do vậy, trong thời gian tới,
việc tổ chức và hoạt động của BKS cần được điều chỉnh bởi một khung pháp lý đầy
đủ, hợp lý và rõ ràng hơn. Pháp luật về BKS cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
để việc tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP ngày càng đạt được hiệu quả cao.
Trong những năm vừa qua, việc thực thi các quy định về tổ chức và hoạt
động của BKS trong CTCP ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Hịa Bình nói riêng đã đạt
được một số ưu điểm và thành công nhất định. Tuy vậy, việc thực thi pháp luật về
BKS trong CTCP cũng vẫn cịn có những khiếm khuyết và nhược điểm cần được
nhận rõ và khắc phục.
Với những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề "Địa vị pháp lý của Ban kiểm
sốt cơng ty cổ phần theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014 - Thực tiễn thi


hành tại tỉnh Hịa Bình" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung về hoặc liên quan đến đề tài luận văn này đã được nhiều
tác giả nghiên cứu ở nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học, với các góc độ khác nhau. Có thể nêu ra đây kết
quả nghiên cứu trong các luận văn thạc sĩ luật học của các tác giả như sau: "Chế
định Ban kiểm sốt của cơng ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005" luận văn
thạc sĩ của Ngơ Đình Lập, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2014; "Pháp luật về Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
Việt Nam 2005" luận văn thạc sĩ của Đoàn Mạnh Quỳnh, năm 2010; "Quản trị cơng
ty cổ phần theo mơ hình có Ban kiểm sốt theo Luật Doanh nghiệp 2014" luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Nữ Huyền, Học viện Khoa học Xã hội, Viện hàn lâm Khoa học
Xã hội Việt Nam, năm 2016...
Một số bài báo khoa học cũng đã được các tác giả cơng bố trên các tạp chí
chun ngành Luật hoặc trên mạng internet. Đó là các bài viết của các tác giả sau:
"Ban

kiểm

sốt

trong

cơng

ty


cổ

phần"

của

Trần

Minh

Sơn,

, truy cập ngày 28/4/2019; "Ban kiểm sốt khơng thể...
kiểm sốt" của Bích Diệp, , truy cập ngày 28/4/019; "Về
hoạt động giám sát của Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần" của Nguyễn Thị Lan
Hương, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 27 (2011); "Các
quy định pháp luật về Ban kiểm soát trong doanh nghiệp - Thực trạng và các giải
pháp hoàn thiện" của Trần Ngọc Dũng, Tạp chí Luật học số 11/2018; "Vai trị của
ban

kiểm

sốt

trong

cơng

ty


cổ

phần"

của

Trần

Thanh

Tùng,

truy cập ngày 28/4/2019.
Có thể thấy các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến việc tổ chức và
hoạt động của BKS trong CTCP ở các mức độ khác nhau và đã đưa ra được những
kiến nghị đáng chú ý về việc hoàn thiện các quy định về BKS trong CTCP. Tác giả
Ngơ Đình Lập đã tập trung nghiên cứu chủ yếu về chế định BKS được quy định
trong Luật Doanh nghiệp 2005 thông qua việc so sánh Luật Doanh nghiệp 1999 và
dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014. Tác giả đã phân tích để chỉ ra những bất cập, hạn


3
chế và thiếu sót của chế định này với vai trị là một trong những cơng cụ quan trọng
nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Tác giả Nguyễn Nữ Huyền nghiên cứu những vấn đề về quản trị CTCP theo
mơ hình có BKS theo Luật Doanh nghiệp 2014 như: các khái niệm, cơ sở pháp lý,
nền tảng khoa học, các vấn đề có liên quan đến quản trị CTCP theo mơ hình có
BKS. Tác giả đã đánh giá chính xác thực trạng quản trị CTCP theo mơ hình có
BKS. Tác giả đã chỉ ra những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng, thực thi các quy
định của pháp luật về quản trị CTCP theo mơ hình có BKS. Tác giả cũng nêu ra

những vấn đề chưa hợp lý, những quy định còn thiếu trong các quy định về quản trị
CTCP theo mơ hình có BKS. Tác giả đã phân tích nguyên tắc quản trị CTCP đang
được nhiều nước trên thế giới lựa chọn áp dụng, đồng thời cũng nghiên cứu kinh
nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP của một số nước trên
thế giới; đồng thời đưa ra một số đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về cơ chế quản trị CTCP theo mơ hình có BKS.
Tác giả Trần Minh Sơn trong bài viết "Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần" đã chỉ ra thực trạng hoạt động của BKS trong các CTCP ở Việt Nam chưa thể
hiện đầy đủ vai trị bảo vệ cổ đơng và nhà đầu tư: Báo cáo của BKS trong các kỳ
Đại hội đồng cổ đơng (ĐHĐCĐ) có nội dung như bản sao các báo cáo của Hội đồng
quản trị (HĐQT) và Ban Giám đốc, rất ít thơng tin có ích cho cổ đơng. Có rất nhiều
việc làm sai trái của HĐQT và Ban Giám đốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích
của cổ đơng nhưng khơng hề có tiếng nói cảnh báo nào từ BKS cho đến khi sự việc
bị phát hiện. BKS chưa thực thi quyền hạn triệu tập họp ĐHĐCĐ khi HĐQT khơng
triệu tập họp hoặc có vi phạm nghĩa vụ quản lý. Tác giả đã nêu lên những nguyên
nhân khiến hoạt động của BKS không hiệu quả: ĐHĐCĐ bầu ra BKS nhưng lại trao
quyền cho Chủ tịch HĐQT ban hành quy chế hoạt động của BKS nên HĐQT và
Ban Giám đốc ln tìm cách để tránh khỏi sự kiểm soát của BKS hoặc giới hạn
quyền của BKS tới mức có thể nhằm mở rộng quyền của mình; Thành viên BKS chỉ
là một người lao động bình thường, một nhân viên cấp thấp trong công ty chịu sự
quản lý của HĐQT và Ban Giám đốc nên BKS không thể độc lập kiểm sốt hoạt
động của cơng ty; Vai trị của BKS chưa được các văn bản luật đề cao, văn bản do


4
BKS ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa cảnh báo; Báo cáo của BKS
thường được trình cho ĐHĐCĐ vào mỗi kỳ họp, thời gian giữa các kỳ họp lại quá
xa nên báo cáo của BKS khơng cịn tính thời sự. Từ đó tác giả đưa ra một số đề xuất
để hoạt động của BKS được hiệu quả hơn như: hoạt động của BKS cần được điều
chỉnh bởi một khung pháp lý rõ ràng hơn, đồng thời chính cổ đơng phải hiểu rõ và

sử dụng vai trị của BKS một cách thơng minh và phù hợp, khi được cổ đông tin
tưởng và trao quyền, BKS phải có đủ khả năng và dũng khí thực thi nhiệm vụ, các
báo cáo của BKS phải thể hiện được tính độc lập và chính xác.
Tác giả Bích Diệp đã chỉ ra một thực tế trong các CTCP là BKS không thể
kiểm sốt, do các thành viên của BKS rất khó có thể "kiểm sốt" được các thành
viên HĐQT vì đó là những người có cả "tiền" và "quyền" và có tác động rất lớn đến
việc bổ nhiệm các thành viên BKS", khi HĐQT mở rộng quyền đưa người thân cận
vào "kiểm sốt" thì sẽ dẫn đến tâm lý "dĩ hịa vi quý"; BKS vẫn đang bị "khống
chế" bởi khoản thù lao do chính doanh nghiệp chi trả cũng như bị ràng buộc bởi
những mối quan hệ cá nhân nên tính độc lập của BKS vẫn còn bị ảnh hưởng; Các
doanh nghiệp khơng xem trọng vai trị của BKS, quan điểm của doanh nghiệp khi
thành lập BKS là để tuân thủ pháp luật, do đó doanh nghiệp khơng đầu tư, trang bị
đầy đủ cho BKS thực hiện tốt chức năng giám sát của họ; BKS khơng có đủ nguồn
nhân lực, rất ít thành viên BKS làm việc toàn thời gian, phần lớn là làm việc bán
thời gian, kiêm nhiệm; BKS còn thiếu công cụ thu thập thông tin phục vụ chức năng
giám sát, họ không được trang bị một hệ thống thông tin quản lý đặc thù cho công
việc giám sát; Theo thông lệ quốc tế, để thực hiện công tác giám sát hoạt động của
doanh nghiệp, thường các thành viên trong BKS phải hỗ trợ nhau để đảm bảo có ít
nhất 4 nhóm kỹ năng chính là: năng lực quản lý rủi ro, năng lực chun mơn về kế
tốn kiểm toán, năng lực về hoạt động kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp và năng
lực giám sát sự tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp ở Việt Nam có
một đội ngũ BKS hội đủ 4 yếu tố này.
Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương trong bài viết "Về hoạt động giám sát của
Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần" từ chỗ xác định các hoạt động của BKS như:
Thẩm định báo cáo kinh doanh và báo cáo tài chính; Giám sát hoạt động đầu tư;


5
Phát hiện và yêu cầu chấm dứt vi phạm, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị: Bảo
đảm vị trí độc lập của BKS, cần đặt ra tiêu chuẩn cụ thể và giám sát chặt chẽ việc áp

dụng tiêu chuẩn, điều kiện của thành viên BKS từ khi ứng cử đến khi hết nhiệm kỳ
nhằm đảm bảo vị trí độc lập của thành viên BKS trong thực hiện thẩm quyền và nhiệm
vụ được giao; Yêu cầu đối với thẩm định báo cáo cần thiết phải yêu cầu về nội dung
của báo cáo quý, bán niên và thường niên, cần có giải trình liên quan đến xung đột
lợi ích, có như vậy báo cáo thẩm định của BKS mới có ý nghĩa trong việc chấn
chỉnh hoạt động của các thành viên HĐQT và Giám đốc/Tổng giám đốc (GĐ/TGĐ)
và vì lợi ích của cổ đông và của công ty; Bổ sung thẩm quyền đại diện khởi kiện
của BKS, nhằm nâng cao vị trí và phát huy vai trị của BKS trong quản trị nội bộ
CTCP; Nâng cao nhận thức của cổ đơng về vị trí quan trọng của BKS trong giám
sát cơng ty, cổ đơng khi tham gia góp vốn vào CTCP cần thiết phải nhận thức được
quyền của mình, đồng thời thông qua thẩm quyền ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của HĐQT và BKS để hoàn chỉnh cơ chế giám sát nội bộ theo hướng củng cố
vị trí độc lập của BKS, quy định nghĩa vụ phối hợp hoạt động của HĐQT với BKS
nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền hạn của người quản lý, điều hành.
Tác giả Trần Ngọc Dũng trong bài báo "Các quy định pháp luật về Ban
kiểm soát trong doanh nghiệp - Thực trạng và các giải pháp hồn thiện" đã phân
tích những bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của
kiểm soát viên (KSV)/BKS trong các loại hình doanh nghiệp như: Các tiêu chuẩn
đối với KSV không được áp dụng thống nhất trong các loại hình doanh nghiệp trách
nhiệm hữu hạn (TNHH), CTCP; KSV/BKS không được cung cấp đầy đủ các tài
liệu, thông tin cần thiết về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp để có thể kiểm tra,
giám sát tốt việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy của doanh nghiệp; Luật Doanh
nghiệp 2014 chưa quy định rõ ràng rằng KSV phải làm việc chuyên trách, không
kiêm nhiệm; Luật Doanh nghiệp 2014 chưa quy định rõ ràng về chế độ lương,
thưởng hợp lý đối với KSV để bảo đảm cho họ làm việc hết mình vì doanh nghiệp.
Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc tổ chức và hoạt động của KSV/BKS trong các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam, góp phần thiết thực vào sự ổn định và phát triển bền



6
vững của các doanh nghiệp: Các tiêu chuẩn đối với KSV cần được đặt ra và áp dụng
thống nhất đối với tất cả các KSV trong các loại hình doanh nghiệp, chứ không chỉ
áp dụng trong các DNNN, trong công ty TNHH một thành viên hay trong CTCP;
Pháp luật về doanh nghiệp cần bổ sung quy định về quyền của KSV/BKS được
quyền khởi kiện tại Tòa án đối với các hành vi của thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ vi
phạm pháp luật, điều lệ, nội quy của doanh nghiệp; Pháp luật về doanh nghiệp cần
quy định chế độ cung cấp thông tin đặc biệt (thường xuyên, đầy đủ, chi tiết) đối với
KSV/BKS; Cần có quy định rõ ràng trong Luật Doanh nghiệp 2014 rằng KSV phải
làm việc độc lập với các cá nhân hoặc cơ quan quản lý, điều hành doanh nghiệp,
làm việc chuyên trách, không kiêm nhiệm; Chế độ lương, thưởng đối với KSV là do
Đại hội hội thành viên hoặc ĐHĐCĐ quyết định; Cần tuyên truyền, phổ biến sâu
rộng các quy định của pháp luật, điều lệ, nội quy của doanh nghiệp về vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của KSV và/hoặc của BKS; Doanh nghiệp phải tuyển chọn, tuyển
dụng được những người có đủ tư cách, trình độ, kiến thức, kinh nghiệm đáp ứng
được các điều kiện cần thiết để làm KSV; Doanh nghiệp phải tạo điều kiện thuận lợi
cho các KSV được thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức, trình độ, kinh nghiệm
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy của doanh nghiệp; Doanh
nghiệp phải xây dựng và áp dụng chế độ lương,thưởng, tạo môi trường công tác hợp
lý cho các KSV yên tâm làm việc, khơng ngại đấu tranh cho lợi ích của doanh
nghiệp.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến
địa vị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của BKS trong CTCP theo các quy định của
Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là toàn bộ các quy định pháp luật về
địa vị pháp lý của BKS trong CTCP theo luật Doanh nghiệp 2014. Tác giả luận văn
cũng nêu ra và phân tích những vụ việc cụ thể trong thực tiễn thi hành các quy định

pháp luật về quyền và nghĩa vụ của BKS trong CTCP ở tỉnh Hịa Bình trong những


7
năm vừa qua làm cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BKS
trong CTCP trong thời gian tới.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật và thực thi có hiệu quả các quy định về tổ chức và hoạt động
của BKS trong CTCP theo Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy trong CTCP; về địa vị
pháp lý của BKS trong CTCP. Luận văn cũng nêu, phân tích, đánh giá thực trạng
các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của BKS trong CTCP.
Luận văn cũng nghiên cứu một mục rất quan trọng là thực trạng thi hành
các quy định về BKS trong CTCP tại tỉnh Hịa Bình, làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và thực thi có hiệu quả các
quy định pháp luật về BKS trong CTCP vào thời gian tới.
Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy
trong CTCP có nội dung và mục đích gì?
- Pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP đã có q trình
xây dựng và hồn thiện như thế nào?
- Các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP ở
Việt Nam bao gồm những vấn đề gì?
- Việc thi hành các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS
trong các CTCP ở tỉnh Hịa Bình có những ưu điểm, thành cơng, nhược điểm,
khiếm khuyết nào?
- Việc hồn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP ở
Việt Nam cần được thực hiện theo những nguyên tắc nào ?

- Việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP ở
Việt Nam cần được thực hiện theo phương hướng nào?
- Việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP ở
Việt Nam cần được thực hiện bằng những giải pháp cụ thể nào ?


8
- Việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của
BKS trong các CTCP ở tỉnh Hịa Bình cần được thực hiện bằng những giải pháp cụ
thể nào ?
5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được tác giả thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; đường lối của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và các học thuyết về quản trị doanh nghiệp hiện đại.
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp,
như: thu thập thơng tin, phân tích, tổng hợp, diễn giải, so sánh làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu. Tác giả còn sử dụng phương pháp tiếp cận thực tiễn để tìm hiểu sự phù
hợp giữa quy định của pháp luật hiện hành với những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc phân tích khoa học
vai trị, tác dụng của việc kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy
của CTCP. Luận văn tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định về
địa vị pháp lý của BKS trong CTCP. Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn thi hành
pháp luật về địa vị pháp lý của BKS trong CTCP ở tỉnh Hịa Bình nhằm góp phần
hồn thiện pháp luật về BKS trong CTCP, tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư
khi tham gia CTCP, những người có liên quan và cơ quan quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái qt về Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần và pháp luật
về Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát
trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam.
Chương 3: Hồn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm sốt
trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam.


9


10
Chương 1
KHÁI QT VỀ BAN KIỂM SỐT TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SỐT TRONG CƠNG TY CỔ PHẦN
Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật,
điều lệ trong công ty cổ phần
1.1.1. Bản chất của việc kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều
lệ trong công ty cổ phần
Tổ chức các doanh nghiệp dưới mô hình cơng ty có lịch sử hình thành và
phát triển tương đối lâu dài trên thế giới. Khi nền kinh tế thị trường được đề cao bởi
quy luật cạnh tranh giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh, sự tự do, sáng tạo
của các chủ thể được phát huy tối đa, trong đó có tự do lựa chọn loại hình kinh
doanh. Chính vì vậy, CTCP đã trở thành một loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới và được xem là phương thức phát triển cao nhất cho
đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh, làm cho nền kinh tế quốc
gia phát triển. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình. Quản trị cơng ty tốt là yếu tố quan trọng giúp doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa các nguồn lực. Pháp luật về quản

trị doanh nghiệp của các quốc gia cũng như những quy định của các thị trường
thường yêu cầu trong cơ cấu quản trị cơng ty phải có một cơ chế quản lý và giám
sát hiệu quả, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền lực của những người quản lý công
ty, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cổ đông,
Kiểm tra, giám sát là chức năng quan trọng của nhà quản lý, điều hành
nhằm thu thập thông tin về việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy đang diễn ra
trong nội bộ một tổ chức, trong đó có CTCP. Tính chất quan trọng của kiểm tra,
giám sát được thể hiện ở cả hai mặt: Một mặt, kiểm tra, giám sát là công cụ quan
trọng để nhà quản lý phát hiện ra những sai sót và có biện pháp điều chỉnh. Mặt
khác, thông qua việc kiểm tra, giám sát, các hoạt động sẽ được thực hiện tốt hơn và
giảm bớt được sai sót có thể nảy sinh. Trong thực tế, việc kiểm tra, giám sát có tác
động rất mạnh đến các hoạt động của một tổ chức, trong đó có hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Nếu khơng có hoạt động kiểm tra, giám sát, việc tiến


11
hành một cơng việc có thể xảy ra nhiều sai sót, khiếm khuyết, bất cập. Việc kiểm
tra, giám sát là nhằm đo lường mức độ và chất lượng hoàn thành công việc và chấn
chỉnh những khiếm khuyết, nhược điểm để đảm bảo cho việc đạt được các mục tiêu
và các kế hoạch đã được đề ra với chất lượng tốt nhất.
Đặc trưng của CTCP là số lượng cổ đông lớn và đa dạng về thành phần xã
hội. Sự biến động về số lượng cổ đông cũng diễn ra thường xuyên và dễ dàng hơn
so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa các cổ đông
thường không bền chặt. GĐ/TGĐ quản lý, điều hành hoạt động của CTCP, nhưng
cũng có thể khơng là cổ đơng của công ty. Như vậy, khả năng xảy ra rủi ro với vốn
góp của những cổ đơng khác trong CTCP là rất cao. Vấn đề đặt ra đối với sự phát
triển bền vững của CTCP là cần phải kiểm soát sự xung đột lợi ích giữa người quản
lý, điều hành công ty đang sử dụng vốn của cổ đông trong hoạt động kinh doanh và
cổ đông chủ sở hữu của nguồn vốn đó. Giám sát hoạt động của người quản lý, điều
hành là nhằm phát hiện kịp thời những hành vi lạm quyền, tư lợi để bảo vệ lợi ích

của CTCP và các cổ đơng là rất cần thiết vì mối quan tâm hàng đầu của cổ đông là
lợi tức nhận được hàng năm thông qua hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Việc giám sát người quản lý, điều hành không chỉ bảo vệ quyền lợi của cổ đơng mà
cịn bảo vệ lợi ích của những đối tác khác như người lao động, chính quyền, chủ
nợ… từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững của CTCP và nền kinh tế quốc gia.
Như vậy, bản chất của việc kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, điều
lệ, nội quy trong CTCP là hướng đến mục tiêu đảm bảo các quyết định của người
quản lý, điều hành phải đúng pháp luật, phù hợp với các nghị quyết của ĐHĐCĐ, từ
đó đảm bảo quyền lợi của cổ đơng và các đối tượng khác khơng bị xâm phạm.
1.1.2. Vai trị, chức năng của việc kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp
luật, điều lệ trong công ty cổ phần
Việc kiểm tra, giám sát là nhằm làm sáng tỏ những kết quả đã thực hiện
được, căn cứ vào đó mà nhà quản lý xác định được thứ tự ưu tiên để từ đó có tác
động điều chỉnh phù hợp đối với CTCP. Cần phải dự đốn được chiều hướng hoạt
động chính của từng bộ phận hay của toàn bộ hệ thống quản trị trong CTCP. Cần
phải phát hiện kịp thời những bộ phận có những sai sót, khiếm khuyết... để căn cứ
vào đó mà xác định trách nhiệm, để có sự điều chỉnh kịp thời quyền hạn, chức năng
của các cá nhân và cơ quan hữu quan. Việc kiểm tra, giám sát phải đáp ứng được


12
yêu cầu báo cáo cụ thể và chính xác những con số đáng tin cậy lên những nhà quản
trị cấp cao để đối chiếu với mục tiêu kế hoạch đề ra của CTCP. Việc kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật, điều lệ, nội quy trong CTCP là những căn cứ để nhà
quản trị công ty ban hành những quyết định cần thiết, kịp thời và chính xác nhằm
giảm đến mức thấp nhất tổn thất, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Ban kiểm soát trong CTCP do ĐHĐCĐ bầu ra, chịu trách nhiệm trước các
cổ đông, thay mặt ĐHĐCĐ giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ trong quản lý, điều hành
cơng ty. BKS kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và cẩn trọng trong
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong cơng tác kế tốn, tài chính của

CTCP. BKS cịn thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, tài chính hàng năm và 6
tháng của cơng ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT, trình báo cáo lên
ĐHĐCĐ thường niên. Để thực hiện được tốt nhiệm vụ trên, BKS có quyền xem xét
các sổ sách, tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành công ty bất
cứ khi nào thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của ĐHĐCĐ. Trong trường hợp BKS
phát hiện thấy sự vi phạm của thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ trong quản lý, điều hành
cơng ty thì phải thông báo ngay bằng văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi
vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của BKS là một chức năng được thực hiện bởi
các thành viên BKS nhằm cung cấp cho ĐHĐCĐ những thông tin về hoạt động
quản lý và điều hành công ty của HĐQT, GĐ/TGĐ. Kết quả của hoạt động kiểm tra,
giám sát giúp ĐHĐCĐ đánh giá hiệu quả công tác quản lý và điều hành công ty của
HĐQT, GĐ/TGĐ, đảm bảo việc điều hành tuân thủ pháp luật, điều lệ, nội quy trong
CTCP. Mục đích hoạt động kiểm tra, giám sát của BKS là nhằm đảm bảo các chủ
thể quản lý và điều hành trong CTCP tuân thủ các chuẩn mực về tính hợp lý, hợp
pháp. Hoạt động này sẽ dẫn đến hệ quả là các chủ thể quản lý và điều hành trong
CTCP phải cẩn trọng hơn trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hoạt động thẩm định của BKS đối với các báo cáo của HĐQT, của GĐ/TGĐ
là bước kiểm tra cuối cùng trước khi được ĐHĐCĐ thơng qua. Sự nhận xét khách
quan và chính xác của BKS giúp cổ đông định hướng mục tiêu đầu tư và có cái nhìn
chính xác về hiệu quả cơng tác quản lý và điều hành công ty của HĐQT, GĐ/TGĐ.
Trên cơ sở đó, các cổ đơng sẽ thể hiện sự tín nhiệm hoặc khơng tín nhiệm bộ máy
lãnh đạo công ty cũng như quyết định tiếp tục đầu tư hay thoái vốn khỏi CTCP.


13
1.1.3. Mối quan hệ giữa Ban kiểm soát với các cơ quan quản lý, điều
hành, cổ đông trong công ty cổ phần
Trong các CTCP luôn tồn tại nguy cơ xung đột về lợi ích giữa một bên là cổ
đơng - người sở hữu vốn với một bên là những người quản lý, điều hành công ty người trực tiếp quản lý sử dụng vốn. Những người quản lý điều hành công ty không

phải bao giờ cũng là cổ đông nắm giữ phần vốn góp đáng kể và vì vậy có thể họ sẽ
ưu tiên cho các quyền lợi cá nhân, quyền lợi nhóm hơn là quyền lợi của đa số cổ
đơng. Do đó pháp luật về quản trị doanh nghiệp của các quốc gia cũng như những
quy định của các thị trường niêm yết thường yêu cầu trong cơ cấu HĐQT cơng ty
phải có một cơ chế quản lý và giám sát hiệu quả, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền
lực của những người quản lý cơng ty, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của cổ đơng, nhất là những cổ đông nhỏ. Trong cơ cấu quản lý CTCP Việt Nam có
những đặc trưng riêng, bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ và bộ phận thực hiện
chức năng giám sát là BKS. Theo đó, HĐQT là cơ quan quản lý cơng ty, có tồn
quyền nhân danh cơng ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ không
thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. GĐ/TGĐ là bộ phận chịu trách nhiệm điều hành,
phát triển chiến lược kinh doanh của công ty. BKS bao gồm những thành viên do
ĐHĐCĐ bầu và có chức năng giám sát cơng tác quản lý, điều hành của bộ máy
quản trị.
Ban kiểm soát trong cấu trúc quản trị CTCP tại Việt Nam là một cơ quan
độc lập với HĐQT. Về địa vị pháp lý, BKS được các cổ đông ủy thác nhiệm vụ
giám sát, đánh giá hoạt động của HĐQT - bộ máy quản lý CTCP nhân danh cổ
đơng. Nói cách khác, thành viên BKS khơng có địa vị là người quản lý cơng ty, họ
khơng có quyền lực để ra quyết định mà chỉ có quyền kiểm tra, giám sát. Trong mơ
hình quản trị CTCP, BKS ngang cấp với HĐQT và trên cả GĐ/TGĐ. Tuy nhiên trên
thực tế, BKS cịn rất nhiều khó khăn để đạt được vị trí xứng đáng như trong thiết kế
đó. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp (2014) cũng như quy chế quản trị cơng
ty, BKS khơng có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của
bộ máy quản lý, điều hành cũng như khơng có chức năng tham gia quyết định các
vấn đề quan trọng trong CTCP. Theo quy định, BKS thực hiện chức năng kiểm tra,
giám sát hoạt động quản lý, điều hành của HĐQT và GĐ/TGĐ, thẩm định các loại
báo cáo bắt buộc trong cơng ty, kiểm tra tính trung thực trong tổ chức công tác kế


14

tốn, thống kê và lập báo cáo tài chính, thẩm định báo cáo tài chính hằng năm của
cơng ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT; xem xét sổ kế tốn và các tài
liệu khác của cơng ty bất cứ khi nào thấy cần thiết hoặc theo quyết định của
ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông (Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, BKS đảm bảo các hoạt động của
HĐQT và bộ phận điều hành là tuân thủ pháp luật, phù hợp với các nghị quyết của
ĐHĐCĐ. Ngoài ra, BKS có quyền kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ về các biện pháp
sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh
của công ty. Để thực hiện được chứng năng đó, BKS có quyền tiếp cận thông tin với
nhiều phương thức khác nhau.
Như vậy, với chức năng kiểm tra, giám sát công việc quản lý và điều hành
CTCP bởi HĐQT và GĐ/TGĐ, BKS có vị trí và hoạt động độc lập với các cơ quan
này. Bởi vậy, khác với GĐ/TGĐ, thành viên BKS được ĐHĐCĐ bầu ra. BKS chỉ chịu
trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trong quan hệ giữa BKS trong CTCP với các cơ quan quản lý nhà nước,
BKS tổ chức và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo các nội dung liên quan đến
cơng việc kiểm tra, kiểm sốt theo quy định của pháp luật hiện hành. BKS có thể
báo cáo trực tiếp với ĐHĐCĐ, các cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp phát
hiện những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ công ty của các thành viên
HĐQT, của Ban Giám đốc và của các thành viên khác trong công ty.
Trong quan hệ giữa BKS với các cổ đơng, BKS có trách nhiệm gửi báo cáo
giám sát định kỳ cho ĐHĐCĐ, báo cáo các vấn đề có liên quan đến cơng tác kiểm
sốt nếu có u cầu của ĐHĐCĐ, hoặc của cổ đông lớn (sở hữu trên 10% cổ phần
trở lên trong thời hạn liên tục 6 tháng). BKS có trách nhiệm báo cáo tại kỳ họp
ĐHĐCĐ thường niên theo quy định trong Điều lệ của công ty. BKS sẽ thực hiện
việc kiểm tra đột xuất khi nhận được u cầu từ cổ đơng hoặc nhóm cổ đông (sở
hữu trên 10% cổ phần trở lên trong thời hạn liên tục 6 tháng) và có báo cáo gửi cổ
đông phù hợp với quy định tại Điều lệ của CTCP. Xem xét sổ kế toán, ghi chép kế
toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động
của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo nghị quyết của ĐHĐCĐ hoặc theo u

cầu của cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng; và BKS phải báo cáo giải trình về những vấn
đề được u cầu kiểm tra đến cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng có u cầu.


15
Trong quan hệ giữa BKS với HĐQT, HĐQT chịu sự giám sát của BKS đối
với việc thực hiện các nhiệm vụ của mình. Trong các phiên họp HĐQT, Chủ tịch
HĐQT hoặc người triệu tập phải gửi thông báo mời họp và các tài liệu kèm theo
đến các KSV như đối với các thành viên HĐQT. Thư ký của HĐQT phải bảo đảm
rằng tồn bộ bản sao chụp các thơng tin tài chính, các thơng tin khác cung cấp cho
các thành viên HĐQT và bản sao các biên bản họp HĐQT sẽ phải được cung cấp
cho KSV vào cùng thời điểm chúng được cung cấp cho HĐQT. HĐQT được quyền
đề nghị BKS thực hiện việc kiểm tra hoặc tham gia cùng với đồn kiểm tra, kiểm
sốt của HĐQT. BKS thơng qua kết quả kiểm tra, giám sát, kiểm toán nội bộ định
kỳ hàng quý hoặc đột xuất. BKS phải kiểm tra các báo cáo tài chính hàng năm, sáu
tháng và hàng quý của GĐ/TGĐ trước khi chúng được đệ trình lên HĐQT. Khi
nhận được kết quả kiểm tra, giám sát, HĐQT sẽ xem xét để đưa ra kết luận và quyết
định xử lý cần thiết. BKS theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các kết luận và quyết
định xử lý của HĐQT. Các báo cáo tình hình kinh doanh hàng năm của công ty, báo
cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT chuẩn bị trình lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp
thường niên phải được gửi cho BKS trước ngày tổ chức đại hội 5 ngày làm việc để
thẩm định. BKS thông báo cho HĐQT và tham khảo ý kiến của HĐQT về các vấn
đề được nêu trong báo cáo của BKS trước khi gửi lên ĐHĐCĐ. Kiến nghị HĐQT
hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, giám
sát và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. KSV thực hiện việc giám sát
thông qua quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp ĐHĐCĐ, HĐQT
và các cuộc họp khác của công ty
Trong quan hệ giữa BKS với GĐ/TGĐ của CTCP, GĐ/TGĐ chịu sự kiểm
tra, giám sát của BKS đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Khi GĐ/TGĐ gửi
các báo cáo tới HĐQT, thì cũng phải đồng thời gửi cho BKS. HĐQT phải thông báo

mời BKS tham dự các cuộc họp, hội nghị chuyên đề, các buổi giao ban tại trụ sở
chính, giao ban theo khối, giao ban thường kỳ, hội nghị sơ kết, tổng kết của công ty
và các đơn vị, bộ phận trực thuộc. HĐQT cần thông báo cho BKS biết kế hoạch tổ
chức các cuộc hội thảo, các lớp đào tạo nghiệp vụ, nâng cao kiến thức nghề nghiệp
do CTCP tổ chức hoặc do các đơn vị khác tổ chức. GĐ/TGĐ chỉ đạo các đơn vị
cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu và những phương tiện phục vụ cơng tác kiểm tra,
kiểm tốn theo u cầu của BKS, của đồn kiểm tra, kiểm tốn. GĐ/TGĐ có trách


16
nhiệm thực hiện những kiến nghị của BKS hoặc báo cáo với HĐQT những điểm
không thống nhất với các kiến nghị và thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của HĐQT
đồng thời thông báo cho BKS những ý kiến chỉ đạo này. HĐQT của CTCP thông
báo ngay cho BKS khi phát hiện những yếu kém, tồn tại, các sai phạm, rủi ro, thất
thốt lớn về tài sản hoặc khi có những thay đổi trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát
nội bộ tại đơn vị mình, hoặc là các thơng tin, các quyết định, kế hoạch sản xuất kinh
doanh tác động ngay, nhạy cảm đến tâm lý các cổ đông.
Trong quan hệ giữa BKS với các đơn vị, bộ phận điều hành, tác nghiệp,
Thủ trưởng đơn vị được kiểm tra, kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật,
trước HĐQT về tính đầy đủ, trung thực, hợp lý của các thơng tin, tài liệu cung cấp
cho BKS, đoàn kiểm tra, kiểm toán. Các đơn vị của CTCP phải cung cấp đầy đủ
thông tin, tài liệu phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát theo yêu cầu của BKS.
1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần
1.2.1. Nội dung chủ yếu của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ban
kiểm soát trong công ty cổ phần
1.2.1.1. Quy định về việc Đại hội đồng cổ đơng bầu ra Ban kiểm sốt
Việc bầu thành viên BKS theo quy định tại điểm a khoản 2 và điểm b khoản
4 Điều 79 Luật Doanh nghiệp 2005 thì chỉ có cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu
trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một

tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty mới được quyền đề cử 1 hoặc một
số người làm ứng cử viên vào BKS. Trường hợp số ứng cử viên được đề cử theo
quyết định của ĐHĐCĐ thì số ứng cử viên còn lại do HĐQT, BKS và các cổ đông
khác đề cử.
Việc bầu thành viên BKS theo quy định tại điểm a khoản 2 và điểm b khoản
4 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014 thì chỉ có cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu
trên 10% tổng số cổ phần phổ thơng trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một
tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ cơng ty mới có quyền đề cử một hoặc một
số người làm ứng cử viên vào BKS. Trường hợp số ứng cử viên được đề cử thấp
hơn số ứng cử viên mà họ có quyền đề cử theo quyết định của ĐHĐCĐ, thì số ứng
cử viên cịn lại do HĐQT và các cổ đơng khác đề cử.


17
1.2.1.2. Quy định về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm sốt
Luật Cơng ty 1990 quy định CTCP chỉ cần có hai kiểm sốt viên, trong đó
phải có một người thơng thạo nghiệp vụ kế tốn để thực hiện việc kiểm tra cơng tác
kế tốn, thẩm tra báo cáo tài chính hàng năm và giám sát các hoạt động tài chính
bao gồm cả các hoạt động tài chính bất thường của công ty (Điều 141).
Luật Doanh nghiệp 1999 quy định trường hợp CTCP có trên 11 cổ đơng trở
lên bắt buộc phải thành lập một BKS có từ 3 đến 5 thành viên để thực hiện chức
năng kiểm soát nội bộ (Khoản 1, Điều 88).
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định mơ hình quản trị CTCP như sau: "Cơng
ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đơng, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc; đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đơng là cá nhân hoặc có cổ
đơng là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty phải có Ban kiểm
soát." (Điều 95). Như vậy, theo Luật doanh nghiệp 2005, cơ cấu tổ chức quản lý
CTCP được thiết kế theo một trong hai mơ hình sau: Mơ hình 1: Mơ hình (phải) có
BKS; Mơ hình 2: Mơ hình khơng có (khơng bắt buộc) BKS. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005 nếu Điều lệ công ty khơng có quy định

khác thì BKS có từ 3 đến 5 thành viên. Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 không
quy định số thành viên tối thiểu và tối đa của BKS mà là do Điều lệ công ty quy
định, nhiệm kỳ BKS là 5 năm và Luật không hạn chế nhiệm kỳ làm thành viên BKS.
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định CTCP có quyền lựa chọn tổ chức quản lý
và hoạt động theo một trong hai mơ hình: Mơ hình 1: ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS,
GĐ/TGĐ. Trường hợp CTCP có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu
dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì khơng bắt buộc phải có BKS; Mơ hình 2:
ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải
là thành viên độc lập và có BKS. Khoản 1 Điều 163 Luật Doanh nghiệp 2014 tại đã
quy định BKS có từ 3 đến 5 thành viên, nhiệm kỳ của Kiểm sốt viên khơng q 5
năm và Kiểm sốt viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Như vậy,
Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định số thành viên tối thiểu và tối đa của BKS, có sự
quy định chặt chẽ hơn về cơ cấu tổ chức của BKS so với Luật Doanh nghiệp 2005.
1.2.1.3. Quy định về hoạt động của Ban kiểm soát
Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 cho
đến Luật Doanh nghiệp 2014 không đưa ra khái niệm hoạt động của BKS mà chỉ


18
quy định quyền và nhiệm vụ/nghĩa vụ của BKS tại Điều 165, 166, 168, 171 Luật
Doanh nghiệp 2014, qua đó nêu lên các hoạt động của BKS. Căn cứ theo quy định
tại các điều luật này thì nhận thấy hoạt động của BKS bao gồm hai nội dung cơ bản
đó là: giám sát việc quản lý, điều hành công ty và thẩm định các báo cáo của
HĐQT, Giám đốc/Tổng giám đốc. Đối tượng trong hoạt động giám sát của BKS
chính là những hoạt động quản lý, điều hành công ty. Đối tượng trong hoạt động
thẩm định của BKS là tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình
kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và 6 tháng của công ty, báo cáo đánh giá
công tác quản lý của HĐQT. Các hoạt động của BKS được thiết lập thông qua
những quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết của ĐHĐCĐ. Hoạt
động của BKS trong CTCP là hoạt động do các thành viên BKS tiến hành mang tính

độc lập, khách quan. Thơng qua hoạt động giám sát sẽ hạn chế rủi ro, tiêu cực, tăng
cường hiệu quả công tác quản lý, điều hành cơng ty, đảm bảo lợi ích của cơng ty, cổ
đơng và các đối tượng khác có liên quan.
1.2.1.4. Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm sốt
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, BKS có hai chức năng chính,
đó là (i) giám sát cơng việc quản lý và điều hành công ty bởi HĐQT và Giám đốc
(khoản 1 Điều 123) và (ii) thẩm định các loại báo cáo bắt buộc của công ty (khoản 3
Điều 123). Với chức năng đó, BKS khơng phải là cơ quan quản lý của công ty, các
thành viên BKS cũng không phải là "người quản lý doanh nghiệp" (Điều 4.13). Tuy
nhiên, thành viên BKS cũng có các nghĩa vụ tương tự như người quản lý doanh
nghiệp (Điều 126 và Điều 119). Để đảm bảo BKS có thể thực hiện được chức năng đó
luật quy định chi tiết quyền được cung cấp thông tin của BKS (Điều 124). Tuy nhiên,
việc kiểm tra của BKS trên cơ sở yêu cầu của cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng quy định
tại Điều 79, khơng được cản trở hoạt động bình thường của HĐQT, khơng được gây
gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của cơng ty (Điều 116). Với chức năng nói
trên, BKS có một danh mục nhiệm vụ và quyền hạn khá dài (Điều 123, 124). Tuy
nhiên luật chỉ quy định nghĩa vụ của BKS phải thông báo ngay cho HĐQT và trao
cho BKS quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm hoặc/và phải có giải pháp khắc
phục khi phát hiện có người quản lý công ty làm trái quy định của pháp luật, điều lệ
công ty hoặc quyết định của ĐHĐCĐ trong quản lý và điều hành công ty hoặc vi
phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty. Việc yêu cầu này không tự động dẫn đến


19
hệ quả các hành vi đó bị đình chỉ thực hiện. BKS khơng có thẩm quyền can thiệp
dưới hình thức đình chỉ thực hiện các hành vi đó. Như vậy, BKS theo Luật doanh
nghiệp 2005 vẫn không phải là một cơ quan có thực quyền. Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp, văn bản do BKS ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa
cảnh báo. Ngay cả khi phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý cơng ty của
HĐQT hoặc BGĐ, BKS chỉ có quyền yêu cầu các cá nhân liên quan chấm dứt hành

vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. BKS khơng có quyền sa thải người
lao động nếu họ sai phạm.
Về quyền của BKS, so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp
2014 đã quy định bổ sung quyền của BKS như sau: BKS có quyền tham gia các
cuộc họp của Hội đồng thành viên, các cuộc tham vấn và trao đổi chính thức và
khơng chính thức của cơ quan đại diện chủ sở hữu với Hội đồng thành viên; có
quyền chất vấn Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên và Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc công ty về các kế hoạch, dự án hay chương trình đầu tư phát
triển và các quyết định khác trong quản lý điều hành công ty.
1.2.1.5. Quy định về mối quan hệ giữa Ban kiểm soát với các cơ quan quản
lý, điều hành, cổ đông của công ty cổ phần
Với chức năng giám sát công việc quản lý và điều hành công ty bởi HĐQT
và GĐ/TGĐ, BKS độc lập với các cơ quan này. Mối quan hệ giữa BKS và HĐQT,
GĐ/TGĐ là mối quan hệ giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát.
Trong CTCP, ĐHĐCĐ được xem là cơ quan đại diện cho quyền lực của
những người góp vốn, là nơi phản ánh tập trung nhất quyền lực của các cổ đơng.
Với ý nghĩa đó, ĐHĐCĐ có quyền quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại của
cơng ty. ĐHĐCĐ có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên BKS; Xem xét
và xử lý các vi phạm của BKS gây thiệt hại cho công ty và cổ đơng cơng ty. BKS
báo cáo ĐHĐCĐ về tình hình hoạt động quản lý điều hành, tài chính, kinh doanh
của HĐQT, GĐ/TGĐ.
Mặc dù có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng có thể thấy, tương tự như ở
Trung Quốc, vai trò của BKS trong CTCP Việt Nam tuy quan trọng theo luật định
nhưng chưa thực chất và hiệu quả, vẫn thiên về thực hiện những quy định mang tính
hình thức và chưa bảo đảm về cơ chế và điều kiện hoạt động. Thực tiễn hoạt động
của CTCP chỉ ra rằng, do không hiểu về giá trị của BKS, ĐHĐCĐ thường ủy quyền


20
cho HĐQT, đối tượng giám sát của BKS, ban hành quy chế hoạt động của BKS, do

đó HĐQT thường tìm cách hạn chế quyền của BKS. Thành viên của BKS hầu hết là
người lao động nên rất dễ bị dao động khi HĐQT tác động, không dám yêu cầu HĐQT
hay GĐ/TGĐ cung cấp thông tin. Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 còn nửa vời
về cách thức xử lý đối với người quản lý có sai phạm. Chẳng hạn, khoản 8 Điều 160
quy định trường hợp BKS phát hiện ra sai phạm của người quản lý công ty, phải thông
báo ngay bằng văn bản với HĐQT, yêu cầu người đó chấm dứt hành vi vi phạm và có
giải pháp khắc phục hậu quả, nhưng lại không quy định các chế tài áp dụng là gì nếu
HĐQT khơng có biện pháp xử lý. Thêm vào đó, pháp luật hiện hành chỉ tập trung vào
xử phạt với các hành vi che giấu thông tin trong các CTCP niêm yết mà chưa chưa
quan tâm đến các hành vi vi phạm nguyên tắc minh bạch trong các CTCP thơng thường.
Về phía BKS, Luật cũng cần phải quy định trách nhiệm cụ thể của BKS và
kiểm sốt viên nếu khơng thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ để xảy ra sai phạm,
để ngăn chặn kịp thời các hậu quả bất lợi cho công ty. Thực tế cho thấy, khi những
người quản lý và Trưởng BKS đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì CTCP, các cổ
đơng và người có liên quan cũng phải chịu các tổn thất nặng nề. Hàng loạt các vụ
đại án liên quan các CTCP niêm yết trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng như
ACB, Ocean Bank, GP Banks và Ngân hàng TMCP Xây dựng xảy ra trong những
năm gần đây đều có chung sai phạm là kiểm sốt nội bộ yếu kém, thiếu minh bạch
trong quản lý điều hành. Các bị cáo đều là nhân sự cao cấp như Chủ tịch và các
thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ, Trưởng BKS, Kế toán trưởng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về các hành vi tham ô, lạm quyền, cố ý làm trái.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Ban kiểm sốt trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam
Hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS trong CTCP:
1) Luật Doanh nghiệp 2014
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014
(Luật số: 68/2014/QH13), có hiệu lực kể từ 01/7/2015; Luật này quy định về việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh
nghiệp, bao gồm công ty TNHH, CTCP, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân;
quy định về nhóm cơng ty. Luật Doanh nghiệp 2014 gồm 10 chương với 213 Điều,

trong đó các quy định tại Điều 163, 164, 165, 166, 167, 168, 169 quy định về BKS.


21
2) Các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp
2014 về/liên quan đến BKS trong CTCP
Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định khác hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, đó
là Nghị định 93/2015/NĐ-CP ngày 15/10/2015 về tổ chức quản lý và hoạt động của
doanh nghiệp quốc phịng, an ninh; Nghị định 81/2015/NĐ-CP ngày 18/9/2015 về
cơng bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước; Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày
14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp; Nghị định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn các nội
dung tại Điều 10, Điều 44, Điều 189 và Điều 208 của Luật Doanh nghiệp, cụ thể là
về doanh nghiệp xã hội, con dấu của doanh nghiệp, hạn chế sở hữu chéo giữa các
công ty và quản lý nhà nước với doanh nghiệp.
3) Các thông tư, chỉ thị của các bộ hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2014
và các nghị định của Chính phủ về/liên quan đến CTCP và KSV/BKS trong CTCP
Thông tư 127/2015/TT-BTC hướng dẫn cấp mã số doanh nghiệp thành lập
mới và phân công cơ quan thuế quản lý đối với doanh nghiệp.
Công văn 4211/BKHĐT-ĐKKD hướng dẫn áp dụng quy định về đăng ký
doanh nghiệp.
Việt Nam bắt đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện từ sau Đại hội
Đảng Toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với mong muốn xóa bỏ cơ chế quản lý kinh
tế theo kiểu quan liêu, bao cấp của nền kinh tế kế hoạch hóa, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần năng động và hiện đại hơn. Một chủ trương lớn của chính phủ
Việt Nam là hướng đến tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư nhân. Tìm cách
đáp ứng những nhu cầu quản lý sự phát triển mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân,
Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 đã được Quốc hội Khóa
VIII thơng qua ngày 21-12-1990. Đây là các văn bản pháp lý đầu tiên cho phép các
nhà đầu tư thành lập các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu tư nhân, bao gồm các loại
hình là: công ty TNHH, CTCP (thành lập theo Luật Công ty) và doanh nghiệp tư

nhân (thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân).
Luật Cơng ty 1990 mới chỉ định hình được khung sơ lược của cơ cấu quản
lý nội bộ CTCP gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS. Luật cũng chưa có sự phân định cụ
thể thẩm quyền và trách nhiệm của ĐHĐCĐ, HĐQT, giám đốc điều hành và BKS.
Luật Công ty 1990 quy định CTCP có số lượng thành viên tối thiểu là bảy (Điều 30).
Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường, các quy định điều chỉnh về CTCP


22
trong Luật Cơng ty 1990 khơng u cầu phải có sự tách bạch giữa HĐQT và
GĐ/TGĐ điều hành. Chủ tịch HĐQT có thể kiêm ln chức danh này. Tuy nhiên, về
chức năng của cơ quan giám sát nội bộ đã có những bước tiến lớn. Luật Cơng ty
1990 gồm có 6 chương với 46 Điều, trong đó các Điều 41, 42, 43 quy định về BKS
trong công ty. Theo Điều 41 Luật Cơng ty 1990, CTCP chỉ cần có hai KSV, trong đó
phải có một người thơng thạo nghiệp vụ kế tốn để thực hiện việc kiểm tra cơng tác
kế tốn, thẩm tra báo cáo tài chính hàng năm và giám sát các hoạt động tài chính
bao gồm cả các hoạt động tài chính bất thường của cơng ty. Mặc dù Luật Cơng ty
1990 đã phát huy tích cực vai trị của mình, góp phần quan trọng vào cơng cuộc
phát triển kinh tế đất nước, nhưng đạo luật này mới chỉ dừng lại ở việc khái quát sơ
lược về cơ cấu quản lý nội bộ CTCP gồm ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS.
Sau gần 9 năm thi hành Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999
được Quốc hội Khóa X thơng qua ngày 12-6-1999. Luật Doanh nghiệp 1999 do Quốc
hội khóa XI ban hành đã đánh dấu một bước tiến nhảy vọt trong q trình hồn thiện
khung pháp lý về quản trị doanh nghiệp ở nước ta. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền của từng cơ quan trong cơ cấu quản trị nội bộ công ty bao gồm: ĐHĐCĐ,
HĐQT, BKS và giám đốc đã được quy định tương đối rõ ràng và cụ thể. Luật Doanh
nghiệp 1999 bao gồm 10 chương với 124 Điều, trong đó các quy định tại Điều 88, 89,
90, 91 quy định về BKS trong doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 1999 quy định trường
hợp CTCP có trên 11 cổ đông trở lên bắt buộc phải thành lập một BKS có từ 3 đến 5
thành viên để thực hiện chức năng kiểm soát nội bộ (khoản 1, Điều 88). Theo Điều 69,

Luật Doanh nghiệp 1999, việc xác định CTCP có bắt buộc phải có BKS hay khơng là
(chỉ) căn cứ vào yếu tố "số lượng" cổ đông, theo đó đối với CTCP có trên 11 cổ đơng
thì phải có BKS. BKS được trao nhiều quyền hơn trong việc giám sát hoạt động kinh
doanh của công ty, thẩm định báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo ĐHĐCĐ về tình
hình hoạt động quản lý điều hành, tài chính, kinh doanh của cơng ty; thậm chí cịn
được kiến nghị các biện pháp liên quan đến quản lý điều hành cơng ty (điểm d,
khoản 2, Điều 88). Tuy vậy, tính độc lập khách quan của BKS cịn hạn chế vì BKS
phải "Thường xuyên thông báo với HĐQT về kết quả hoạt động; tham khảo ý kiến
của HĐQT trước khi trình các báo cáo, kết luận và kiến nghị lên ĐHĐCĐ" (điểm c,
khoản 2, Điều 88). Về công bố thông tin, Luật Doanh nghiệp 1999 yêu cầu HĐQT,
GĐ/TGĐ phải công bố các thông tin theo yêu cầu của BKS (Điều 89).


23
Để đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế, ngày 29-11-2005 Quốc hội Khóa
XI đã thơng qua Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời, được
sửa đổi, bổ sung vào năm 2009 là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu bức
thiết của thực tế hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. Luật Doanh nghiệp
2005, các quy định cụ thể, chi tiết và tiến gần hơn tới các chuẩn mực chung của thế
giới về quản trị CTCP. Điều 95 Luật Doanh nghiệp (2005) quy định mô hình quản
trị CTCP như sau: "Cơng ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đơng
là cá nhân hoặc có cổ đơng là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty
phải có Ban kiểm soát.". Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp 2005, cơ cấu tổ chức
quản lý CTCP được thiết kế theo một trong hai mơ hình sau:
Mơ hình 1: Mơ hình (phải) có BKS
Mơ hình 2: Mơ hình khơng có (khơng bắt buộc) BKS
Đối với mơ hình 1, việc tổ chức quản lý cơng ty có sự phân cơng, phân
nhiệm và chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm sốt. Về
mặt lý thuyết, đây là mơ hình truyền thống và điển hình của các CTCP. Đây là bộ

máy tổ chức quản lý phù hợp và hiệu quả trong trường hợp CTCP mang tính "đại
chúng", tức là có sự tham gia đông đảo của các cổ đông khác nhau. Trong những
trường hợp khác, bộ máy này sẽ trở nên cồng kềnh, khiên cưỡng. Có lẽ xuất phát từ
cách nhìn nhận đó mà Luật doanh nghiệp (2005) quy định đối với những CTCP có
trên 11 cổ đơng là cá nhân phải có BKS. Tuy nhiên, cũng theo Luật Doanh nghiệp
2005 thì cả trong trường hợp CTCP có cổ đơng là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số
cổ phần của cơng ty thì cũng bắt buộc phải có BKS. Đây là một điểm mới và khác
biệt của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999. Tuy nhiên, trong
Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 95), việc xác định tính bắt buộc phải có BKS trong
CTCP phụ thuộc vào một trong hai yếu tố sau:
Yếu tố số lượng, theo đó CTCP có trên 11 cổ đơng là cá nhân phải có BKS.
Ở đây, cũng có điểm khác với Luật Doanh nghiệp 1999, yếu tố số lượng chỉ tính đối
với cổ đông là cá nhân mà thôi.
Yếu tố sở hữu cổ phần cơng ty, theo đó CTCP có cổ đơng là tổ chức sở hữu
trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty phải có BKS. Như vậy, yếu tố sở hữu cổ phần
cơng ty trong việc bắt buộc phải có BKS chỉ đặt ra đối với cổ đông là tổ chức.


24
Trong hai yếu tố trên, thì chỉ cần CTCP có một trong hai yếu tố đó thì đã rơi
vào trường hợp bắt buộc phải có BKS mà khơng cần phải có cả hai yếu tố cùng một
lúc. Đối với yếu tố số lượng không phức tạp lắm trong việc xác định CTCP có phải
cổ đơng sáng lập BKS hay khơng, vì chỉ đơn thuần căn cứ vào số lượng các cổ đông
là cá nhân. Tuy nhiên, yếu tố sở hữu cổ phần cơng ty phức tạp hơn, một phần vì do
điều luật quy định không cụ thể. Điều luật chỉ nói "hoặc cổ đơng là tổ chức sở hữu
trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty" mà khơng nói rõ là một tổ chức hay nhiều tổ
chức trong trường hợp này. Việc điều luật chỉ nói là "cổ đơng" và khơng nói rõ là
một hay nhiều cổ đơng, do đó khơng có cơ sở để xác định là một cổ đông mà không
phải là nhiều cổ đông hoặc ngược lại. Vì vậy, ở đây có thể hiểu là một cổ đơng
trong trường hợp cơng ty chỉ có 1 cổ đơng là tổ chức (đồng thời có thêm từ 2 đến 11

hoặc nhiều hơn các cổ đông là cá nhân) và chính cổ đơng này sở hữu trên 50% tổng
số cổ phần của cơng ty, khi đó cơng ty này bắt buộc phải có BKS. Mặt khác, cũng
có thể hiểu là nếu cơng ty có nhiều cổ đơng là tổ chức và tổng số cổ phần của các cổ
đông này nắm giữ chiếm trên 50% tổng số cổ phần của cơng ty thì cũng địi hỏi
cơng ty phải lập BKS.
Luật Doanh nghiệp 2005 gồm 10 chương với 172 Điều, trong đó các quy
định tại Điều 121, 122, 123, 124, 125, 126, 127 quy định về BKS. Theo quy định tại
khoản 1, Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005, nếu Điều lệ cơng ty khơng có quy định
khác thì BKS có từ 3 đến 5 thành viên. Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 không
quy định số thành viên tối thiểu và tối đa của BKS mà là do Điều lệ công ty quy
định, nhiệm kỳ BKS là 5 năm và Luật không hạn chế nhiệm kỳ làm thành viên
BKS. Luật Doanh nghiệp 2005 không đưa ra khái niệm hoạt động của BKS mà chỉ
quy định quyền và nhiệm vụ/nghĩa vụ của BKS tại Điều 123, 124, 126, 128; qua đó
nêu lên các hoạt động của BKS. Căn cứ theo quy định tại các điều luật này thì nhận
thấy hoạt động của BKS bao gồm hai nội dung cơ bản là: Giám sát công việc quản
lý và điều hành công ty bởi HĐQT và Giám đốc (khoản 1, Điều 123) và thẩm định
các loại báo cáo bắt buộc của công ty (khoản 3, Điều 123). Với chức năng đó, BKS
khơng phải là cơ quan quản lý của công ty, các thành viên BKS cũng không phải là
"người quản lý doanh nghiệp" (Điều 413). Tuy nhiên, thành viên BKS cũng có các
nghĩa vụ tương tự như người quản lý doanh nghiệp (Điều 126 và Điều 119). Với
chức năng giám sát công việc quản lý và điều hành công ty bởi HĐQT và Giám


25
đốc, BKS độc lập với các cơ quan này. Bởi vậy, khác với Giám đốc, thành viên
BKS được bổ nhiệm bởi ĐHĐCĐ. BKS chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực
hiện các nhiệm vụ được giao. Mối quan hệ giữa BKS và HĐQT là mối quan hệ giữa
cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát. Để đảm bảo BKS có thể thực hiện
được chức năng đó luật quy định chi tiết quyền được cung cấp thông tin của BKS
(Điều 124). Tuy nhiên, việc kiểm tra của BKS trên cơ sở u cầu của cổ đơng hoặc

nhóm cổ đơng quy định tại Điều 79, không được cản trở hoạt động bình thường của
HĐQT, khơng được gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty
(Điều 116). BKS có vai trị độc lập và có thẩm quyền lớn hơn so với quy định
tại Luật DN 2000. BKS có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ
được giao và không bắt buộc phải tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo
cáo, kết luận và kiến nghị lên ĐHĐCĐ (khoản 9, Điều 123). Về trách nhiệm công
bố thông tin, HĐQT và các thành viên và GĐ/TGĐ có nghĩa vụ phải cung cấp thơng
tin cho BKS khi được yêu cầu. BKS được tham dự mọi cuộc họp HĐQT để trực
tiếp nắm bắt thông tin về tình hình kinh doanh của cơng ty (Điều 124). Có thể thấy
mơ hình quản trị CTCP và các quy định về tính minh bạch trong Luật DN 2005 có
nhiều điểm tương đồng với mơ hình quản trị CTCP trong Luật Công ty 2005 của
Trung Quốc.
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2014. Luật
Doanh nghiệp 2014 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định cịn phù hợp đã
và đang đi vào cuộc sống của Luật doanh nghiệp 2005, nhưng đồng thời đã sửa đổi,
bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tiếp
tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
CTCP có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mơ hình:
Mơ hình 1: ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và GĐ/TGĐ. Đây là mơ hình "pha trộn"
đã có từ Luật Doanh nghiệp 2005. Trường hợp CTCP có dưới 11 cổ đơng và các cổ
đơng là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của cơng ty thì khơng bắt buộc
phải có BKS.
Mơ hình 2: ĐHĐCĐ, HĐQT và GĐ/TGĐ. Đây là mơ hình theo cấu trúc
"một tầng". Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành viên
độc lập và có Ban kiểm tốn nội bộ trực thuộc HĐQT (Điều 134). Có thể thấy Luật
Doanh nghiệp 2014 đã tiệm cận với thông lệ quốc tế khi tạo điều kiện cho nhà đầu


×