Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích k12 rừng xà nu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.48 KB, 19 trang )

TÀI LIỆU NGỮ VĂN
NGỮ VĂN KHỐI 12
TÊN BÀI HỌC: RỪNG XÀ NU

MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Học sinh nêu được vài nét về tác giả, tác phẩm
2. Học sinh phân tích được hình tượng cây Xà Nu
3. Học sinh phân tích được hình tượng con người anh hùng
- Hình tượng T – nú
- Hình tượng cụ Mết
- Hình tượng của nhân vật Mai và bé Heng
4. Nhận xét nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành

PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học sinh cần đọc thật kĩ phần Tiểu dẫn và từng tác phẩm trong Sách giáo khoa.
2. Tự tóm tắt các tác phẩm và đoạn trích được học.
3. Đọc hướng dẫn tự học và nội dung kiến thức trong tài liệu.

1


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. TÁC GIẢ
- Nguyễn Trung Thành tên khai sinh là Nguyên Ngọc
- Sáng tác của Nguyên Ngọc mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tập trung viết về hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đề cập những vấn đề trọng đại của vận
mệnh dân tộc và nhân dân, xây dựng những tính cách anh hùng
2. TÁC PHẨM
a. Hồn cảnh sáng tác: Được viết vào năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu đưa quân vào miền
Nam nước ta. Sau này được tuyển in trong tập truyện và kí “Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc” (1969)


b. Nhan đề: Ba thanh âm “Rừng xà nu” trầm hùng, khoẻ khoắn, mạnh mẽ như giọng điệu sử
thi quen thuộc của mảnh đất Tây Nguyên đại ngàn. Nhan đề đã gợi mở những cánh rừng xà nu
đại ngàn vừa có sức khái quát câu chuyện của làng Xô Man dưới tầm đại bác của đồn giặc, vừa
mở rộng hình ảnh của đồng bào Tây Nguyên, của người dân miền Nam, của nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Nhan đề đã vượt thoát khỏi cánh rừng xà nu để
hướng tới cuộc chiến đấu chung của nhân dân ta với đế quốc Mĩ.
c. Chủ đề: Tái hiện một giai đoạn quyết liệt của Cách mạng miền Nam trước ngày đồng khởi
năm 1960, phản ánh xung đột gay gắt giữa nhân dân và kẻ thù Mĩ – Diệm. Qua câu chuyện về
cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xôman, nhà văn muốn đi đến khẳng định cho một
chân lí lịch sử đã được già làng truyền phán bên bếp lửa, trong một đêm thiêng liêng “Chúng nó
đã cầm sung, mình phải cầm giáo mác” -> Ca ngợi ý chí kiên cường bất khuất và sức mạnh của
nhân dân Tây Nguyên đứng lên từ đau thương để chiến đấu vì độc lập dân tộc
d. Cốt truyệ :
+ Rừng Xà Nu như đan quyệt hai cuộc đời: Cuộc đời của Tnú (cái riêng) và cuộc đời của dân
làng Xô Man (cái chung) -> Cái chung đã nâng đỡ cái riêng lên tầm vóc cộng đồng, cịn cái
2


riêng là cuộc đời Tnú chỉ là biểu hiện cụ thể của cái chung mang dáng dấp cuộc chiến đấu của
nhân dân làng Xơ Man
+ Sự hồ quyện hai mảng sáng – tối, tạo ra kết cấu từ bóng tối đau thương khi nhân dân ta chưa
cầm vũ khí đến ánh sáng chiến đấu và chiến thắng, khi nhân dân ta đã biết dùng bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng
+ Mở ra mối xung đột quyết liệt một mất một còn giữa người dân Tây Nguyên và bè lũ Mĩ –
Nguỵ
 Xung đột mang tầm vóc lịch sử, tầm vóc cộng đồng -> tầm vóc sử thi
d. Giọng điệu: Trong mỗi tác phẩm văn xuôi giọng điệu có vai trị quan trọng để hình thành giá
trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Trong “Rừng xà nu”, giọng điệu kể chuyện chịu sự chi
phối sâu sắc của âm hưởng sử thi
+ Tác giả đã chọn một giọng kể đắc địa: giọng cụ Mết – giọng kể của một già làng để kể về câu

chuyện của cuộc đời Tnú. Mỗi lời của cụ Mết là một chân lí, một mệnh lệnh mà người nghe chỉ
có trách nhiệm thi hành. Đó là giọng quyền uy của cộng đồng
+ Để tạo khơng khí lịch sử hào hùng, nhà văn đã đặt giọng kể của cụ Mết trong một khơng gian
thiêng liêng. Ngồi xa là rừng đại ngàn mênh mơng “Bên ngồi lấm tấm một trận mưa đêm, rì
rào như gió nhẹ”, trong nhà ưng đơng đủ dân làng nín lặng, lắng nghe. Trong ánh lửa bập bùng
mở tỏ, giọng cụ mết vang trầm như lời phán truyền lịch sử “Người Strá, ai có cái tai, ai có cái
bụng thương núi, thương nước hãy lắng nghe, mà nhớ. Sau nay tau chết rồi, chúng mày phải kể
cho con cháu nghe”
+ Âm hưởng lời cụ Mết phảng phất lối kể khan “lối kể nghe quen thuộc trong những trường ca
Tây Nguyên” khiến ta có cảm giác một câu chuyện của thời hiện tại bỗng có độ lùi xa vào lịch
sử, tạo ra một “khoảng cách thiêng” để người nghe chiêm nghiệm, chiêm ngưỡng.
e. Tóm tắt: Làng Xơman của Tnú ở trong tầm đại bác của đồn giặc, hầu hết đạn đại bác đều rơi
vào cánh rừng xà nu gần con nước lớn. Nhưng cũng như người dân làng Xôman, rừng xà nu
3


kiên cường đứng vững, cây nọ đổ cây kia lại mọc lên thay thế. Nhân việc Tnú được cấp trên cho
phép về thăm làng, nghỉ lại nhà cụ Mết, ông cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú.
Những năm ấy, giặc Mĩ và tay sai khủng bố dã man phong trào CM. Dân làng Xơman vẫn tìm
cách nuôi giấu cán bộ. Tnú là cậu bé cha mẹ mất sớm, được dân làng đùm bọc. Tnú và Mai là
hai trong số các thiếu niên hăng hái vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú được anh Quyết dìu dắt,
làm liên lạc rồi bị địch bắt. Sau khi thoát tù, Tnú về làng, lấy Mai, cùng dân làng chuẩn bị vũ
khí chiến đấu. Được tin này, bọn giặc về làng bắt Tnú. Khơng tìm được anh, bọn chúng bắt và
tra tấn Mai và con trai Tnú. Trước cảnh vợ con bị tra tấn, Tnú từ chỗ nấp xông ra nhưng anh
không cứu được vợ con, lại bị giặc bắt và tẩm dầu xà nu, đốt cháy mười đầu ngón tay. Khi mười
ngón tay Tnú bốc cháy thành mười ngọn đuốc cũng là lúc dân làng Xôman dưới sự chỉ huy của
cụ Mết xông lên diệt giặc. Sau sự kiện đó, Tnú đi tham gia lực lượng vũ trang, dùng đơi bàn tay
đau thương của mình chiến đấu chống lại kẻ thù
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG XÀ NU

a. Nghĩa tả thực
- Chẳng phải ngẫu nhiên Nguyễn Trung Thành đặt tên cho tác phẩm của mình là “Rừng Xà
Nu”. Mở đầu truyện, ta bắt gặp bóng dáng của rừng xà nu bạt ngàn. Xuyên suốt tác phẩm,
truyện về rừng xà nu lồng trong truyện của người Xôman đánh Mĩ và khi kết lại tác phẩm vẫn là
màu xanh của xà nu chạy đến chân trời. Đây là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Xà nu đã trở
thành nét đẹp đặc trưng của thiên nhiên Tây Nguyên: sinh sôi, phát triển, mạnh mẽ ở mảnh đất
này. Với hình ảnh “xà nu trập trùng nối tiếp nhau trong một màu xanh bất tận” nó tạo nên một
bức tranh thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ đầy sức sống. Cũng với hình ảnh này, nhà văn đã tạo
trong tác phẩm của mình một khơng gian xác định cụ thể, một bối cảnh thiên nhiên thực cho
làng Xô Man và đem lại một khơng khí đầy chất thơ cho tác phẩm
- Trong truyện ngắn của mình, giống như khi khắc hoạ về cuộc sống con người Tây Nguyên,
Nguyễn Trung Thành đã miêu tả thiên nhiên Tây Nguyên trong hai thời điểm: trong thanh bình
4


và trong chiến tranh. Ở cuộc sống sinh hoạt đời thường, xà nu gắn bó mật thiết với con người
Tây Nguyên. Mỗi người Xô Man sinh ra và lớn lên dưới màu xanh bạt ngàn của xà nu. Đời đời
kiếp kiếp xà nu ăn sâu vào cuộc sống mỗi con người nơi đây. Truyện ngắn này, mỗi lúc lúc xà
nu lại hiện ra với một biến thể khác nhau: khi là cây xà nu, đồi xà nu , rừng xà nu ,khi lại khói
xà nu, lửa xà nu, nhựa xà nu, .., Và ở lần nào, nó cũng gắn bó mật thiết với con người. Màu
xanh của rừng xà nu “ưỡn” tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng, nhựa xà nu là đuốc
sáng, khói xà nu xơng đen bảng nứa cho những đứa trẻ như Tnú và Mai học chữ. Và đặc biêth,
dưới màu xanh của xà nu đã chứng kiến bao lời hẹn ước của chàng trai, cô gái Xô Man. Tại gốc
cây xà nu đầu làng, Mai từng nắm lấy tay của Tnu khi ấy còn lành lặn với cử chỉ vừa bối rối,
vừa ngượng ngùng yêu thương của người con gái mới lớn,…và còn nhiều, còn nhiều nữa những
kỉ niệm sâu nặng giữa xà nu và con người Tây Nguyên
- Xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của người dân Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy
sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rứa đã giấu kĩ chuẩn bị cho
cuộc nổi dậy. Và đêm đêm là người XÔ Man thức giấc dưới ánh đuốc xà nu mài vũ khí. Nó
chứng kiến nhịp sống, sinh hoạt, chiến đấu, chứng kiến những niềm vui, nỗi buồn của người

Strá. Xà nu thấp thoáng theo mỗi bước chân con người, xà nu in sâu trong tâm trí Tnu cũng như
mỗi người dân xa bản. Xà nu ẩn hiện trong từng nỗi nhớ, từng kỉ niệm của người Xô Man. Tây
Nguyên đã trở thành xứ sở của xà nu
b. Nghĩa biểu tượng
- Nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa tả thực thì xà nu mới chỉ là hình ảnh nghệ thuật mà chưa đạt tới
mức độ hình tượng. Muốn một hình ảnh nghệ thuật trở thành một hình tượng, nhà văn phải gán
cho hình ảnh đó biểu tượng hoá và Nguyễn Trung Thành đã thực hiện điều ấy vô cùng đặc sắc.
Xà nu được ông phát triển nâng cao mang ý nghĩa biểu tượng cho nỗi đau và sức sống của con
người làng Xô Man trong những năm chiến tranh
- Trong văn học Việt Nam, hình ảnh thiên nhiên được các nhà văn miêu tả theo lối tượng trưng
hố khơng phải là ít. Đó là hình ảnh của cây tre Việt Nam biểu tượng cho phẩm chất mộc mạc,
kiên cường của con người đất Việt. Hình ảnh cây dừa tượng trưng cho sức sống của đồng bằng
5


Nam Bộ, hình ảnh cây Kơnia là tượng trưng cho lịng thuỷ chung. Đến Nguyễn Trung Thành,
ơng lấy hình ảnh xà nu, loại cây của Tây Nguyên để gửi gắm những cảm nhận, hiểu biết của
mình về con người Tây Nguyên. Nhà văn sử dụng bút pháp nhân hoá khi đi vào khắc hoạ hình
tượng xà nu nên xà nu hiện lên như con người có cuộc đời và số phận
** Biểu tượng cho mất mát đau thương
- Trước hết, xà nu biểu tượng cho nỗi thương đau của con người Xô Man trong những năm
tháng chiến tranh. Dưới làn mưa bom, bão đạn, cây xà nu cũng trở thành tiêu điểm tàn phá của
quân thù “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Vậy nên xà nu
cũng chịu bao đau thương “Cả rừng xà nu hàng vạn cây khơng có cây nào khơng bị thương”.
Hình ảnh này khiến người ta liên tưởng đến nỗi đau chung của những người dân Xô Man :
người người, nhà nhà đều phải oằn mình dưới nỗi đau chiến tranh
- Từ nỗi đau chung của xà nu, Nguyễn Trung Thành miêu tả cuh thể nỗi đau của từng thế hệ xà
nu. Đó là sự mất mát của thế hệ xà nu trưởng thành “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long
lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyệt thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh

so sánh nhựa xà nu như cục máu lớn đem lại một nỗi xót xa, nhức nhối và ám ảnh trong lịng
người đọc
- Đó cịn là những đau thương của thế hệ xà nu non được Nguyễn Trung Thành miêu tả mang
giá trị tố cáo đậm nét “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt
làm đôi. Ở những cây đó, nhựa cịn trong chất dầu cịn lỗng, vết thương không lành được, cứ
loét mãi ra, năm mười hơm thì cây chết” Hình ảnh thế hệ xà nu non bị đạn đại bác giết hại đem
lại nỗi nhức nhối trong lòng người, liên tưởng đến thế hệ bé thơ ở Tây Nguyên như con của Tnú
và Mai bị giặc sát hại trong chiến tranh. Đối diện với vết thương của xà nu mà ta có cảm giác
như đang đối diện với nỗi đau của con người. Xà nu như vạch trần tố cáo tội ác của đế quốc Mĩ
với con người Tây Nguyên
** Biểu tượng cho sức sống bất diệt của con người
6


- Đến với mảnh đất Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành ln bị ám ảnh bởi hình ảnh Xà nu “Ấy
là một loài cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa
nhựa. Tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi, mênh mông tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống
đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận”. Có lẽ vì vậy, mà nhà văn đã khắc
họa vẻ đẹp của cây xà nu biểu tượng cho sức sống, cho tinh thần chịu đựng dẻo dai mà không
một bom đạn nào có thể tàn phá nổi
- Xà nu biểu tượng cho sức sống truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác “Trong rừng it có loại
cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con
mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên, lao thẳng lên bầu trời” Đó là sức sống của xà nu
hay cũng là sức sống của các thế hệ con người Tây Nguyên nối tiếp từ đời này sang đời khác.
Từ thế hệ của bà Nham, cụ Mết đến thế hệ của anh Xút, Tnú, Mai và tiếp theo là thế hệ của Dít,
của bé Heng”
- Sức sống xà nu khơng bom đạn nào tàn phá nổi. Trong cảm hứng lãng mạn, nhà văn say sưa
miêu tả hình ảnh xà nu vươn lên với ý chí mạnh mẽ khát khao đón ánh sáng môi trường chẳng
khác nào con người Tây Nguyên hướng tới tự do “Cũng ít lồi cây nào ham ánh sáng mặt trời
như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao

xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ
màng” Đây là những dòng văn nên thơ nhất miêu tả sức sống thiên nhiên và con người Tây
Ngun trong thiên truyện
- Xà nu cịn tượng trưng có nghị lực của con người Tây Nguyên vượt lên mọi mất mát, đau
thương để khẳng định ý chí của mình: “cũng có những cây vượt lên cao hơn được đầu người,
cành lá xum xuê, như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thuong của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt
lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã” . Hình ảnh xù nu mang bóng dáng của thế hệ Tnú. Họ
vượt lên bi kịch cá nhân, trưởng thành trong phong trào đấu tranh của dân tộc Strá. Họ trở thành
những con người trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng thay cho anh Quyết. Họ cường
trường, vạm vỡ, mang trong mình sức sống mạnh mẽ dẻo dai của đất rừng Tây Nguyên
7


- Sức sống xà nu là bất diệt, giống như những con người nơi đây. Xà nu kiêu hãnh trước thử
thách, gian nguy. Đoạn văn miêu tả hình ảnh xà nu được kết lại bằng những hình ảnh kì vĩ, tự
hào “Cứ thế hai, ba năm nay rừng xà nu vươn tấm ngực lớn của mình ra che chửo cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng khơng thấy gì khác ngồi những đồi xà
nu nối tiếp tới chân trời” Dòng nhựa xà nu tiếp nối từ đời này sang đời khác cũng như ý chí đấu
tranh của con người nơi đây được gìn giữ và phát triển. Sự tiếp nối đó đã trở thành chân lí sống
của con người trên mảnh đất này. Nguyễn Trung Thành gửi găm triết lí ấy qua câu nói của cụ
Mết “Khơng cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết
được hết rừng xà nu này”
- Miêu tả sức sống của xà nu, Nguyễn Trung Thành còn sử dụng những hình ảnh, từ ngữ tập
trung tơ đậm sức sống của thiên nhiên nơi này : sinh sôi, nảy nở, xanh rờn, hình nhọn mũi tên
lao thẳng, phóng lên rất nhanh, xum xuê thân thể cường tráng, vượt lên, thay thế, ưỡn tấm ngực
lớn,..Những lời văn ngập tràn cảm hứng lãng mạn, tự hào, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người Tây Nguyên. Miêu tả khí thế quật cường của người dân Xô Man, Nguyễn Trung
Thành cũng dùng hình ảnh xà nu để khắc họa “Suốt đêm nghe cả rừng xà nu ào ào rung động và
lửa cháy khắp rừng” . Linh hồn con người hòa hợp vào núi rừng Tây Nguyên ngàn đời ngợi ca

sức sống của dải đất cao ngun xa xơi này
c. Hình tượng khẳng định thành công nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành
- Xà nu hình tượng khẳng định thành cơng trong bút pháp nghệ thuật của nhà văn. Bằng nghệ
thuật nhân hóa, bằng thủ pháp ứng chiếu giữa cảnh thiên nhiên và con người, giữa hình tượng
cây xà nu và con người Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã tạo nên hình tượng xà nu, mang
dáng dấp của con người. Nó tồn tại như một nhân vật trong tác phẩm: xà nu quy chiếu, song
song với hình tượng con người, xà nu làm sáng rõ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.
- Xà nu còn được miêu tả qua bút pháp từ bao quát (rừng xà nu, đồi xà nu) kết hợp với miêu tả
cụ thể (từng thế hệ cây xà nu). Vẻ đẹp của cộng đồng xà nu chính là vẻ đẹp của dân tộc Việt
Nam. Để bạn đọc có thể hình dung sức sống bất diệt, vẻ đẹp nên thơ hùng vĩ, trữ tình của xà nu,
Nguyễn Trung Thành đã phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả : những cây
8


xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa, ngời xanh dưới ánh nắng. Giọng văn đầy
biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ
trữ tình hấp dẫn, lơi cuốn bạn đọc. Tất cả phác họa vẻ đẹp hùng vĩ của bức tranh thiên nhiên nơi
cao nguyên xa xôi này
- Xà nu được nhà văn xây dưng với những câu văn thiết tha, gợi cảm “cả rừng xà nu hàng vạn
cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt…” , “…ở những cây đó nhựa
cịn trong, chất dầu cịn lỗng…năm mười hơm thì cây chết”. Những lời văn để lại ấn tượng xúc
động trong lịng người đọc
- Hình tượng xà nu còn được xây dựng trên những liên tưởng mới. Xà nu nối tiếp chạy dài đến
tận chân trời giống như câu chuyện về con người Xô Man vẫn tiếp nối tưởng không bao giờ dứt.
Tưởng như hôm nay rồi ngày mai nữa, rừng xà nu vẫn rì rào kể cho núi rừng nghe về câu
chuyện dân làng Xô man giết giặc và người dân Strá vẫn đời này sang đời khác truyền lại cho
con cháu về những kì tích anh hùng của dân tộc mình. Đấy là giọng điệu hùng tráng, mạnh mẽ
đậm chất sử thi mà Nguyễn Trung Thành tạo nên trong tác phẩm của mình
KẾT LUẬN: Đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”, nhiều người cho rằng nếu bỏ đi hình tượng này
thì tác phẩm sẽ khơng cịn đặc sắc. Xà nu cho thấy tình yêu thiên nhiên và những am hiểu của

Nguyễn Trung Thành về mảnh đất nơi này. Xà nu khẳng định thành công trong sáng tạo của nhà
văn. Hình tượng này giúp cho tác phẩm của ông cô đọng, giàu ý nghĩa khái quát và có sức suy
tưởng. Xà nu mãi mãi là hình tượng nghệ thuật bất hủ của Nguyễn Trung Thành và để lại ấn
tượng khó quên trong tâm hồn người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm
2. VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG TNU
Tnú là nhân vật chính là linh hồn tác phẩm, là đại diện cho Tây Nguyên bất khuất, kiên
cường,là nhân vật đậm màu sắc sử thi với những đặc điểm hoà quyện theo kiểu nhân vật tư
tưởng “Kiểu nhân vật gửi gắm thơng điệp chính của tác phẩm, vừa tồn tại như một cá thể sinh
động, vừa gửi gắm một chân lí,một tư tưởng của nhà văn” . Những tư tưởng thấm đẫm tính hình
tượng, hài hồ với chất trữ tình khiến nhân vật hiện lên sắc nét mà không khô khan. Cuộc đời
9


của Tnú khơng được quan sát bằng cái nhìn đời tư mà mang theo cả cuộc đời của làng Xôman,
mở rộng ra là hình ảnh của nhân dân Tây Nguyên , nhân dân miền Nam, cũng là hìnha nrh của
cả một dân tộc đau thương và tranh đấu
2.1 Tnú là nhân vật mang theo một khối đau thương và căm hờn mà những người dân
làng Xôman phải chịu đựng dưới gót giày của Mĩ Nguỵ.
a. Cuộc đời Tnú mang một nỗi đau riêng: Tnú là đứa trẻ mồ côi, lớn lên trong sự cưu mang
của dân làng Xô Man
b. Hơn hết, Tnú mang trong mình mối thù chung như tất cả những người dân làng Xô
Man
- Từ nhỏ, khi tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú đã bị địch bắt và tra tấn rất dã man
- Khi lớn lên, Tnú có một mối tình thơ mộng với Mai – cơ gái Strá xinh đẹp, dịu dàng.
Vậy mà Tnú vẫn không bảo vệ được hạnh phúc, được gia đình mình khi Tnú tận mắt
phải chứng kiến cảnh vợ con mình bị giặc tra tấn
- Bản thân anh từng hai lần bị giặc bắt, hai lần trải qua những cực hình tra tấn của quân
thù, lưng anh dọc ngang vết dao chém, bàn tay anh bị tra tấn đến thành thương tậ “hai
bàn tay mỗi ngón chỉ cịn hai đốt”
- Nỗi đau của Tnú đâu phải là nỗi đau của riêng anh. Nó hội tụ trong đó những mất mát,

những đau thương của người dân Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam nói
chung trong cảnh đời nơ lệ. Bao gia đình n ấm đã tan nát, bao lứa đơi bị chia lìa, bao
con người bị Mĩ giết hại tàn bạo, thảm khốc (Cuộc đời anh Xút bà Nham và bị kịch
của Tnú nữa)
 Nỗi đau của cuộc đời Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống mất tự do của con
người Việt Nam dưới gót giày quân xâm lược. Số phận của anh gắn với số phận cộng
đồng, dân tộc – một biểu hiện của tính sử thi
2.2Tnú mang phẩm chất tiêu biểu đặc trưng cho người dân Tây Nguyên
10


a. Sự dũng cảm, gan góc và sức mạnh phi thường của người anh hùng
- Từ bé, Tnú đã là một cậu bé gan góc, mạnh mẽ, đầy cá tính. Trong cái nhìn của nhà
văn Nguyễn Trung Thành, Tnú là một cậu bé anh hùng. Hình ảnh Tnú trong những
năm tháng ấy khơng có một tuổi thơ bình thường như bao nhiêu đứa trẻ khác, khơng
gắn với những trị chơi tuổi nhỏ mà tuổi thơ của cậu đã nhập vào chuyện chiến đấu, trở
thành một tuổi thơ phi thường. Tnú đã sớm là một cậu bé can trường, lanh lợi, trung
thành với Cách mạng. Mặc dù biết giặc sẽ chặt đầu những người vào rừng nuôi cán bộ,
biết câu chuyện kẻ thù “giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” nhưng Tnú và
Mia vẫn hăng hái xung phong vào rừng giúp cán bộ “cũng có bữa cả hai đứa cùng đi.
Có hơm chúng ở lại ln vào rừng ban đêm”. Ngay từ nhỏ Tnú đã là một cậu bé rất
khôn ngoan, thường vượt qua suối ở chỗ nước chảy siết, tức là ở nơi kẻ địch không
ngờ nhất “Qua sơng nó khơng thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi
ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình” Ngay cả
đến việc bình thường như học chữ, Tnú cũng được miêu tả thật phi thường. Để trị tội
quên chữ của chính mình, Tnú đã liều lĩnh lất đá đập vào đầu đến mức chảy máu ròng
ròng
- Đến khi trưởng thành, Tnú càng có đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng. Tnú
tham gia cách mạng, trở thành lực lượng nịng cốt của làng Xơ Man, trở thành một
chiến sĩ dũng cảm, kiên cường. Tnú có một mối tình đẹp như trăng rằm soi trên đỉnh

Ngọc Linh với Mai – một cô gái Strá xinh đẹp, chỉ tiếc rằng vợ con anh đã bị giặc tra
tấn dã man. Tnú uất hận nhảy xổ vào giữa bọn lính để cứu vợ con “bằng hai bàn tay
không”. Sự xuất hiện dũng mãnh và sức mạnh khủng khiếp cùng một khối hận thù lớn
của chàng trai Tây Nguyên với tiếng thét dữ dội, với hai con mắt là “hai cục lửa lớn”
đã khiến bọn giặc có đầy đủ vũ khí phải kinh hoàng, sợ hãi. Những hành động của Tnú
nhanh,mạnh tới mức “anh khơng biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm
ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà Ưng”. Cả khi bị giặc đốt cháy 10 đầu
ngón tay, Tnú đau đớn như điên như dại “răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không
11


kêu lên…” Thái độ ấy của Tnú bởi anh Quyết đã nói rằng “Người Cộng sản khơng
thèm kêu van”
 Sự dũng cảm,gan góc và sức mạnh phi thường của bậc anh hùng của Tnú mang theo
cả chút hoang dại của núi rừng. Cũng vì vậy mà câu chuyện của cụ Mết kể về anh
phảng phất hình bóng của những anh hùng dũng sĩ trong những câu chuyện thần thoại,
truyền thueyét và trong những bản trường ca hùng tráng của Tây Nguyên xưa
b. Yêu nước, cảm thù giặc, khát khao lí tưởng và trung thành với Cách mạng
- Khác với A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ”, khác với anh Núp trong tiểu thuyết “Đất
nước đứng lên”, những nhân vật phải trải qua một quá trình tìm đường giác ngộ , đi
đến với kháng chiến thì Tnú đã đi làm cách mạng một cách tự nhiên, “chóng vánh” và
tất yếu. Bởi lẽ, bản tính của cậu bé Tnú thời ấu thơ đã mang theo sự gan góc, can
trường của những con người nơi núi rừng Tây Nguyên. Bên cạnh đó, ngay từ nhỏ Tnú
đã được sống cạnh cán bộ cách mạng
- Thưở bé, khi được anh Quyết dạy chữ, cậu bé Tnú đã có ý thức lớn lên tiếp bước anh
“làm cán bộ giỏi” để lãnh đạo nhân dân đánh giặc. Tnú học “cái chữ”, đi tiếp tế, đi liên
lạc và bảo vệ cho cán bộ theo lời dạy của già làng “Cán bộ là Đảng, Đảng cịn thì núi
nước này cịn” => Tnú có lí tưởng và sự trung thành với Đảng, với Cách mạng gắn
liền với tình yêu quê hương, rừng núi, buôn làng
- Sau sự kiện nổi dậy của dân làng Xô Man, sau bi kịch đau đớn của gia đình, chàng trai

Tây Nguyên ấy đã thực sự trở thành một chiến sĩ kiên cường, trở thành “anh hùng lực
lượng” trong cái nhìn cảm phục và ngưỡng mộ của dân làng. Tnú trực tiếp cầm súng
chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù và góp phần giải phóng quê hương, dân làng, vợ con
c. Giàu tình yêu thương và tình nghĩa
- Hố ra chàng trai anh hùng, gan góc, can trường của núi rừng kia không chỉ toả sáng
sức mạnh của ý chí, của một khối hận thù lớn. Trong lừoi kể trầmhùng của Nguyễn
12


Trung Thành, trong niềm xúc động của cụ Mết, trong sự cảm phục và ngưỡng vọng
của dân làng, chàng trai Tây Nguyên ấy vẫn hiện lên với một đời tư giản dị, bình
thường, thắm thiết những xúc cảm và tâm trạng
- Ở Tnú hiện hữu một tình yêu trọn vẹn với quê hương, dân làng. Nỗi xúc động của Tnú
khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng, nỗi nhứo day dứt trong anh suốt 3 năm và âm
thanh tiếng chày bình dị, thân yêu của người Strá, của mẹ, của vợ, của niềm mong
ngóng khi được gặp lại dân làng, khi nhớ mặt, nhớ tên từng người làng dù đã 3 năm xa
cách
- Đó là cảm giác của một đứa con mồ côi khi được trở về với gia đình của mình, là nỗi
xúc động khi để vịi nước của làng mình gội lên người mình như ngày trước. Sau 3
năm trở về, Tnú vẫn có cảm giác gần gũi về “con đường cũ…hai cái dốc đứng sững
chui qua một rừng lách rộng…của ngôi làng nhỏ của anh” Tất cả như sống dậy trong
xúc cảm bồi hồi của một người con xa quê. Con đường ấy, ngôi làng bên dịng suối ấy
như một ngơi nhà thân thuộc mà bây giờ về trong xa cách, anh rưng rưng biết bao
nhiêu.Đó là nhữung sắc thái tâm trạng của một con người gắn bó và tha thiết với bn
làng, u thương và gắn bó với cội nguồn q hương
- Chất hình tượng và trữ tình trong bút pháp miêu tả của nhà văn Nguyễn Trung Thành
giúp ta cảm phục và xót xa trước tình yêu của anh dành cho vợ con. Trong bi kịch đau
đướn 3 năm về trước, chính tình u sâu sắc với vợ con và sự đau đớn tột cùng khi
chứng kiến cảnh con mình bị tra tấn dã man đã khiến Tnú khơng cịn đủ tỉnh táo để
nhận ra sự thật. Anh không thể cứu vợ con khi chỉ có “hai bàn tay khơng”. Anh đã một

mình tay khơng lao vào qn giặc nhưng cũng có lẽ do Tnú khơng cứu được vợ con,
cũng khơng cứu được mình khroi sự tra tấn dã man của kẻ thù . Nhưng Tnú đã ở bên
vợ con của mình trong thời khắc họ cần anh nhất. Anh đã đem đến cho vợ con niềm an
ủi duy nhất và lớn nhất trước lúc chết. Đó là cảm giác được sẻ chia, xót thương, được
bảo vệ, chở che trong lồng ngực cường tráng, mạnh mẽ và chan chứa tình yêu thương
cùa người chồng, người cha
13


3. Ý NGHĨA CHI TIẾT ĐƠI BÀN TAY TNU
Hình ảnh đôi bàn tay Tnú lưu lại bao nhiêu đau thương và căm hờn. Đôi bàn tay mà chất chứa
cả cuộc đời
- Đấy là đơi bàn tay của ý chí học chữ khi Tnú đã tự cầm đá đập vào đầu mình cho chảy
máu. Là đơi bàn tay của cauạ bé anh hùng khi nuốt thư vào bụng để nói với giặc “ở
đây này”
- Đôi bàn tay của yêu thương. Đôi bàn tay khi thoát ngục khi trở về, gặp Mai ửo đầu
rừng, lối vào làng, hai bàn tay của chàng trai Tây Nguyên ấy đã xúc động nắm lấy tay
Mai. Mai cũng nắm chặt lấy tay anh mà ứa nước mắt khóc, khơng như một đứa trẻ nữa
mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu. Những bàn tay đã thay
lời nói yêu thương cho họ nên vợ nên chồng
- Đôi bàn tay đau đớn, căm hận. Đôi bàn tay như ôm chặt một nỗi đau, một nỗi căm hờn
lớn. Trong đêm đau thương của cuộc đời anh ba năm về trước, cũng bàn tay căm giận
và yêu thương của Tnú đã “bứt hàng chục trái vải mà khôg hay” khi phải chứng kiến
cảnh giặc tra tấn vợ và con. Để rồi khi không thể kiềm chế lao vào kẻ thù cứu vợ con,
Tnú đã bị giặc bắt trói. Chúng cuốn giẻ tẩm dầu xà nu đốt cháy hai bàn tay anh, mười
ngón tay Tnú cháy rừng rực như mười ngọn đuốc. Nhưng mười ngọn đuốc ấy đã thổi
bùng ngọn lửa căm hờn của dân làng Xô Man khiến họ ào ào lao vào nhà Ưng, giết
chết tiểu đội ác ôn của thằng Dục, giải thoát cho Tnú. Bàn tay Tnú đã được dập tắt lửa,
nhưng mỗi ngón tay đã chỉ cịn có hai đốt. Bàn tay cháy cụt đốt sẽ mãi cịn đó như
chứng tích đau đớn và căm hờn với kẻ thù tàn bạo mà Tnú sẽ mang theo suốt cuộc

đời. Bàn tay khiến sau 3 năm gặp lại, già làng vẫn không khỏi xúc động, đau đớn và
giận dữ. Nhưng cũng chính hai bàn tay cụt đốt ấy đã sáng lên một chân lí giản dị
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”

14


- Kết đọng từ đau đớn, căm giận và yêu thương, đơi bàn tay ấy đã hố thành đơi bàn tay
trả hận, đơi bàn tay của ý chí giết giặc. Hai cánh tay rộng lớn đầy sự che chở, yêu
thương của Tnú có thể ơm chặt vợ con trong những giây phút cuối cùng, những khi chỉ
có “hai bàn tay khơng” đương đầu vói kẻ thù đầy đủ súng đạn, anh vẫn khơng thể cứu
được vợ con thốt chết, khơng thể cứu chính bản thân mình khỏi những trận mưa roi
tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bởi vậy, đôi bàn tay hận thù kia mang sức mạnh của ý chí
giết giặc.
- Đúng như lời nói của già làng “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được” Sau khi từ
biệt dân làng đi bộ đội giải phóng, bàn tay của Tnú vẫn tràn đầy sức mạnh để có thể
cầm súng chiến đấu, vãn đi tìm những thằng Dục tàn bạo để trả thù. Từ sau khi chứng
kiến thằng Dục giết chết vợ con, trong tình cảm của Tnú “Chúng nó đứa nào cũng là
thằng Dục” – kẻ thù đã mang một gương mặt chung tàn bạo trong một mặt trận. Sau
này, Tnú đã dùng chính bàn tay cụt đốt của mình để bóp cổ tên chỉ huy đồn địch trong
hầm ngầm cố thủ. Chính Tnú đã dùng đèn pin soi thẳng vào mặt nó để kẻ thù có thể sẽ
nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay căm hờn
 Vậy là chỉ qua hình ảnh đơi bàn tay khi yêu thương, đau đớn, căm giận, kiên
cường, quyết liệt với một sức mạnh trả thù dữ dội của Tnú, Nguyễn Trung Thành
đã sống dậy được cả số phận, vẻ đẹp tâm hồn, tính cách cả con đường đi của con
người bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên
4. CÁC NHÂN VẬT KHÁC
4.1NHÂN VẬT CỤ MẾT: Trong tác phẩm, cụ Mết là một già làng quắc thước – là biểu tượng
thiêng liêng của sự sống. Nhà văn Nguyễn Trung Thành khi tâm sự “Ông là cội nguồn, là
Tây Nguyên, là người dẫn đường, vừa là người khích lệ động viên thế hệ trẻ. Cụ Mết hiện

lên sừng sững trong tác phẩm không hề che lấp ai tựa như một cây xà nu cổ thụ”
a. Ngoại hình : người già làng ấy được giới thiệu bằng những nét phác hoạ về vẻ ngoại hình
- “Râu dài đến ngực” , “mắt sáng”, “vết thẹo láng bóng”
15


- “Sáu mươi tuổi mà giọng nói vẫn ồ ồ”
- Đặc biệt “ngực cụ căng như một cây xà nu lớn”
 Những nét phác ấy khiến hình ảnh cụ Mết giống như một cây xà nu cổ thụ, hội tụ trọn
vẹn trong mình vẻ đẹp và sức mạnh mộc mạc, giản dỉ, hoang dã đậm chất Tây Nguyên
b. Phẩm chất: Ở người già làng ấy hội tụ và toả sáng vẻ đẹp sức mạnh và phẩm chất con
người Tây Nguyên.
- Cụ Mết như cây đại cổ thụ lớn đặt trọn một niềm tin yêu đối với cách mạng “Một lòng
đi về với Cách mạng” -> Trong tâm niệm của mình, với cụ “cán bộ là Đảng, Đảng còn
núi nước này cịn”
- Để rồi từ đó cụ có nhiều hành động và khí phách dũng cảm, cụ Mết đã dẫn dắt làng
làm cách mạng, đã bền bỉ cùng dân làng nuôi dấu cán bộ
- Đặc biệt, cụ chính là hiện thân của truyền thống. Mỗi lời cụ nói giống như một lời
hịch, một mệnh lệnh mà người nghe có “trách nhiệm” thi hành . Thực ra lời của cụ
Mết tựa như lời phán truyền của lịch sử, âm vang những đúc kết, những gửi gắm
thiêng liêng đối với dân làng, những lời khích lệ động viên khiến tất thảy những người
dân làng Xô man đều xúc động. Và âm vang mãi trong ta là câu nói ám ảnh của người
già làng ấy “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”Câu nói như kết đọng những
kinh nghiệm đúc rút được bằng một cuộc đời dài đầy nỗi đau mà chính đế quốc Mĩ đã
gieo trên mảnh đất làng Xô Man
- Cụ Mết cịn là một người vơ cùng nhân hậu. Trong tiếng cười hà hà của cụ , trong cử
chỉ của cụ khi kể về cái chết của Mai, ta nhận thấy bàn tay vụng về của người già làng
ấy đưa lên để lau những giọt nước mắt
- Giống như một cây xà nu cổ thụ, cụ Mết là hiện thân của truyền thống, là người lưu
giữ sức mạnh và vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên. Nhưng người già làng ấy không

16


phải là người cản đường thế hệ trẻ. Cụ Mết đã thắp lên ngọn lửa của lòng căm thù và ý
chí quyết chiến sục sơi với đế quốc Mĩ trong mỗi trái tim dân làng Xô Man.
 Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man, là người giữ lửa, thắp lửa, truyền lửa cho những
thế hệ sau này
4.2NHÂN VẬT MAI : Là cô gái trẻ Tây Nguyên trẻ trung, giày nghị lực thời chống Mĩ. Cũng
như biết bao dân làng Xô Man khác, dũng cảm và kiên cường đã trở thành những phẩm chất
quý báu
- Chân dung người phụ nữ can trường, gan góc. Cùng Tnú đitheo anh Quyết từ nhỏ, Mai
ln tỏ ra là một cơ học trị thông minh, sáng dạ: học “ba tháng đọc được chữ, sáng
tháng làm được toán hai con số”
- Là người bạn tri âm tri kỉ gắn bó và động viên Tnú suốt những năm tháng ở bên anh
Quyết
- Khi trưởng thành, biết những khso khắn của làng Xô Man, của cách mạng , Mai ln
chứng mình bản thân là một nữ anh hùng của Tây Ngun: Cơ gan góc trước những
lời miệt thị của bọn thằng Dục, nhất quyết không khai ra Tnú, cô can trường đấu tranh
tới hơi thở cuối cùng để bảo vệ mạng sống cho đứa con chưa đầy một tháng. Dưới
những trận mưa cây sắt của kẻ thù, Mai đã quên đi bản thân mình để bảo vệ Tnú, bảo
vệ đứa con mà cô đã gửi gắm biết bao hi vọng và yêu thương, để rồi ngã xuống trong
sự im lặng đầy đau xót của núi rừng
4.3NHÂN VẬT DÍT: Tuy nhỏ tuổi hơn Mai nhưng Dít cũng đã sớm có phẩm chất anh hùng,
gan góc, dũng cảm của người dân Tây Nguyên
- Ngay từ nhỏ, Dít đã là một cơ bé gan góc, tham gia ni giấu cán bộ, vào rừng tiếp tế
cho cụ Mết và thanh niên của làng. Trước sự đe doạ của giặc, Dút đã “im lặng với đôi
mắt mở lớn” -> đôi mắt chất chứa sự gan dạ, dũng cảm
17



- Dít cịn là một cơ gái giàu tình u thương. Cách thể hiện tình cảm của cơ lắng vào
chiều sâu. Ngày Tnú đi lực lượng, ngày Mai mất ngay cả cụ Mết cũng khơng cầm
được nước mắt, nhưng Dít “chỉ lặng lẽ chuẩn bị gạo để Tnú lên đường”
- Lớn lên, DÍt thay Tnú dẫn dắt dân làng làm cán bộ. Hình ảnh của cơ tiêu biểu cho vẻ
đẹp của những cô gái Tây Nguyên thời chiến
- Người con gái ấy tha thiết gắn bó và yêu thương dân làng. Dít cầm súng để trả thù cho
chị, cho làng Xơ Man. Chi tiết Dít được thưởng muối và chia cho dân làng mỗi người
một ít là một chi tiết gây xúc động mà chan chứa thương yêu của Dít dành cho dân
làng
4.4NHÂN VẬT BÉ HENG: Tượng trưng cho tương lai cách mạng đầy sự hứa hẹn mà Nguyễn
Trung Thành đã phải thốt lên đầy kinh ngạc “Nó sẽ cịn đi tới đâu, chưa ai lường được”
- Ngày Tnú đi lực lượng, bé Heng mới đứng “ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ
biết đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”.
- Bây giờ khi Tnú về phép, bé Heng đã trưởng thành, ăn mặc và trang bị ra vẻ một
người lính, một chiến sĩ du kích của làng. Cũng hệt như Tnú năm xưa vậy, bé Heng đã
góp phần vào sự nghiệp cách mạng của làng Xơ Man
- Nếu cụ Mết xứng đáng với hìnha nrh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh
thẳm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi
tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được”
III. TỔNG KẾT
1. NỘI DUNG
- Câu chuyện thứ nhất là câu chuyện về sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự
phát đến tự giác của dân làng Xơ Man, với triết lí cách mạng được cụ Mết - trưởng bản, đúc kết
"Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo"
18


Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về cuộc đời của Tnú - một người con của núi rừng Tây
Nguyên, của bản làng Xô Man. Tnú lớn lên trong không khí cả làng làm cách mạng nên con
người ấy nhanh chóng bén duyên. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời của biết bao nhiêu con người,

cũng là hình ảnh biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường đứng dậy
trong cuộc đọ sức cam go với đế quốc Mĩ.
2. NGHỆ THUẬT
- Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện của một đời người của Tnú lại
được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết
- Xây dựng được khơng khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo
nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết.
- Xây dựng được những hình tượng đặc sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng
của cây xà nu; hình tượng những thế hệ xà nu - những thế hệ của bản làng Xơ Man, của mảnh
đất Tây Ngun; hình tượng người anh hùng Tnú
- Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×