Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

ĐỀ TÀI:TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA Ở VÙNG MIỀN NÚI LÀO CAI pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.68 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
o0o



CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2010

TÊN CÔNG TRÌNH:
“TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH
DU LỊCH VĂN HÓA
Ở VÙNG MIỀN NÚI LÀO CAI”
Thuộc nhóm ngành: XH2b






HÀ NỘI, THÁNG 7 NĂM 2010
82

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG 3
1.1. Du lịch văn hóa 3


1.1.1. Khái niệm du lịch văn hóa 3
1.1.2. Đặc điểm của du lịch văn hóa 5
1.2. Đặc điểm của vùng miền núi Lào Cai phù hợp với loại hình du lịch văn hóa 7
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên. 7
1.2.2. Đặc điểm văn hóa 10

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TẠI LÀO CAI . 15
2.1. Tình hình du lịch văn hóa tại Lào Cai 15
2.1.1 Mô hình “Du lịch lễ hội” tại Lào Cai 16
2.1.2. Mô hình du lịch “Homestay” (Du lịch cộng đồng) tại Lào Cai 23
2.2. Những khó khăn, tồn tại và tiềm năng của du lịch văn tại Lào Cai 27
2.2.1. Tiềm năng phát triển các mô hình du lịch văn hóa tại Lào Cai 27
2.2.2 Những khó khăn, tồn tại của du lịch văn hóa tại Lào Cai 31
2.3 Ảnh hưởng của du lịch văn hóa đối với tỉnh Lào Cai 39
2.3.1 Ảnh hưởng tích cực của du lịch văn hóa đối với Lào Cai 39
2.3.2 Ảnh hưởng tiêu cực của du lịch văn hóa đối với Lào Cai 43

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO LOẠI HÌNH DU LỊCH
VĂN HÓA TẠI LÀO CAI 49
3.1. Chính sách của UBND tỉnh Lào Cai về dịch vụ du lịch tại địa phương 49
3.1.1. Định hướng phát tại Lào Cai của UBND tỉnh Lào Cai nhằm phát triển dịch
vụ du lịch tại Lào Cai 49
3.1.2. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch tại Lào Cai. 50


83

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

3.2. Hướng phát triển cho loại hình du lịch văn hóa tại Lào Cai. 51

3.2.1. Du lịch làng nghề truyền thống 51
3.2.2. Du lịch lễ hội 53
3.2.3. Du lịch cộng đồng 54
3.3. Giải pháp khắc phục những khó khăn và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
loại hình du lịch văn hóa tại Lào Cai 56
3.3.1. Các giải pháp khắc phục những khó khăn 56
3.3.2. Các giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực 62

KẾT LUẬN 69

PHỤ LỤC 1: PHONG TỤC - LỄ HỘI Ở TỈNH LÀO CAI i
PHỤ LỤC 2: CÁC CHỢ VĂN HÓA Ở TỈNH LÀO CAI vii

TÀI LIỆU THAM KHẢO xii




Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nội dung hoàn chỉnh
CTDLVCN Chương Trình du lịch về cội nguồn
FEI Chương trình “Khám phá Fansipan”
MICE Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội
nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm)
SVNCKH Sinh viên nghiên cứu khoa học
TT&TT Thông tin và Truyền thông
UBND Ủy Ban Nhân Dân

VHTTDL Văn hóa – Thể thao – Du lịch



Lời mở đầu
Lào Cai là một trong những tỉnh miền núi
phía Bắc không chỉ được thiên nhiên ưu đãi
với khí hậu ôn hòa và nhiều thắng cảnh đẹp
mà còn là nơi tập trung nhiều nền văn hóa
đặc sắc của 25 dân tộc anh em. Đến với Lào
Cai, ngoài việc tham quan các danh lam
thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng, các du
khách còn có mong muốn được hòa nhập và
sống trong không khí cộng đồng của các dân
tộc vùng cao, được ăn những món ăn của
người vùng cao, được mặc những trang phục
truyền thống của các dân tộc, được nhảy
trong những giai điệu của núi rừng hay được
tham gia vào các phong tục, lễ hội độc đáo
của các dân tộc thiểu số. Họ muốn cảm nhận
sự thay đổi về văn hóa khi du lịch qua từng
thị trấn của tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên hiện nay còn thiếu các loại hình
du lịch có thể đáp ứng được mong muốn tìm
hiểu sâu về văn hóa của các dân tộc vùng
cao. Thực tế này đòi hỏi cần có một nghiên
cứu toàn diện về thực trạng của loại hình du
lịch văn hóa và những tiềm năng hiện có ở
Lào Cai để tìm ra hướng phát triển toàn diện
hơn cho loại hình du lịch này tại địa phương.

Chính vì những lý do và yêu cầu kể trên,
nhóm chúng tôi đã quyết định lựa chọn thực
hiện nghiên cứu đề tài: “Tiềm năng phát
triển loại hình du lịch văn hóa ở vùng miền
núi Lào Cai”


Đề tài nghiên cứu tập trung vào đối tượng chính là loại hình du lịch
văn hóa và tiềm năng phát triển của loại hình này ở các huyện thuộc tỉnh Lào
Cai. Việc nghiên cứu được thực hiện dựa trên hai phương pháp nghiên cứu:
một là, phương pháp phân tích tổng hợp các thông tin, số liệu trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua các nguồn báo in và Internet; hai là, phương pháp khảo
sát thực tế tại địa phương (huyện Sa Pa, Bắc Hà thuộc tỉnh Lào Cai) về các
loại hình du lịch hiện có và những tiềm năng đã được khai thác.
Đề tài được triển khai theo kết cấu gồm ba phần chính: Chương I nêu
lên những cơ sở lý thuyết về du lịch văn hóa và những đặc điểm của Lào Cai
phù hợp với việc phát triển loại hình du lịch này; Chương II tập trung đánh
giá thực trạng phát triển đồng thời nêu lên những những khó khăn tồn tại và
tiềm năng chưa được khai thác của du lịch văn hóa tại Lào Cai; Chương III
trình bày những chính sách của UBND Tỉnh Lào vào, định hướng phát triển,
các giải pháp khắc phục khó khăn và phát huy những tiềm năng phát triển du
lịch của Lào Cai.

- 3 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG


1.1. Du lịch văn hóa
1.1.1. Khái niệm Du lịch văn hóa
1.1.1.1.Du lịch
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch. Vào năm 1963, Hội nghị Liên
Hợp Quốc tế về Du lịch ở Roma đã định nghĩa “Du lịch là tổng hòa các mối quan
hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú
của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước của
họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.”
Hay định nghĩa theo Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa, Cannada tháng
06/1991 “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường
thường xuyên (nơi ở của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian
đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là
để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”. Hoặc “Du lịch
là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa
mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghĩ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”
(theo Điều 10 Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam)
Theo Bộ Văn hóa thông tin và du lịch, Tổng cục du lịch Việt Nam: “Du lịch
là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng
trong một khoảng thời gian nhất định”. Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp
dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã
hội và môi trường. Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn
nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
- 4 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

1.1.1.2. Văn hóa
Văn hóa được hiểu và sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau như để chỉ học

thức (trình độ văn hóa); lối sống (nếp sống văn hóa) trình độ phát triển của một giai
đoạn. Văn hóa còn được hiểu theo một nghĩa rộng hơn bao gồm tất cả những phong
tục, tín ngưỡng, hiện vật, lối sống… ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của khu
vực dân cư đó.
Theo các định nghĩa trên thế giới, E.B.Taylor – một nhà nhân loại phương
Tây cho rằng “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác nhau mà
con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Ở Việt Nam, tác giả
Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” đã định nghĩa: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
mội trường tự nhiên xã hội”.

1.1.1.3. Du lịch văn hóa
Hiện nay, du lịch bao gồm rất nhiều hình thức đa dạng và phong phú như du
lịch sinh thái, du lịch bền vững, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch
giáo dục, du lịch MICE (viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng),
Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm))… và du lịch văn hóa. Đối
với các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế và trong nước, cần
đẩy mạnh phát triển ngành nghề du lịch, du lịch văn hóa được coi là một trong
những sản phẩm chủ đạo. Vậy, du lịch văn hóa là gì ?
Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự
tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Những yếu tố thu hút khách du lịch đến với loại hình này chủ yếu là các bản sắc văn
hóa, nét đặc trưng khác biệt của nền văn hóa đó ví dụ như những lễ hội truyền
thống, những phong tục tín ngưỡng, tôn giáo, lối sống, lịch sử, nghệ thuật, kiến
trúc… hình thành nên nền văn hóa của người dân nơi mà khách du lịch đến thăm
- 5 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010


quan. Khách du lịch tìm đến du lịch văn hóa để thu nhập thông tin mới, tìm hiểu và
trải nghiệm những nền văn hóa khác nhau mọi nơi trên thế giới. Do vậy, du lịch văn
hóa không chỉ đơn thuần là du lịch mà còn gắn liền với các loại hình văn hóa của
địa phương nơi có hoạt động du lịch đang diễn ra.
Loại hình này hiện nay đang rất phổ biến trên thế giới và theo báo cáo gần
đây của OECD đã nhấn mạng tầm quan trọng của du lịch văn hóa trong khu vực
phát triển trên thế giới. Hiện nay, ở nước ta văn hóa truyền thống nói chung và văn
hóa dân tộc nói riêng ở các dân tộc thiểu số vùng cao đang bị phai mờ do sự du
nhập của các loại hình văn hóa ở các nước đã phát triển và hiện đại hơn vào nước ta.
Phần lớn các nơi thu hút khách du lịch văn hóa ở nước ta đều là những nơi còn khó
khăn, đói kém. Bởi thế, thu hút khách du lịch văn hóa đồng nghĩa với việc phát triển
được kinh tế, giảm thiểu đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

1.1.2. Đặc điểm của du lịch văn hóa:
Điểm đến của du lịch văn hóa thường bao gồm những di tích lịch sử, những
thành phố lớn với các cơ sở văn hóa như bảo tàng, nhà hát hoặc những vùng nông
thôn nơi trưng bày hiện vật truyền thống văn hóa của cộng đồng dân cư như các lễ
hội, các nghi thức thể hiện lối sống, giá trị và văn hóa của họ.
Các điểm đến bao gồm các di tích lịch sử, thành phố hiện đại, công viên, các
câu lạc bộ, các hệ sinh thái ven biển, hải đảo và đất liền, các kỳ quan trên thế giới
để khám phá nên văn hóa nơi đó. Hàng nghìn du khách trên thế giới thường xuyên
tham gia vào các chuyến du lịch mỗi năm để đi tham quan các địa điểm như thế
này.
Một trong những điểm đến thu hút khá nhiều khách du lịch là khu vực sinh
sống văn hóa của người dân nơi khách du lịch có thể trải nghiệm được cuộc sống
sinh hoạt bình thường của người dân địa phương, so sánh với với cuộc sống của
chính vùng dân cư nơi khách du lịch sinh sống.
- 6 -


Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

Di sản văn hóa bao gồm hai loại chính là di sản văn hóa vật thể và di sản
văn hóa phi vật thể. Theo điều 4 của Luật di sản văn hoá sửa đổi bổ sung, “Di sản
văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm
di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”
(2)
.
“Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hoá liên quan, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức khác”
(1)
,
Đặc trưng cơ bản của du lịch văn hóa: du lịch văn hóa gắn liền với các
họat động du lịch và hoạt động văn hóa
- Tính đa dạng: du lịch văn hóa với chất lượng cao được tạo nên bởi sự đa
dạng trong đối tượng phục vụ, mục đích phục vụ hay điểm đến của du lịch văn hóa
như các cảnh quan thiên nhiên, kỳ quan thế giới, các di tích lịch sử - văn hóa cho
đến các lễ hội truyền thống, các phong tục tập quán lâu đời, các loại hình văn hóa
nghệ thuật dân gian mang đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, cần kể đến các cơ sở
vật chất và các dịch vụ kèm theo.
- Tính đa thành phần: không hề có một giới hạn nào cho những đối tượng
liên quan đến du lịch văn hóa. Du khách tham gia vào du lịch văn hóa, các tổ chức
Nhà nước và tư nhân, các doanh nhân trong và ngoài nuớc đầu tư, hoạt động trong
lĩnh vực du lịch, những nhân viên, hướng dẫn viên du lịch, cộng đồng địa phương
đều rất đa dạng, gồm nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào các hoạt động du lịch văn hóa. Vì vậy, tính đa thành phần còn
bao hàm trong đó cả tính xã hội hóa cao.

- Tính đa mục tiêu: Du lịch văn hóa mang lại lợi ích nhiều mặt như bảo tồn
các tài nguyên thiên nhiên, môi trường, di tích lịch sử – văn hóa, duy trì và phát
triển văn hóa phi vật thể, nâng cao chất lượng phục vụ du khách, nâng cao chất
lượng đời sống của người phục vụ du lịch, mở rộng học hỏi và giao lưu văn hóa,
kinh tế, nâng cao ý thức trách nhiệm cho cộng đồng.
- 7 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

- Tính liên vùng: Du lịch văn hóa nâng cao ý thức của du khách về văn hóa,
thẩm mỹ,…Vì vậy nên có sự liên kết giữa các cơ sở du lịch, các vùng văn hóa với
nhau trong việc hoạch định các tuyến, điểm du lịch văn hóa phục vụ cho du khách.
- Tính mùa vụ: đối với bầt kỳ loại hình du lịch nào cũng có đặc trưng này, đối
với du lịch nói chung thể hiện ở số lượng du khách thường tập trung rất đông ở
những tuyến,điểm du lịch văn hóa vào những ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ
đông (du khách nước ngoài), nghỉ lễ. Du lịch văn hóa còn thể hiện riêng ở những
thời gian có những lễ hội, những sự kiện đặc biệt xảy ra như Hà Nội với sự kiện
1000 năm Thăng Long; đền Hùng vào những ngày giỗ Tổ.

1.2. Đặc điểm của vùng miền núi Lào Cai phù hợp với loại hình du lịch
văn hóa
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên.
Vị trí địa lý: Lào Cai là một tỉnh mới thành lập từ năm 1991 vùng cao biên
giới giáp với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc với 203km đường biên giới, nằm chính
giữa khu vực Đông Bắc và Tây bắc Việt Nam, cách Hà Nội 296 km đường sắt và
345 km đường bộ. Do đó, Lào Cai hiện nay thuận lợi về mặt giao thông – một trong
những điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch. Riêng đối với đường
thủy, do Sông Hồng – một tuyến giao thông huyết mạch nối từ Vân Nam, Trung
Quốc chạy qua Lào Cao tới vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ nên thuận lợi rất lớn
của địa hình Lào Cai khi con sông Hồng chảy qua có ý nghĩa lớn về mọi mặt kinh

tế, chính trị, văn hóa và quân sự. Hơn thế nữa, con sông này còn góp phần quan
trọng tạo nên sắc thái văn hóa cho Lào Cai. Sông Hồng là con đường chuyên chở
văn hóa Đông Sơn qua trạm trung chuyển Lào Cai lên Vân Nam, là cửa ngõ giao
lưu văn hóa du mục. Tuyến giao thông huyết mạch này cũng khiến Lào Cai sớm trở
thành một trung tâm giao lưu văn hóa. Một khối lượng lớn các hiện vật Đông Sơn
thời kỳ trước Công Nguyên được tìm thấy ở Lào Cai như các loại trống đồng (gồm
31 chiếc với các loại như trồng đồng truyền thống, trống đồng lưng choãi), rìu lưỡi
- 8 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

xén, mũi lao Đông Sơn, các loại bát bằng bạc, đĩa thủy tinh, những dụng cụ mà
được coi là sản phẩm của cư dân du mục vùng Trung Á đã chứng minh Lào Cai là
một trung tâm chính trị - xã hội lớn, cửa ngõ giao lưu văn hóa du mục với văn hóa
Điền ở Vân Nam, Trung Quốc và một số nền văn hóa vùng thảo nguyên Trung Á đã
du mục vào Lào Cai.
Địa hình Lào Cai khá phức tạp với hai dãy núi chính là Hoàng Liên Sơn và
Con vui cùng có hướng Tây Bắc – Đông Nam tạo nên các vùng đất thấp và trung
bình cùng với nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng tạo ra các vùng khí hậu khác
nhau. Vùng núi cao Lào Cai với các dân tộc miền núi có những văn hóa dân tộc khá
đặc biệt như tục thờ mía của người Giáy, lẽ vượt biển của người Tày càng đa dạng
hơn hơn cho văn hóa ở vùng miền này.
Thiên nhiên Lào Cai cũng tạo nên các thắng cảnh đẹp như khu Hàm Rồng -
một “tiểu Thạch Lâm” ở Sa Pa có bãi đá cổ hàng vạn năm với hàng trăm phiến đá
muôn hình muôn vẻ. Nổi bật nhất ở Lào Cai là đỉnh Phăng – Xi – Păng cao 3143m
so với mặt nước biển, Rả Giàng Phìng cao 3090m với cánh đồng Mường Thanh một
trong 4 cánh đồng lớn nhất vùng Tây Bắc (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc)
gắn liền với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp của nhân dân ta.
Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai - Cam

Đường - Bảo Thắng - Bảo Yên và phần phía đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ
cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng), địa hình ít
hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng ruộng nước ruộng, là địa bàn
thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.
Khí hậu ở đây là khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do đặc điểm địa hình nằm
sâu trong lục địa, chi phối bởi nhiều dãy núi cao nên diễn biết thời tiết khá đa dạng
và khác biệt theo không gian, thời gian, phân theo đai cao, có vùng nhiệt đới, có
vùng mang tính chất Á Nhiệt đới. Nhiệt độ đặc biệt vùng Sapa rất đa dạng, trong
cùng một ngày nhiệt độ có thể lên cao sau đó xuống thấp. Có những lúc, vùng sapa
có nhiệt độ dưới 0
0
C và có tuyết rơi. Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa rõ rệt: mùa
- 9 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10 trong khi đó mùa khô
lại kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa ở mức độ trung bình từ
1.400mm đến 1.700mm, dẫn đến hệ thống động, thực vật cũng phong phú gồm
nhiều loại khác nhau.
Dân tộc: Lào Cai có 27 dân tộc anh em sinh sống. Dân tộc kinh có 194.666
người, dân tộc H’Mông có 122.825 người, dân tộc Tày có 82.516 người, dân tộc
Dao có 72.543 người, dân tộc Thái có 51.061 người, dân tộc Giáy có 24.360 người,
dân tộc Nùng có 23.156 người, dân tộc Phù Lá có 6.763 người, dân tộc Hà Nhì có
3.099 người, dân tộc Lào có 2.134 ngưòi, dân tộc Kháng có 1.691 người, dân tộc
LaHa có 1.572 người, dân tộc Mường 1263 người, dân tộc Bố Y có 1.148 người,
dân tộc Hoa có 770 người , dân tộc La Chí có 446 người , và 11 dân tộc có số dân ít
dưới 70 người như các dân tộc Sán Chay, Sán Dìu, Khmer, Lô Lô, Kà Doong, Pa
Cô , Ê Đê, Giẻ Triêng , Gia Rai, Chăm, Kà Tu.
Lào Cai có số dân tộc chiếm 50% tổng số dân tộc toàn quốc nên đặc điểm

nổi bật trong văn hóa các dân tộc Lào Cai là văn hoá đa dân tộc, giàu bản sắc. Ở
vùng thấp, người Tày, Thái, Giáy, Nùng, khai khẩn các thung lũng ven sông, ven
suối, sáng tạo truyền thống văn hoá lúa nước. Ở rẻo giữa, người Kháng, La Ha, Phù
Lá tạo nên văn hoá nương rẫy với nhiều tri thức bản địa phù hợp với kinh tế đồi
rừng. Ở vùng cao, người H’Mông, Hà Nhì, Dao khai khẩn các sườn núi thành ruộng
bậc thang bắc lên trời hùng vĩ. Tính đa dạng, phong phú của văn hoá thể hiện cả ở
văn hoá vật thể và phi vật thể.
Cùng với sự đa dạng dân tộc là sự đa dạng trong các yếu tố văn hóa ở Lào
Cai, có tới ba trông bốn hệ ngôn ngữ lớn nhất của Việt Nam có mặt ở Lào Cai: Ngữ
hệ Nam Á có các tộc người Kinh, Mường, Kháng, H’Mông, Dao, La Chí, La ha;
ngữ hệ Hán – Tạng có các tộc người: Hoa (Xạ Phang), Hà nhì, Phù Há; ngữ hệ Thái
có nhiều tộc người như Tày (cả nhóm Pa Dí), Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Bố Y.
Lào Cai đã trờ thành điểm hội lưu văn hoá tộc người vùng văn hoá Việt Bắc mà cả
dân tộc Tày Nùng được coi là cư dân đa số thì ở Lào Cai người Tày cũng chiếm một
tỷ lệ lớn (13,36%) dân số Lào Cai.
- 10 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

Tất cả các đặc điểm tự nhiên kể trên đã cùng nhau tạo nên sự đa dạng, phong
phú và độc đáo cho văn hoá Lào Cai. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi để phát
triển loại hình du lịch văn hóa tại khu vực này.

1.2.2. Đặc điểm văn hóa
Tỉnh Lào Cai có 86.290 hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá; 1.017 làng, bản,
tổ dân phố văn hoá; 1.163 cơ quan, đơn vị, trường học văn hoá; 19% dân số toàn
tỉnh thường xuyên luyện tập thể thao; 100% số trường học đảm bảo chương trình
giáo dục thể chất. Khách du lịch đến Lào Cai đạt 700.451 lượt người, vượt 8% kế
hoạch, doanh thu đạt: 513,422 tỷ đồng (tăng 18,3% so cùng kỳ).
Với sự đa dạng trong dân tộc đã tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của Lào

Cai. Lào Cai là một tỉnh đa dân tộc, đa văn hóa. Văn hóa của Lào Cai bao gồm cả
văn hóa vật thể và phi vật thể.
1.2.2.1.Văn hóa vật thể của Lào Cai
Với các hiện vật được tìm thấy như trống đồng, bát đĩa, sản phẩm của dân du
mục (đã được đề cập ở trên) đã cho thấy yếu tố văn hóa vùng Lào Cai khá đa dạng
và phong phú. Lào Cai còn phát hiện ra nhiều đồ gốm cổ bên cạnh đồ của Lý, Trần,
gốm Chu Đậu còn tìm thấy gốm thời nhà Minh, nhà Thanh bên Trung Quốc và rõ
ràng nhất là các dấu tích kiến trúc đan xen giữa Việt Nam và Trung Quốc ở một số
di tích đình chùa còn lại đến ngày nay. Các dân tộc Lào Cai đã sáng tạo, lưu giữ
hàng trăm di tích lịch sử văn hoá. Nổi bật là các di tích về khu trạm khắc đá cổ, với
các hình khắc về bản đồ, chữ viết, hình người có niên đại cách ngày nay hàng nghìn
năm ở thung lũng Mường Hoa (Sa Pa).
Di tích thờ ông Hoàng Bảy một vị tướng có công bảo vệ biên giới thời Hậu
Lê được tôn thờ là “Thần vệ Quốc”, di tích Đền Thượng - thờ Quốc công tiết chế
Trần Hưng Đạo được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng với niên hiệu Chính Hoà
(1680-1705), di tích chiến thắng Phố Ràng đặc biệt Lào Cai còn có hệ thống các
hang động kỳ ảo trở thành các danh thắng tuyệt đẹp, thu hút đông đảo khách du lịch
- 11 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

tham quan như động Thuỷ Tiên (Bát Xát), động Tả Phời (Cam Đường), hang Tiên-
Trung Đô (Bắc Hà), động Xuân Quang (Bảo Thắng)
Người dân tộc chủ yếu sống trên nhà sàn nhưng vì sự đa dạng cũng như hội
nhập ở Lào Cai nên nhà cửa ở đây được chia làm ba loại hình nhà chính: nhà nền
đất của các dân tộc Kinh, H’Mông, Hoa, người Hà Nhì ; nhà nửa sàn nửa đất của
các dân tộc Dao (nhóm Dao đỏ ); nhà sàn (người Tày, Thái ) với các kiểu nhà sàn
mái tròn của người Thái đen hoặc nhà sàn tường trình (tên một loại nhà sàn) của
người Tày, Bắc Hà. Về mùa đông, cho dù trời rét xuống độ âm, trong nhà đồng bào
vẫn ấm. Còn về mùa hè, nếu nắng nóng đến 37-38oC, ngồi trong nhà đồng bào vẫn

mát mẻ. Bên trong nhà của người Hà Nhì, đồng bào còn làm thêm một bức tường
phụ cũng bằng đất nện chạy song song với tường chính ở cách cửa ra vào khoảng
1,5 m. Sau bức tường phụ này là bếp và giường ngủ của người làm chủ gia đình.
Nhà của người Hà Nhì đa số là hình vuông, khác với nhà hình chữ nhật của người
Mông. Trước khi làm nhà trình tường, các gia đình người Mông phải xem ngày giờ
tốt, chọn miếng đất lành bằng phẳng, rộng cỡ 40 - 50 m2, rồi mổ gà nấu xôi cúng tế,
cầu mong cho ngôi nhà mình sắp làm sẽ bền vững, thọ tới trăm năm.


Nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Lào Cai
Họa tiết trang trí trên trang phục
Trang phục của người dân tộc ở Lào Cai luôn sặc sỡ sắc màu, phong phú về
chủng loại. Mỗi dân tộc lại có một kiểu trang phục đặc trưng riêng cho dân tộc
mình. Trang phục người Hmông hoa, Hmông xanh, Hmông đen, Hmông trắng cũng
có kiểu cách, màu sắc khác hẳn nhau. Phụ nữ Hmông ở các huyện khác mặc váy
- 12 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

nhưng phụ nữ Hmông ở Sa Pa lại mặc quần cộc. Đặc biệt là người Tày, người Tày ở
Văn Bàn, Bảo Yên mặc áo ngắn, váy ngắn, còn người Tày ở Bắc Hà lại mặc áo dài
và quần dài. Dụng cụ chủ yếu hình thành nên bộ trang phục là chiếc khung dệt, vật
cần thiết trong mỗi gia đình người Dao. Chỉ với hai thoi dệt chính, phụ; người phụ
nữ Dao có biệt tài dệt được vải trắng lẫn vải màu.Một bộ trang phục hoàn chỉnh của
người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu. Các
loại trang phục khác nhau được thể hiện rõ nhất trong các phiên chợ vùng Lào Cai.
Đặc biệt, do vị trí Lào Cai rất quan trọng nên nhân dân đã rước đức thánh
Trần, người anh hùng dân tộc thờ ở đền Thượng, xây dựng đền thờ Mẫu ngay ở
vùng ven sông Hồng, giáp biên giới. Đền thờ Trần Hưng Đạo và thờ Mẫu Liễu
Hạnh trấn ải ở biên cương thực sự trở thành những cột mốc văn hoá bên cạnh cột

mốc địa giới, nhằm khẳng định chủ quyền thiêng liêng của người dân Việt Nam về
mặt văn hoá.
1.2.2.2.Văn hóa phi vật thể của Lào Cai
Lễ hội của các dân tộc ở đây rất đặc sắc, in đậm nhiều yếu tố tín ngưỡng cổ.
Tuy nhiên không còn mang nặng sự lạc hậu như ngày xưa. Lễ hội diễn ra trong
những tháng đầu xuân và chủ yếu trong phạm vi một làng. Tuy nhiên ở Mường
Hoa, một số lễ hội có phạm vi mở rộng cả một vùng, một mường xưa. Người Mông
có lễ ''Nào Sồng'' (ăn thề đầu năm) được tổ chức vào ngày thìn tháng giêng tại khu
rừng cấm của cả làng. Sau khi cúng thần, mọi người trong làng đều bàn bạc xây
dựng hương ước. Một năm người Mông có tới l1 lễ, trong đó có lễ ''Tu su'' cúng
rồng xanh rất hấp dẫn. Lễ ''Nhặn Sồng'' của người Dao tổ chức vào ngày mùng một
hoặc mùng hai tết với tổng hợp các loại hình nghệ thuật dân gian, đó là: nghệ thuật
múa nhảy đan xen với nghệ thuật âm nhạc (các bài thiên binh, hành quân, trừ tà ),
nghệ thuật ngôn từ kể về sự tích của dòng họ Bàn, Triệu, Đặng , kể về công lao tổ
tiên, về sự tích một số thần thánh trong miếu vạn thần của người Dao.
Trong số lễ hội của của các dân tộc ở Sa Pa, lễ hội ''Gioóng boọc'' của người
Giáy có quy mô lớn, thu hút hàng nghìn người Giáy, Mông, Dao ở thung lũng
Mường Hoa tham gia. Người Xá Phó ở Nậm Sang lại tổ chức lễ hội ''quét làng'' vào
- 13 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

ngày 2/2 âm lịch với nhiều nghi thức nhằm trừ tà, cầu an. Hiện nay, quy mô lễ hội
truyền thống của các dân tộc càng được mở rộng để thu hút được nhiều khách du
lịch.

Tiết mục văn nghệ của bà con dân tộc Xa Phó (xã Nậm Sài) biểu
diễn trên khu du lịch Hàm Rồng.
Người H’mông ăn tết trước một tháng theo lịch cổ truyền của đồng bào.
Trong tôn giáo, bên cạnh tôn giáo tín ngưỡng bản địa (thờ cúng tổ tiên, thần bản

mệnh…) chiếm địa vị quan trọng, còn xuất hiện một số tôn giáo mới du nhập. Các
tín ngưỡng dân gian đã chịu sự ảnh hưởng của tam giáo, ảnh hưởng này diễn ra khá
mạnh ở vùng người Dao, Tày, Nùng, Giáy… nhưng nổi bật nhất là người Dao.
Trong miếu Vạn Thần của người Dao, bên cạnh Ngọc Hoàng còn có Phật là quân
sư. Dưới trướng của Ngọc Hoàng và Phật còn có Thuỷ Nguyên, Linh Bảo, Đạo
Đức. Dưới các vị này còn có Tam Thanh, Tam Bảo, Tam Nguyên. Sự đan xen giữa
Tam giáo với tín ngưỡng dân gian đã tạo ra diện mạo mới trong đời sống tinh thần
của các dân tộc Lào Cai.
Trong văn học dân gian, mỗi dân tộc có đầy đủ cả hệ thống các loại hình
văn học từ truyện thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn đến dân ca, truyện thơ. Mỗi một loại
hình văn học dân gian lại có các tiểu loại hình phong phú. Các truyền thuyết chống
- 14 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

ngoại xâm, bảo vệ biên giới xuất hiện khá phong phú, nhất là truyền thuyết, truyện
cổ kể về sự tích các địa danh như Đản Khao, Pha Long, Trung Đô, Nghĩa Đô, núi
Đại Thần… Trong tín ngưỡng dân gian, các danh tướng chống giặc ngoại xâm,
chống giặc cướp trở thành những thần linh được nhân dân tôn thờ như Cầm Ngọc
Hánh, Hoàng Dìn Thùng, Giàng Chỉn Hùng v.v Ông Hoàng Bảy - một viên tướng
bảo vệ biên cương đã đi vào điện thần Đạo Mẫu, được thờ trang trọng ở đền Bảo
Hà.
Có thể nhắc đến các nghệ thuật dân
gian đặc biệt là nghệ thuật âm nhạc. Chỉ tính
riêng nhạc khí Lào Cai đã có đủ 10 họ với 10
chi khác nhau. Chi nhạc cụ dây động có hưn
mạy (Thái), đao (Kháng)…Nhạc cụ hơi có chi
nhạc hơi hình vòm như cặm rưng (Khơ Mú,
Kháng), ống khảo của người Mường, pí thiu,
phí khui của người Thái… Chi nhạc cụ hơi

lưỡi gà có khá nhiều, gồm cả loại đơn giản
nhất như pí phương (Thái) bằng ống dạ đến
loại có cấu tạo phức tạp như khèn H’Mông,
khèn Thái, chi nhạc cụ hơi chỉ dùng hơi thổi
như tù và, kèn đồng H’ Mông… Nhạc cụ họ màng rung có nhiều loại trống bịt da
của các dân tộc… Nhạc cụ các dân tộc ở Lào Cai còn bao gồm cả loại chuyên dùng
hoà tấu với chuyên dùng độc tấu v.v
Lào Cai có hơn ba mươi điệu múa khác nhau. Có những điệu múa dùng trong
sinh hoạt (như xoè vòng, xoè chiêng) nhưng cũng có điệu múa chỉ dùng trong các
nghi lễ tôn giáo hoặc lễ hội. Chỉ riêng nhóm Dao họ (Dao quần trắng) ở Bảo Thắng,
Bảo Yên đã có 7 điệu múa khác nhau (như múa kiếm, múa sạp, múa chuông, múa
khăn, múa mặt nạ, múa trống, múa gà). Nghệ thuật âm nhạc cũng rất đa dạng.
Như vậy, tính đa dạng văn hóa tộc người đã tạo thành nguồn lực cho Lào
Cai phát triển, tạo thành sắc thái riêng của Lào Cai.

Khèn của người H’Mông
- 15 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
TẠI LÀO CAI

2.1. Tình hình du lịch văn hóa tại Lào Cai
Thời gian qua, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lào Cai triển khai đề án
“Phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 - 2010” đã thu hút nhiều nguồn vốn đầu
tư xây dựng hạ tầng, nâng cấp, phân vùng các tuyến, điểm du lịch và hình thành mô
hình nhà du lịch, các quầy thông tin thu hút khách du lịch.
Qua 3 năm thực hiện đề án, các sản phẩm du lịch được đưa vào khai thác

như: du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm qua các tour du lịch trên sông Chảy, chinh
phục Phan Xi Păng, khám phá những hang động, thác nước… Du lịch văn hoá cộng
đồng chủ yếu tại Sa Pa, Bắc Hà là mô hình làng văn hoá du lịch, chợ văn hoá vùng
cao, du lịch tâm linh (thăm đền, chùa, lễ hội ), du lịch mua sắm hàng hoá thông
qua hệ thống các siêu thị, chợ và các làng nghề, câu lạc bộ thổ cẩm, các quầy hàng
lưu niệm…
Các tour, tuyến du lịch được phân vùng khai thác đã phát huy tác dụng, thúc
đẩy sự hợp tác tạo nguồn lực để du lịch Lào Cai phát triển, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xoá đói, giảm nghèo bền vững. Cùng với du lịch sinh thái, du lịch mạo
hiểm, du lịch cộng đồng và du lịch văn hóa cũng đang phát triển mạnh. Theo số liệu
thống kê từ Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Lào Cai, hiện toàn tỉnh có 2.500
người lao động trực tiếp và 5.000 người lao động gián tiếp trong ngành du lịch,
riêng Sa Pa có 240 hướng dẫn viên, trong đó 95 hướng dẫn viên là người dân tộc
thiểu số.
Trong giai đoạn 2006 -2009, các hoạt động đã thu hút 28 doanh nghiệp tài
trợ cho các sự kiện lớn gắn với du lịch hàng tỷ đồng. Đặc biệt là việc hình thành
Trung tâm thông tin du lịch Lào Cai và kiện toàn hệ thống các nhà du lịch, quầy
- 16 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

thông tin ga Lào Cai phát huy hiệu quả, hướng công tác xúc tiến du lịch vào chuyên
nghiệp và đẩy mạnh kêu gọi các dự án đầu tư.
Thực hiện đề án “Phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006 - 2010” đã đem lại
hiệu quả rõ rệt trong thực hiện thu hút khách du lịch, tăng doanh thu, tạo việc làm
cho người lao động. Từ kết quả đó, Lào Cai phấn đấu đến năm 2010 đón 730.000
lượt khách du lịch, doanh thu đạt 470 tỷ đồng là điều có thể trở thành hiện thực.

2.1.1 Mô hình “Du lịch lễ hội” tại Lào Cai:
Mô hình “Du lịch lễ hội” đang phát triển ở Lào Cai trong những năm gần đây

được phát triển dựa trên những lễ hội rất độc đáo và phong phú của đồng bào các
dân tộc thiểu số nơi đây. Bên cạnh rất nhiều những nét văn hóa độc đáo khác thì
những lễ hội truyền thống của các dân tộc chính là điểm nhấn quan trọng đã và đang
thu hút một lượng lớn khách du lịch yêu thích tìm hiểu văn hóa đến với Lào Cai.
Với mục đích gắn việc bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch bền vững góp
phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân, từ trước năm 2005, ngành Văn hóa - Thông
tin (nay là Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Lào Cai đã tổ chức khảo sát, lập hồ sơ
khoa học cho 51 làng và toàn bộ 25 dân tộc, thống kê các di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể để lập danh sách các di sản văn hóa đặc biệt có giá trị cần bảo tồn và
khai thác.
Đến nay, theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai, Lào Cai đã sưu tầm
8.128 hiện vật thể khối và hình ảnh; trong đó có nhiều cổ vật giá trị như: trống
đồng, vò gốm, gương đồng. Sưu tầm 200 mẫu hoa văn cổ của người Mông, 1.264
hiện vật dân tộc học của 13 nhóm, ngành dân tộc ở Lào Cai cùng 92 phong tục tập
quán của các nhóm, ngành dân tộc, 50 lễ-tết-hội; 1800 bài dân ca, 40 bản nhạc khí,
85 điệu múa, 2000 địa danh và 838 cuốn sách cổ của các dân tộc Dao, Giáy, Bố Y.
Kho tàng văn hóa dân gian của 7 nhóm, ngành dân tộc có số dân ít, nguy cơ mai
một di sản văn hóa cao như: Bố Y, Kháng, La Ha, ngành Mông Xanh, Xá Phó, La
Chí, Pa Dí, được sưu tầm có hệ thống.
- 17 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

Trên cơ sở, khảo sát, thống kê, Lào Cai lựa chọn bảo tồn một số di sản văn
hóa tiêu biểu phục vụ nghiên cứu và phát triển du lịch. Đến nay, tỉnh đã bảo tồn và
xây dựng được một số làng văn hóa du lịch và chợ văn hóa vùng cao phục vụ phát
triển du lịch và bảo tồn văn hóa. Đồng thời, trong những năm gần đây, Lào Cai đã
có sự kết hợp hiệu quả với các tỉnh thành lân cận nhiều tiềm năng về du lịch như
Yên Bái và Phú Thọ với nhiều chương trình du lịch hấp dẫn với không gian mở
rộng trên địa bàn các tỉnh cùng những thắng cảnh, những di tích và những nét văn

hóa độc đáo riêng của từng tỉnh.

2.1.1.1. “Du lịch lễ hội” tại một số bản làng tại Lào Cai:
Nổi bật lên trong số những bản làng văn hóa đã được bảo tồn và xây dựng
hiện nay ở Lào Cai là làng thổ cẩm Tà Phìn và làng chạm khắc bạc Cát Cát. Với
những nét độc đáo về con người, cảnh vật, những sản phẩm truyền thống và những
lễ hội độc đáo, nơi đây đang hứa hẹn là chốn dừng chân yêu thích của phần lớn du
khách khi đến với mô hình du lịch văn hóa tại Lào Cai.
Làng thổ cẩm Tả Phìn thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị
trấn Sa Pa khoảng 17km về hướng đông. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi
đẹp, nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các lễ hội như tết nhảy của
người Dao đỏ, lễ ăn thề, lễ mừng nhà mới của đồng bào các dân tộc, Tả Phìn còn
được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến bởi ở đó có một làng nghề thổ
cẩm nổi tiếng.
Những năm gần đây, du lịch Sa Pa phát triển đã làm xuất hiện một thị trường
mua bán các đồ thổ cẩm với nhu cầu mua sắm của khách du lịch ngày càng tăng
cao. Sản phẩm của làng dệt thổ cẩm Tả Phìn đủ kiểu dáng và sắc màu trông thật bắt
mắt. Một vài sản phẩm chính có thể kể đến là: những chiếc ba lô, túi khoác du lịch,
những chiếc khăn, túi xách tay, ví đựng tiền, các tấm áo choàng thổ cẩm với đủ
sắc màu rực rỡ.

- 18 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010


Đồng bào bày bán các sản phẩm thổ cẩm
Những sản phẩm này hoàn toàn do bàn tay khéo léo tài hoa của các chị em
người Mông, người Dao tạo nên với những đường nét hoa văn được thể hiện qua
các họa tiết cây cỏ hoa lá, chim muông thật tinh tế luôn gây được sự tò mò hiếu kỳ

và đặc biệt hấp dẫn các khách du lịch đến với Sa Pa. Các sản phẩm hàng hoá làm ra
ở đây được "xuất khẩu tại chỗ" bằng cách bán trực tiếp cho khách hoặc có thể bán
gián tiếp cho du khách thông qua việc cung cấp các mặt hàng này cho các quầy thổ
cẩm ở chợ văn hoá dân tộc, các cửa hàng bán đồ lưu niệm của thị trấn Sa Pa.
Thổ cẩm là một món quà không thể thiếu được cho du khách mỗi lần đặt
chân tới Sa Pa. Ðối với người dân tộc vùng cao, thổ cẩm không chỉ để dùng trang
trí, tô điểm thêm cho sắc đẹp mà còn là vật kỷ niệm của tình yêu hay trong ngày
cưới của các đôi trai gái. Những đường nét hoa văn thể hiện trên tấm thổ cẩm là
những tinh hoa của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc làm cho thổ cẩm Sa Pa
không thể hoà lẫn được với bất cứ sản phẩm thổ cẩm của vùng nào.
Làng chạm khắc bạc Cát Cát thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung
tâm thị trấn Sa Pa 2 km. Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, còn lưu giữ
nhiều nghề thủ công truyền thống như trồng bông, lanh, dệt vải và chế tác đồ trang
sức. Đặc biệt nơi đây còn giữ được khá nhiều phong tục độc đáo mà ở các vùng
khác không có, hoặc không còn tồn tại nguyên gốc.
- 19 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

Qua những khung dệt, người Mông tạo nên những tấm thổ cẩm nhiều màu
sắc và hoa văn mô phỏng cây, lá, hoa, muông thú Gắn liền với công đoạn dệt vải
bông, vải lanh là khâu nhuộm và in thêu hoa văn, phổ biến là kỹ thuật nhuộm chàm,
nhuộm nước tro thảo mộc và cây lá rừng. Vải nhuộm xong được đánh bóng bằng
cách lăn vải với khúc gỗ tròn trên phiến đá phẳng có bôi sáp ong.
Ở làng Cát Cát, nghề chế tác đồ trang sức bằng bạc, đồng đã có từ lâu đời
và tạo ra những sản phẩm tinh xảo. Quy trình chế tác bạc gồm nhiều công đoạn.
Trước hết, họ cho bạc vào nồi trên bễ lò đun đến khi nóng chảy thì rót vào máng.
Chờ khi bạc nguội lấy ra dùng búa đập, rèn sao cho thanh bạc có kích cỡ to, nhỏ,
dài, ngắn, vuông, tam giác, tròn, dẹt hay kéo thành sợi. Tiếp đó, họ giũa cho thật
nhẵn và nếu cần trang trí thì dùng đinh để chạm khắc, tạo hoa văn nổi hoặc chìm rồi

mới uốn hình sản phẩm. Cuối cùng là bước đánh nhẵn, làm trắng và bóng. Sản
phẩm chạm bạc ở Cát Cát rất phong phú, tinh xảo nhất là đồ trang sức của phụ nữ
như: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn

Đường xuống bản Cát Cát
Một điều hấp dẫn du khách khi đến Cát Cát là người Mông ở đây còn giữ
được khá nhiều phong tục tập quán độc đáo, chẳng hạn như tục kéo vợ. Khi người
con trai quen biết và đem lòng yêu một cô gái, anh ta sẽ tổ chức làm cỗ mời bạn bè
và nhờ các bạn lập kế hoạch "kéo" cô gái về nhà một cách bất ngờ, giữ cô trong ba
ngày. Sau đó, nếu cô gái đồng ý làm vợ chàng trai thì sẽ tiến hành lễ cưới chính
- 20 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

thức. Nếu cô từ chối thì họ cùng nhau uống bát rượu kết bạn và mọi việc trở lại bình
thường như chưa có điều gì xảy ra. Lễ cưới người Mông ở Cát Cát thường được tổ
chức từ 2 đến 7 ngày.
Kiến trúc nhà cửa người Mông làng Cát Cát còn nhiều nét cổ: nhà ba gian
lợp ván gỗ pơmu. Bộ khung nhà có vì kèo ba cột ngang. Các cột đều được kê trên
phiến đá tròn hoặc vuông. Vách được lợp bằng gỗ xẻ, có 3 cửa ra vào: cửa chính ở
gian giữa, 2 cửa phụ ở hai đầu nhà. Cửa chính luôn được đóng kín, chỉ mở khi có
việc lớn như đám cưới, tang ma, cúng ma vào dịp lễ Tết. Trong nhà có không gian
thờ, sàn gác lương thực dự trữ, nơi ngủ, bếp và nơi tiếp khách.


Nhà người H’Mông
(hình ảnh mô phỏng tại Bảo tàng Dân tộc học)
Làng Cát Cát được hình thành từ giữa thế kỷ 19, các hộ gia đình cư trú theo
phương thức mật tập: dựa vào sườn núi và quây quần bên nhau, các nóc nhà cách
nhau chừng vài chục mét. Họ trồng lúa trên ruộng bậc thang, trồng ngô trên núi theo

phương pháp canh tác thủ công, sản lượng thấp. Phần lớn nhà cửa đều đơn giản, chỉ
có một cái bàn, cái giường và bếp lửa nấu nướng
- 21 -

Du lịch văn hóa tại vùng miền núi Lào Cai SVNCKH 2010

2.1.1.2. Mô hình “Du lịch lễ hội” liên kết cùng các tỉnh Yên
Bái và Phú Thọ
Mô hình “Du lịch lễ hội” ở Lào Cai trong hai năm qua khi mở rộng kết hợp
với các tỉnh bạn đã được tổ chức ngày càng hấp dẫn hơn với tên gọi “Chương Trình
du lịch về cội nguồn” (CTDLVCN). Trong mấy năm thực hiện CTDLVCN đã tạo
chuyển biến trong nhận thức của lãnh đạo cả 3 tỉnh cũng như của các doanh nghiệp,
người dân tự nguyện tham gia, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch. Hình thức du
lịch cộng đồng đã phát triển mạnh ở cả Yên Bái, Lào Cai và Phú Thọ, góp phần xóa
đói giảm nghèo cho các địa phương này. Chương trình được tổ chức với nhiều hoạt
động sôi động, phong phú, nhận thức về giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống phục vụ phát triển du lịch được nâng lên.
Chương trình đã kết nối xây dựng được nhiều tour, tuyến du lịch trên địa bàn
3 tỉnh như “Cội nguồn đất Tổ”, “Đất ngọc Lục Yên”, “Cội nguồn Tây Bắc”, “Sắc
màu vùng cao”. Ba tỉnh đã tập trung tu bổ hệ thống di tích lịch sử; sửa chữa, nâng
cấp, xây dựng mới các cơ sở lưu trú, khách sạn, tăng cường các dịch vụ bổ trợ; phát
triển sản xuất các sản phẩm, hàng lưu niệm để phục vụ nhu cầu du khách… Nhiều
sản phẩm du lịch đặc trưng đã được tạo ra thu hút du khách đến tham quan, thưởng
lãm, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống của nhân dân… Năm 2009, đã có trên 1,3 triệu lượt du khách đến tham quan,
du lịch tại 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, tăng 6% so với năm 2008; tổng doanh
thu từ du lịch đạt 1.128 tỷ đồng, tăng 8,3% (theo Sở VHTTDL lịch tỉnh Lào Cai)
CTDLVCN của 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ là một trong 10 sự kiện
du lịch các tỉnh Tây Bắc hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các
hoạt động văn hóa - du lịch chủ yếu tại Lào Cai năm 2010 bao gồm:

 Lễ hội đền Thượng – TP. Lào Cai (tháng 2)
 Lễ hội trên mây Sapa (cuối tháng 4, đầu tháng 5),
 Hội đua ngựa truyền thống Bắc Hà mở rộng (tháng 6),
 Giải leo núi chinh phục Fanxipan và Ngày hội Du lịch TP. Lào Cai
(tháng 10)

×